Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng: nghiên cứu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
-----------------------

HUỲNH THỊ VĨ DẠ

MỐI QUAN HỆ GIỮA RỦI RO THANH KHOẢN
VÀ RỦI RO TÍN DỤNG:
NGHIÊN CỨU TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------

HUỲNH THỊ VĨ DẠ

MỐI QUAN HỆ GIỮA RỦI RO THANH KHOẢN
VÀ RỦI RO TÍN DỤNG:
NGHIÊN CỨU TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số:
8340201


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHÙNG ĐỨC NAM

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này chưa từng được trình nộp để lấy học vị thạc sĩ tại bất cứ một
trường đại học nào. Luận văn này là công trình nghiên cứu riêng của tác giả, kết quả
nghiên cứu là trung thực, trong đó không có các nội dung đã được công bố trước đây
hoặc các nội dung do người khác thực hiện ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn
đầy đủ trong luận văn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 9 năm 2018

HUỲNH THỊ VĨ DẠ


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU .........................................................1
1.1 Đặt vấn đề ......................................................................................................1
1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu.....................................................................2
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu ...............................................................................2
1.2.2 Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................2
1.3 Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu ...............................................3

1.4 Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................3
1.5 Ý nghĩa nghiên cứu ........................................................................................3
1.6 Kết cấu của luận văn ......................................................................................4
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................5
2.1 Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng ...............................................................5
2.1.1 Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng ...........................................5
2.1.2 Ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và nền kinh
tế-xã hội................................................................................................................6
2.2 Rủi ro thanh khoản ........................................................................................7
2.2.1 Phân loại rủi ro thanh khoản ...................................................................7
2.2.2 Các nguyên nhân dẫn tới rủi ro thanh khoản ..........................................7
2.3 Rủi ro tín dụng .............................................................................................11
2.3.1 Phân loại rủi ro tín dụng .......................................................................11
2.3.2 Đánh giá rủi ro tín dụng ........................................................................11
2.3.3 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng ..............................................................12
2.3.4 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng ......................................................13
2.4 Lý thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng .........13
2.5 Giả thuyết nghiên cứu ..................................................................................19
2.6 Thực trạng rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam ....19
2.7 Thực trạng về rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam ......24
CHƯƠNG 3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .........................27
3.1 Dữ liệu nghiên cứu ......................................................................................27
3.2 Mô hình nghiên cứu .....................................................................................27
3.2.1 Biến nghiên cứu ....................................................................................27
3.2.2 Các biến kiểm soát ................................................................................29


3.3 Phương pháp phân tích dữ liệu ....................................................................34
3.3.1 Dữ liệu bảng ..........................................................................................34
3.3.2 Mô hình hồi quy ....................................................................................35

3.3.2.1 Mô hình hồi quy Pooled OLS............................................................35
3.3.2.2 Mô hình hồi quy tác động cố định (FEM) .........................................35
3.3.2.3 Mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên (REM) ..................................36
3.3.3 Các bước kiểm định mô hình nghiên cứu .............................................36
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..............................................................39
4.1 Thống kê mô tả các biến ..............................................................................39
4.2 Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình .......................................40
4.3 Phân tích kết quả hồi quy ............................................................................42
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ........................................50
5.1 Kết luận........................................................................................................50
5.2 Gợi ý chính sách ..........................................................................................50
5.2.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước ...............................................................50
5.2.2 Đối với các ngân hàng thương mại .......................................................50
5.3 Hạn chế của luận văn và định hướng cho nghiên cứu tiếp theo ..................51
5.3.1 Hạn chế của luận văn ............................................................................51
5.3.2 Định hướng cho nghiên cứu tiếp theo...................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NGHĨA

NHTM

Ngân hàng thương mại


NHNN

Ngân hàng Nhà nước

RRTK

Rủi ro thanh khoản

RRTD

Rủi ro tín dụng

FDIC

Tổng Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ

OCC

Văn phòng giám sát tiền tệ Mỹ

CP
OMO

Thương phiếu
Nghiệp vụ thị trường mở

IFS

Thống kê tài chính quốc tế


IMF

Quỹ Tiền tệ Quốc Tế

Pooled OLS

Mô hình hồi quy gộp

REM

Mô hình tác động ngẫu nhiên

FEM

Mô hình tác động cố định

H4

Chỉ số thanh toán nhanh

H5

Chỉ số thanh toán của vốn lưu động


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng năm 2009 so với năm 2008 của các ngân hàng 20
Bảng 2.2 Chỉ số năng lực cho vay của các ngân hàng 2009-2017 ..............................22
Bảng 2.3 Chỉ số dư nợ cho vay/tiền gửi khách hàng của các ngân hàng 2009-2017..23

Bảng 2.4 Nợ xấu của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2010-2017 .............................24
Bảng 2.5 Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ vay của các ngân hàng 2009-2017 ................25
Bảng 2.6 Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng / Nợ quá hạn của các ngân hàng 2009-2017......26
Bảng 3.1 Mô tả các biến trong nghiên cứu .................................................................32
Bảng 4.1. Thống kê mô tả các biến .............................................................................39
Bảng 4.2. Ma trận tương quan giữa các biến ..............................................................41
Bảng 4.3. Kết quả hồi quy toàn bộ giai đoạn ..............................................................43


1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1 Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngân hàng ngày càng mở rộng và phát
triển các sản phẩm với nhiều tiện ích nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Tuy
nhiên, việc mở rộng quy mô cũng như đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của ngân
hàng, các ngân hàng thương mại (NHTM) luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro. Khi rủi
ro xảy ra, cũng là lúc NHTM phải đối mặt với những nguy cơ như: giảm uy tín, mất
khả năng thanh khoản, thậm chí là đi tới phá sản. Hai trong số những rủi ro mà ngân
hàng phải đối mặt là rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng.
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về rủi ro thanh khoản và rủi ro
tín dụng của ngân hàng. Chẳng hạn như: Bryant (1980) hay Diamond & Dybvig
(1983) cho rằng, tài sản và cấu trúc nợ có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, đặc biệt đáng
chú ý là những khoản nợ không đòi được và việc rút tiền đột ngột của khách hàng.
Điều đó không chỉ đúng với tài khoản nội bảng mà còn đúng với việc cho vay và tài
trợ vốn thông qua tài khoản ngoại bảng (Holmstrom & Tirole 1996; Kashyap và cộng
sự 1999).
Dựa trên những mô hình nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản
và rủi ro tín dụng, nội dung của một số nghiên cứu gần đây chủ yếu tập trung xem
xét sự tương tác của rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng và tác động của sự tương tác

đó đến sự ổn định của ngân hàng từ nhiều góc độ khác nhau nhưng chủ yếu là từ một
quan điểm lý thuyết, đó là không chỉ rủi ro thanh khoản hay rủi ro tín dụng tác động
đến tính ổn định của ngân hàng mà cả sự tương tác giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro
tín dụng cũng có ảnh hưởng đến tính ổn định của ngân hàng (Acharya et al. 2010;
Acharya & Viswanathan 2011; Cai & Thakor 2008; Gatev và cộng sự 2009;
Goldstein & Pauzner 2005; Gorton & Metrick 2012; He & Xiong 2012a, 2012b;
Wagner 2007).
Bằng chứng từ những thất bại của các ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng
tài chính gần đây đã hỗ trợ cho các kết quả về lý thuyết và thực nghiệm. Imbierowicz
& Rauch (2014) dựa trên kết quả phân tích báo cáo của FDIC và OCC về nguyên


2

nhân thất bại của các NHTM trong suốt thời kỳ khủng hoảng gần đây là do tác động
đồng thời của rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng. Các ngân hàng không phân biệt
được sự khác nhau giữa tài sản có tính thanh khoản cao, tài sản có tính thanh khoản
thấp, các nguồn tài trợ tương ứng, và cũng không quan tâm đến những RRTD của các
tài sản. Vì thế, các ngân hàng không có sự tính toán chuẩn bị cho sự xảy ra đồng thời
của rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng trong hệ thống quản lý rủi ro của ngân hàng.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu phân tích sâu ở các khía cạnh
khác nhau về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng tại các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam. Để hiểu rõ về mối quan hệ chung cũng như chiều hướng tác
động giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Mối
quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng: nghiên cứu tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung cơ sở lý thuyết và
bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng.
Từ đó, nghiên cứu giúp các nhà quản trị rủi ro có cái nhìn tổng quát về mối quan hệ
giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng, để đưa ra những chiến lược hoạch định
quản lý rủi ro cho phù hợp.

1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng tại các
NHTM ở Việt Nam.
1.2.2 Câu hỏi nghiên cứu
Từ mục tiêu của đề tài, nghiên cứu này sẽ đi trả lời các câu hỏi sau:
-

Có tồn tại mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng hay không
và chiều hướng của mối quan hệ này là như thế nào?

-

Các biến kiểm soát nào tác động đến rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản
của các NHTM ở Việt Nam?


3

1.3 Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản (rủi ro khi
NHTM không có khả năng thanh toán tại một thời điểm nào đó, hoặc phải huy động
các nguồn vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán; hoặc do các nguyên
nhân chủ quan khác làm mất khả năng thanh toán của NHTM) và rủi ro tín dụng tại
các NHTM Việt Nam.
Dữ liệu được lấy từ các báo cáo tài chính của NHTM Việt Nam từ năm 2009
đến năm 2017.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu được sử dụng phân tích trong luận văn được thu thập từ báo cáo tài

chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm
2017, với 30 ngân hàng và 106 quan sát. Dữ liệu về các biến của nghiên cứu gồm rủi
ro thanh khoản, rủi ro tín dụng và các biến kiểm soát đều được thu thập từ báo cáo tài
chính của các ngân hàng thương mại, website của ngân hàng nhà nước, tổng cục thống
kê, World Bank và Investing1. Sau khi thu thập và sàng lọc dữ liệu, tác giả tính toán,
đưa vào mô hình và phân tích với phần mềm STATA, từ đó đưa ra kết luận về mối
quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng. Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi
quy gộp (Pooled OLS), mô hình tác động ngẫu nhiên (random effect – REM) và mô
hình tác động cố định (fixed effect – FEM).
1.5 Ý nghĩa nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa về mặt khoa học cũng như thực tiễn.
Về mặt khoa học, nghiên cứu góp phần vào bổ sung cơ sở lý thuyết về mối
quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng của ngân hàng. Luận văn cũng
đưa ra các bằng chứng thực nghiệm để kiểm chứng và bổ sung các nghiên cứu
trước.
Về mặt thực tiễn, nghiên cứu sẽ đưa ra những bằng chứng thực nghiệm mang
tính chất tham khảo cho các nhà quản trị rủi ro của ngân hàng, từ đó các nhà quản trị

1 />

4

có cái nhìn bao quát hơn về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng
để xây dựng chiến lược phù hợp để giảm thiểu rủi ro trong ngân hàng. Điều này không
chỉ góp phần duy trì sự ổn định của từng ngân hàng đơn lẻ mà còn giúp hạn chế được
rủi ro trong toàn hệ thống ngân hàng trong bối cảnh kinh tế hiện nay.
1.6 Kết cấu của luận văn
Nội dung của đề tài nghiên cứu gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu tổng quan nghiên cứu bao gồm: lý do nghiên cứu, mục
tiêu và câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên

cứu, ý nghĩa nghiên cứu.
Chương 2: Trình bày cơ sở lý thuyết của đề tài nghiên cứu, các giả thuyết liên
quan đến nội dung, và các nghiên cứu trước có liên quan.
Chương 3: Mô hình, dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. Trình bày cách đo
lường các biến, thiết kế mô hình và phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu. Thực hiện phân tích dữ liệu và kết quả nghiên
cứu.
Chương 5: Kết luận và gợi ý chính sách. Từ kết quả nghiên cứu đưa ra kết luận
cho đề tài, từ đó nêu những mặt hạn chế của đề tài đồng thời đề xuất hướng nghiên
cứu tiếp theo.


5

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1

Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

2.1.1 Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được biết đến như là những biến cố không
mong đợi mà gây ra tổn thất về tài sản của ngân hàng khi có phát sinh, làm sụt giảm
lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để hoàn
thành công việc. Nó là những mất mác ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình hoạt động
kinh doanh tác động xấu đến sự ổn định và phát triển của ngân hàng.
Khi đề cập đến vấn đề rủi ro người ta thường quan tâm đến biên độ và tần suất
xuất hiện của rủi ro để đánh giá ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh. Bởi
lẽ, rủi ro là yếu tố khách quan nên người ta không thể nào loại trừ được hẳn mà chỉ
có thể hạn chế sự xuất hiện và những tác hại của chúng gây ra cho hoạt động kinh

doanh của mình.
Có bốn lọai rủi ro cơ bản trong kinh doanh ngân hàng:
-

Rủi ro tín dụng: là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của
ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi bên đi vay không thực hiện được
việc thanh toán tiền vay theo đúng thời hạn và điều kiện trong hợp đồng
làm cho người cho vay phải gặp tổn thất về tài chính.

-

Rủi ro thanh khoản: là loại rủi ro xảy ra khi ngân hàng thiếu khả năng chi
trả do không chuyển đổi các loại tài sản ra tiền mặt kịp thời hoặc không
thể vay mượn nhằm đáp ứng các yêu cầu của hợp đồng thanh toán.

-

Rủi ro tỷ giá hối đoái: trong quá trình cho vay hoặc kinh doanh tiền tệ của
ngân hàng khi tỷ giá thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho ngân hàng thì
phát sinh rủi ro tỷ giá hối đoái.

-

Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro xảy ra khi lãi suất thị trường thay đổi hoặc
những yếu tố có liên quan đến lãi suất thay đổi gây tổn hại đến tài sản hoặc
thu nhập của ngân hàng bị sụt giảm.


6


2.1.2 Ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và nền kinh
tế-xã hội
Rủi ro xảy ra sẽ gây ra tổn hại, mất mát tài sản của ngân hàng như là bị mất
vốn vay, chi phí hoạt động gia tăng, lợi nhuận giảm và giá trị của tài sản cũng bị giảm
sút. Đồng thời, rủi ro xảy ra có thể làm giảm uy tín của ngân hàng, mất đi sự tín nhiệm
của khách hàng và có thể đánh mất cả thương hiệu. Khi ngân hàng liên tục kinh doanh
bị lỗ hay thường xuyên mất khả năng thanh khoản có thể dẫn đến cuộc rút tiền quy
mô lớn và vỡ nợ có thể xảy ra. Khi ngân hàng bị vỡ nợ và phá sản sẽ ảnh hưởng đến
hàng loạt người gửi tiền, hàng ngàn doanh nghiệp. Do không đáp ứng được vốn kịp
thời làm cho nền kinh tế suy thoái, giá cả leo thang, sức mua giảm, thất nghiệp tăng
cao và mất ổn định trật tự xã hội. Ngoài ra, một ngân hàng nào đó bị phá sản còn tạo
nên sự hoang mang, hoảng loạn trong người dân làm họ mất lòng tin vào cả hệ thống
ngân hàng gây ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng khác và ảnh hưởng đến cả nền kinh
tế.
Hơn nữa, rủi ro trong hoạt động tín dụng cũng ảnh hưởng đến kinh tế thế giới
vì khi nước ta hội nhập thế giới và toàn cầu hóa về kinh tế như hiện nay, nền kinh tế
của mỗi nước đều phụ thuộc vào tình hình kinh tế khu vực và thế giới. Cũng như quan
hệ tiền tệ, đầu tư giữa các quốc gia đang phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng của
một nước cũng ảnh hưởng ít nhiều đến các nước khác có liên quan. Thực tiễn đã
chứng minh cho ta thấy qua cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á (1997), khủng hoảng
tài chính Nam Mỹ (2001-2002) và gần đây là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
(2007-2008). Như vậy, công tác nhận biết, phân tích rủi ro là hết sức quan trong nhằm
góp phần vào công cuộc kiểm soát và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động của ngân
hàng. Từ đó, giúp cho hoạt động của hệ thống ngân hàng diễn ra suông sẻ và hiệu quả
hơn.


7

2.2


Rủi ro thanh khoản

2.2.1 Phân loại rủi ro thanh khoản
Theo Duttweiler (2008), khi nói đến đặc tính của các nguồn thanh khoản,
người ta thường phân biệt theo: tính sẵn có, cơ cấu đáo hạn, cấu trúc chi phí và rủi ro
thanh khoản. Về mặt cấu trúc, chúng thường được chia thành bốn nhóm sau:
Rủi ro thanh khoản rút tiền trước hạn: điều này liên quan đến tài sản và nợ.
Những khoản tiền gửi có thể được rút sớm trước ngày tới hạn thay vì chờ đến thời
gian đáo hạn.
Rủi ro thanh khoản có kỳ hạn: điều kiện thanh toán khác đi so với các điều
kiện của hợp đồng. Ví dụ việc trả nợ có thể bị trì hoãn.
Rủi ro thanh khoản tài trợ: Nếu một tài sản không được tài trợ hợp lý, việc tài
trợ một thương phiếu (CP) theo sau đó có thể phải được thực hiện trong những điều
kiện bất lợi, nghĩa là với giá chênh lệch cao hơn. Trong trường hợp xấu, quỹ tiền thậm
chí có thể bị rút nhiều như đã giải thích trong phần rủi ro thanh khoản rút tiền trước
hạn.
Rủi ro thanh khoản thị trường: một lần nữa thanh khoản thị trường lại có liên
quan đến tài sản và nợ. Các điều kiện thị trường bất lợi có thể làm giảm khả năng
chuyển các tài sản khả nhượng thành tiền hoặc để tài trợ cho số lượng cần thiết.
2.2.2 Các nguyên nhân dẫn tới rủi ro thanh khoản
Theo Nguyễn Bảo Huyền (2016), có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro thanh
khoản và bắt nguồn từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đó có thể là nguyên nhân
chủ quan hoặc nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ có sự bất cân xứng, bắt nguồn từ
chức năng chuyển hóa kỳ hạn của ngân hàng: huy động các khoản tiền gửi ngắn hạn
từ dân chúng để cho vay các khoản tín dụng dài hạn. Như vậy kỳ hạn của tài sản có
dài hơn kỳ hạn của tài sản nợ khiến dòng tiền của tài sản có không cân xứng với dòng
tiền cần đáp ứng việc thanh toán khi đến hạn của các tài sản nợ, gây ra khó khăn cho

ngân hàng phải lo tìm nguồn bù đắp.


8

Thứ hai, do các ngân hàng không dự tính được nhu cầu rút tiền hoặc các nghĩa
vụ phải trả tiền. Khi nhu cầu rút tiền và nghĩa vụ trả tiền vượt quá mức dự tính, các
ngân hàng này sẽ gặp khó khăn về thanh khoản.
Thứ ba, do tiềm lực tài chính của ngân hàng còn hạn chế. Vốn điều lệ là số
vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, ghi trong điều lệ của ngân hàng, được hình thành
khi ngân hàng thương mại mới được thành lập. Nó phản ánh quy mô hay thực lực tài
chính của ngân hàng thương mại. Nếu vốn điều lệ của ngân hàng thương mại càng
cao, chứng tỏ ngân hàng càng có tiềm lực tài chính và ngược lại nếu vốn điều lệ của
ngân hàng thương mại càng ít thì quy mô hoạt động của ngân hàng càng nhỏ. Các
ngân hàng nhỏ thường khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn hoặc chỉ vay được
với lãi suất cao, đặc biệt là đối với nguồn vốn vay. Có thể nói áp lực rất lớn khi các
ngân hàng này phải gánh chịu chi phí cao để có thể khắc phục khó khăn trong việc
giải quyết vấn đề thanh khoản. Quy mô vốn điều lệ nhỏ có thể là một trong những
nguyên nhân đẩy ngân hàng thương mại đến tình trạng mất khả năng chi trả và phá
sản khi nhu cầu thanh khoản tăng đột ngột.
Thứ tư, do kinh doanh nhiều loại tiền tệ, tạo nên rủi ro thanh khoản và yêu cầu
tài trợ trong từng loại tiền tệ.
Thứ năm, do uy tín của ngân hàng bị giảm khiến khách hàng gửi tiền nhanh
chóng rút tiền gây nên rủi ro thanh khoản. Đây là hệ quả của việc kinh doanh yếu
kém, công tác quảng cáo chưa được đầu tư thỏa đáng.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do các tài sản tài chính có tính nhạy cảm với sự biến động của lãi
suất. Lãi suất thay đổi ảnh hưởng lớn đến tâm lý của người gửi tiền. Trường hợp lãi
suất tăng, khách hàng sẽ rút tiền để gửi vào nơi có lãi suất cao hơn còn các khách
hàng vay giảm tối đa việc vay mới để tránh trả lãi nhiều hơn. Khi lãi suất giảm thì

phản ứng ngược lại. Trong cả hai trường hợp, biến động lãi suất ảnh hưởng đến cả
dòng tiền gửi lẫn cho vay, cuối cùng ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân
hàng. Ngoài ra, việc thay đổi lãi suất sẽ ảnh hưởng đến thị giá của tài sản tài chính
đem bán và ảnh hưởng đến chi phí đi vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.


9

Thứ hai, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chức năng
của mình trong điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng nhà nước sử dụng ba công cụ
bao gồm: nghiệp vụ thị trường mở, quy định về dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu,
và tái chiết khấu các giấy tờ có giá.
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là hoạt động của Ngân hàng Nhà nước mua
hoặc bán cho ngân hàng thương mại trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc nhà
nước. Khi muốn tăng cung tiền, Ngân hàng Nhà nước mua trái phiếu từ các ngân hàng
thương mại, số tiền mà Ngân hàng Nhà nước trả cho ngân hàng thương mại làm tăng
cung tiền cho nền kinh tế đồng thời cũng làm tăng cung thanh khoản cho ngân hàng
thương mại. Ngược lại, khi muốn giảm cung tiền, Ngân hàng Nhà nước bán trái phiếu
cho ngân hàng thương mại, số tiền mà Ngân hàng nhà Nước thu về làm giảm lượng
cung ứng tiền tệ của nền kinh tế đồng thời cũng làm giảm cung thanh toán của ngân
hàng thương mại.
Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc là biện pháp điều chỉnh mà Ngân hàng Nhà
nước bắt buộc các ngân hàng thương mại phải duy trì một tỷ lệ dự trữ tiền gửi tối
thiểu tại Ngân hàng Nhà nước. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao thì sẽ làm cho nguồn
cung thanh khoản của ngân hàng thương mại tăng và ngược lại.
Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là lãi suất Ngân hàng Nhà nước sử dụng
trong chiết khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại.
Nếu lãi suất này thấp, tức chi phí vay tiền từ Ngân hàng Nhà nước rẻ, đây sẽ
là nguồn vốn giá rẻ mà các ngân hàng thương mại có thể dễ dàng huy động để đáp
ứng nhu cầu thanh khoản.

Thứ ba, khuôn khổ pháp lý về an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín
dụng. Các cơ chế chính sách, văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của ngân hàng
được ban hành một cách rõ ràng, cụ thể như cách thức tổ chức hoạt động của cơ quan
giám sát ngân hàng, sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác giám sát từ xa và thanh tra
tại chỗ sẽ góp phần đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Thứ tư, do chu kỳ kinh doanh của khách hàng. Theo thời vụ ở những tháng
cuối năm các doanh nghiệp thường đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, quyết toán công


10

nợ cho những doanh nghiệp khác, chi trả lương thưởng cho cán bộ nhân viên, thực
hiện cam kết giải ngân cho các đối tác, giải quyết hàng tồn kho, nhập khẩu hàng
hóa…tạo nên nhu cầu tiền nhiều vào những tháng cuối năm làm tăng cầu về thanh
khoản cho ngân hàng thương mại.
Thứ năm, do tính chất đặc biệt của ngành kinh doanh tiền tệ đòi hỏi ngân hàng
thương mại phải luôn sẵn sàng đáp ứng cầu chi trả tức thì. Đối với lĩnh vực kinh
doanh khác, các doanh nghiệp có thể trì hoãn nợ với khách hàng, chậm thanh toán
với đối tác, thậm chí chủ động chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh…nhưng với
ngân hàng thương mại kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ hết sức nhạy cảm, ngân hàng
thương mại không thể trì hoãn chi trả. Bất cứ một sự chậm trễ thanh toán nào đều có
thể gây tâm lý lo lắng trong công chúng và nếu ngân hàng thương mại không giải
quyết ngay khó khăn này, khách hàng có thể kéo đến ngân hàng để rút tiền, khó khăn
thanh khoản sẽ trở nên trầm trọng và ngân hàng thương mại có thể bị phá sản. Mặt
khác, trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng thương mại , bên tài sản nợ luôn có
một tỷ lệ nhất định các khoản tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn nhưng có
thể rút trước hạn. Đây là những tài sản nợ mà ngân hàng thương mại có nghĩa vụ phải
trả ngay lập tức nếu khách hàng có nhu cầu rút, vì thế ngân hàng thương mại luôn
luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Thứ sáu, do khủng hoảng kinh tế hoặc khủng hoảng tài chính. Khủng hoảng

kinh tế hoặc tài chính dẫn tới chi phí huy động tăng cao, hiệu quả hoạt động cho vay
đầu tư giảm sút. Xét ở một khía cạnh khác, khủng hoảng xảy ra có thể làm giảm sút
niềm tin vào hệ thống tài chính, các tổ chức và người dân sẽ rút tiền khỏi các ngân
hàng thương mại gây ra áp lực về thanh khoản cho ngân hàng thương mại.
Thứ bảy, do tin đồn thất thiệt. Tin đồn thất thiệt sẽ gây mất lòng tin cá biệt vào
một tổ chức tín dụng. Cơ chế mất cân đối giữa giá trị phải trả và giá trị thu được từ
hoạt động đầu tư và cho vay sẽ xảy ra và ngân hàng thương mại đối mặt với rủi ro
thanh khoản.


11

2.3

Rủi ro tín dụng

2.3.1 Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được phân loại theo tính khách quan và tính chủ quan.
Rủi ro khách quan: là rủi ro do các nguyên nhân như thiên tai, hỏa hoạn, sự
thay đổi của chính sách quản lý kinh tế…gây ra tổn thất mặc dù người vay thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình.
Rủi ro chủ quan: là rủi ro khi có sự vô tình hay cố ý làm tổn thất của bên vay
và bên cho vay vốn.
Theo Trần Hoàng Ngân (2011), rủi ro tín dụng được phân loại theo nguyên
nhân phát sinh thì được phân loại như sau:
Rủi ro giao dịch: là rủi ro xảy ra khi có hạn chế từ giao dịch, xét duyệt vay,
đánh giá khách hàng vay. Rủi ro giao dịch gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro đảm bảo và rủi
ro nghiệp vụ.
Rủi ro danh mục: là rủi ro phát sinh khi ngân hàng có những hạn chế trong
việc quản lý danh mục cho vay. Rủi ro danh mục gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

2.3.2 Đánh giá rủi ro tín dụng
Ngân hàng dựa vào việc đánh giá rủi ro tín dụng để kiểm soát tốt hoạt động
cấp tín dụng và có những giải pháp thích hợp nhằm hạn chế rủi ro xảy ra. Trần Hoàng
Ngân (2011) đánh giá rủi ro tín dụng thông qua các chỉ số sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa tổng các khoản nợ quá hạn so với tổng
dư nợ ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm. Chỉ
tiêu này cho thấy khả năng thu hồi vốn của ngân hàng đối với các khoản vay. Tỷ lệ
nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng các khoản tín dụng của ngân hàng càng kém
và ngược lại.
Tỷ lệ nợ quá hạn

Dư nợ quá hạn

x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Theo quy định của Ngân hàng nhà nước, tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng
thương mại không vượt quá 5%.

=


12

Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa tổng các khoản nợ xấu so với tổng dư nợ
ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý hay cuối năm. Đây là chỉ
tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại.
Tỷ lệ nợ xấu


Dư nợ xấu

=

x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Trong đó, nợ xấu là những khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5.
Hệ số rủi ro tín dụng
Hệ số rủi ro tín dụng cho thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tổng tài
sản có. Khoản mục này càng lớn thì lợi nhuận sẽ càng lớn nhưng đồng thời rủi ro tín
dụng cũng rất cao.
Hệ số rủi ro tín dụng

Tổng dư nợ cho vay

=

Tổng tài sản có

x 100%

Tỷ lệ xóa nợ:
Tỷ lệ xóa nợ

Các khoản xóa nợ ròng

=

x 100%
Tổng dư nợ cho vay

Khoản xóa nợ ròng là mức tổn thất thật sự, phản ánh mức độ rủi ro trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, tỷ lệ xóa nợ cao cho thấy hoạt động tín dụng
của ngân hàng bị tổn thất lớn, danh mục tín dụng có chất lượng thấp, hoạt động kinh
doanh không hiệu quả.
Tỷ lệ khả năng bù đắp rủi ro tín dụng:
Tỷ lệ khả năng
bù đắp RRTD

=

Dự phòng RRTD được trích lập
Nợ quá hạn khó đòi

x 100%

2.3.3 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Khi ngân hàng huy động vốn ngân hàng phải trả lãi và vốn cho khoản tiền huy
động được khi đến hạn, nếu gặp rủi ro tín dụng thì ngân hàng không thu được cả vốn
gốc và lãi cho vay khi đó ngân hàng bị mất cân đối trong thu chi, vòng quay vốn tín
dụng bị chậm lại làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả có thể mất khả năng


13

thanh khoản từ đó làm giảm lòng tin của người gửi tiền từ đó ảnh hưởng đến uy tín
của ngân hàng đưa ngân hàng đến phá sản.
Đối với nền kinh tế
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính, có chức năng huy động vốn
nhàn rỗi để cho vay lại, nên khi có rủi ro tín dụng xảy ra thì chẳng những ngân hàng

bị thiệt mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng. Vả lại, khi một ngân hàng
gặp phải rủi ro tín dụng sẽ có tác động dây chuyền, làm cho toàn bộ hệ thống ngân
hàng gặp khó khăn.
Khi uy tín của ngân hàng giảm sút, hệ thống ngân hàng không còn khả năng
thực hiện chức năng trung gian tài chính thì nền kinh tế sẽ lâm vào tình trạng khó
khăn, tất yếu những hiện tượng tiêu cực trong xã hội sẽ diễn ra.
2.3.4 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Theo Nguyễn Minh Kiều (2012), rủi ro tín dụng xảy ra có thể là do nguyên
nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, hoặc từ phía khách hàng và ngân hàng.
Về phía khách hàng
Rủi ro tín dụng phát sinh là từ nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Về nguyên nhân chủ quan, là nguyên nhân liên quan đến hành vi và ý chí chủ
quan của khách hàng, là những nguyên nhân xảy ra từ phía khách hàng như thiếu
thiện chí trả nợ.
Về nguyên nhân khách quan, là những nguyên nhân khách hàng không lường
trước được như việc thay đổi về pháp lý, giá cả hoặc chính sách của nhà nước, làm
cho khách hàng không có khả năng trả nợ dù có thiện chí.
Về phía ngân hàng
Rủi ro tín dụng xảy ra trong quá trình phân tích và thẩm định không kỹ dẫn
đến quyết định cho vay sai. Hơn thế nữa, mặc dù quá trình phân tích và thẩm định tốt
nhưng không kiểm tra kiểm soát sau vay khi khách hàng sử dụng vốn vay không đúng
mục đích dẫn đến ngân hàng không phát hiện để xử lý kịp thời.
2.4

Lý thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng
- Các lý thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng:


14


Theo lý thuyết hiện đại trung gian tài chính, ngân hàng tồn tại bởi vì nó thực
hiện hai vai trò chính trong nền kinh tế đó chính là tạo ra tính thanh khoản và chuyển
đổi những rủi ro. Nghiên cứu xây dựng từ nền tảng hai nghiên cứu lớn liên quan đến
kinh tế vi mô trong ngân hàng: thuyết trung gian tài chính đại diện nổi bật là Bryant
(1980a) và Diamond and Dybvig (1983a) về sau có mô hình, nghiên cứu mở rộng của
Qi (1994) hay Diamond (1997) đã giải thích cách những ngân hàng làm việc và những
nguy cơ mà chính hoạt động ngân hàng mang lại. Họ nghiên cứu từ những tổ chức
công nghiệp mở rộng đến ngân hàng, mà nổi bật chính là mô hình ngân hàng của
Monti-Klein và những nghiên cứu liên quan sau đó.
Một số nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng có mối quan hệ giữa rủi ro thanh
khoản và rủi ro tín dụng. Mô hình của Monti-Klein và những mở rộng của mô hình
này của Prisman et al. (1986) cho rằng việc trả nợ không đúng kỳ hạn hay mất khả
năng trả nợ của người đi vay tiền cùng với việc rút tiền đột ngột khỏi tài khoản từ các
quỹ được cho là nguyên nhân làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Bởi ngoài vốn cổ
phần, những khoản nợ khác và chứng khoán sẵn sàng bán thì một ngân hàng muốn
tối đa hóa lợi nhuận chỉ khi họ gia tăng khoảng cách của lãi suất tiết kiệm và cho vay,
từ đó hình thành một tỷ lệ tái cấp vốn ngoại sinh cũng như dẫn đến rủi ro ngẫu nhiên
từ những người đi vay tiền và rút tiền từ các quỹ. Còn theo nghiên cứu của Dermine
(1986) cho rằng khi gặp rủi ro thanh khoản lợi nhuận thu được sẽ thấp hơn chi phí,
khi đó khoản vay mất khả năng chi trả sẽ tăng lên và nó chính là nguyên nhân làm
giảm lưu lượng tiền mặt và khấu hao.
- Một số nghiên cứu thực nghiệm xem xét mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản
và rủi ro tín dụng:
Berger & Bouwman (2009) đã sử dụng dữ liệu gồm tất cả ngân hàng Mỹ từ
năm 1993-2003. Kết quả cho thấy việc tạo ra thanh khoản của ngân hàng tăng lên
mỗi năm và vượt quá 2,8 nghìn tỷ USD trong năm 2003. Các ngân hàng lớn, các
thành viên của công ty sở hữu đa ngân hàng, ngân hàng bán lẻ và các ngân hàng sáp
nhập gần đây tạo ra tính thanh khoản nhiều nhất. Mối quan hệ giữa vốn và việc tạo



15

ra thanh khoản của ngân hàng có mối quan hệ dương đối với các ngân hàng lớn và
quan hệ âm đối với các ngân hàng nhỏ.
Foos và cộng sự (2010) đã nghiên cứu về tăng trưởng tín dụng và rủi ro ngân
hàng, bằng cách phân tích sự tăng trưởng có ảnh hưởng đến mức độ rủi ro của các
ngân hàng tại 14 nước phương Tây. Nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu Bankscope của
hơn 10.000 ngân hàng tư nhân từ năm 1997 đến năm 2005 và đưa ra ba giả thuyết về
mối quan hệ giữa sự tăng trưởng tín dụng trong quá khứ với tổn thất cho vay, lợi
nhuận ngân hàng và khả năng thanh toán của ngân hàng. Kết quả, nghiên cứu của
Foos và cộng sự ủng hộ quan điểm rằng sự tăng trưởng cho vay sẽ dẫn đến tổn thất
cho vay trong ba năm tiếp đó, giảm thu nhập lãi suất tương đối và giảm tỷ lệ vốn.
Imbierowicz & Rauch (2014) đã sử dụng dữ liệu từ các ngân hàng ở Mỹ từ
năm 1998 đến năm 2010 để phân tích mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro
tín dụng và mối quan hệ này ảnh hưởng đến xác suất vỡ nợ của các ngân hàng. Kết
quả của nghiên cứu cho thấy cả hai rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng không có
mối quan hệ đối ứng về mặt kinh tế ở cả quá khứ và hiện tại. Tuy nhiên, mối quan hệ
này ảnh hưởng đến xác suất vỡ nợ của ngân hàng. Hiệu ứng này có hai phần: từng rủi
ro thanh khoản và rủi ro tín dụng riêng biệt làm tăng xác suất vỡ nợ của ngân hàng
và ảnh hưởng của sự tương tác mối quan hệ này phụ thuộc vào mức tổng thể của rủi
ro ngân hàng, có thể làm tăng hoặc giảm rủi ro vỡ nợ của ngân hàng.
Iyer & Puri (2008) nghiên cứu về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa người
gửi tiền và ngân hàng. Nghiên cứu này cho thấy hiệu quả của bảo hiểm tiền gửi, vai
trò của các mạng xã hội và tầm quan trọng của ngân hàng được gửi tiền ảnh hưởng
đến người gửi tiền trong giai đoạn phá sản của ngân hàng. Nghiên cứu nhận thấy bảo
hiểm tiền gửi chỉ có hiệu quả một phần trong việc ngăn ngừa sự phá sản của ngân
hàng và hiệu ứng mạng xã hội là quan trọng nhưng cũng bị giảm nhẹ bởi các yếu tố
khác, đặc biệt là mối quan hệ giữa ngân hàng và người gửi tiền. Tóm lại, nghiên cứu
nhận định người gửi tiền có ảnh hưởng đến sự phá sản của ngân hàng và kết quả của
nghiên cứu chứng minh rằng, người gửi tiền có ảnh hưởng cơ bản đến sự phá sản của

một ngân hàng.


16

Một số nghiên cứu cho rằng rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng có mối tương
quan cùng chiều và giả định này được đưa ra bởi thuyết trung gian tài chính theo mô
hình của Bryant (1980a) và Diamond and Dybvig (1983a). Theo Samartın (2003)́ và
Iyer and Puria (2012) thì cho rằng những yếu tố ngoại sinh của mô hình chỉ ra những
tài sản rủi ro của ngân hàng cùng với sự không chắc chắn về thanh khoản của nền
kinh tế là nguyên nhân khơi màu làm cho hoạt động ngân hàng trở nên hoảng loạn
đồng thời cho rằng rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng sẽ quan hệ cùng chiều và
cùng nhau góp phần gây nên sự mất ổn định trong ngân hàng. Quan điểm về mối quan
hệ cùng chiều giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng cũng được đưa ra bởi nhóm
rất mới và tập trung vào giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2007-2008 đó là các nghiên
cứu của Diamond and Rajan (2005), Acharya and Viswanathan (2011), Gorton and
Metrick (2012) và He and Xiong (2012b).
Nghiên cứu của Diamond and Rajan (2005) được xây dựng và phát triển trên
mô hình của Diamond and Rajan (2001) khẳng định rằng rủi ro tín dụng cùng với rủi
ro thanh khoản có cao hơn hay không phụ thuộc vào nhu cầu của những người gửi
tiền bởi vì nếu có quá nhiều dự án kinh tế không khả thi mà vốn của nó từ các khoản
vay mượn thì ngân hàng không thể thỏa mãn nhu cầu của những người gửi tiền khi
họ cần rút tiền. Nếu những tài sản của những dự án này ngày càng giảm giá trị thì
ngày càng nhiều người gửi tiền sẽ yêu cầu lấy lại những khoản tiền gửi của họ. Mô
hình của Acharya and Viswanathan (2011) dựa trên giả định rằng những công ty tài
chính tăng khoản nợ lên và tái tục qua các năm cũng được xem như là tài sản tài
chính. Một khi nợ trong hệ thống ngân hàng càng nhiều thì lợi tức hoạt động của ngân
hàng càng gặp rủi ro đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng khi mà giá trị của tài sản bị
hao hụt, ngân hàng gặp khó khăn trong việc xoay sở các khoản nợ và khi đó ngân
hàng gặp vấn đề về thanh khoản.

He and Xiong (2012a) dựa trên nghiên cứu của Diamond and Dybvig (1983b)
cũng tập trung nghiên cứu để tái đầu tư các khoản nợ rủi ro. Họ nhận thấy rằng những
khoản nợ đáo hạn của người cho vay (những ngân hàng đầu tư) là ngắn hạn từ đó các
ngân hàng thực hiện rải đều các khoản nợ này suốt thời gian và nối tiếp nhau để giúp


17

ngân hàng tránh khỏi rủi ro hoạt động khi các hợp đồng nợ hết hạn cùng một thời
gian. Và nhận thấy rằng hệ thống sẽ cân bằng nếu mỗi người cho vay không tái tục
các hợp đồng nợ của mình khi giá trị tài sản cơ bản xuống thấp hơn một ngưỡng nào
đó. Kết quả của vòng xoay ganh đua danh lợi này ngân hàng có nhiều khả năng tháo
chạy nếu giá trị tài sản giảm. Một quan điểm khác về mối quan hệ giữa rủi ro thanh
khoản và rủi ro tín dụng được nghiên cứu bởi Gorton and Metrick (2012) thông qua
phân tích thực nghiệm cho thấy bằng cách nào đó một ngân hàng hoạt động dựa trên
những nhà đầu tư hoảng loạn, điều này xảy ra trong thị trường chứng khoán ngân
hàng hiện đại, trái ngược với hoạt động ngân hàng truyền thống. Trong cuộc khủng
hoảng tài chính gần đây, kết luận trên giúp am hiểu hơn về rủi ro tín dụng trong ngân
hàng khi duyệt những món vay dưới chuẩn, đây cũng chính là nguyên nhân làm cho
tỷ lệ tái cấp vốn và sự cắt giảm các quỹ trong thị trường liên ngân hàng tăng lên đáng
kể. Như vậy, rủi ro tín dụng có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản.
Trong những năm qua, có rất nhiều bài báo đề cập đến mối quan hệ giữa rủi
ro thanh khoản và rủi ro tín dụng. Một số nghiên cứu đại diện cho lý thuyết tài chính
trung gian cổ điển, nghiên cứu về cách thức làm việc với các nguồn rủi ro và lợi nhuận
của ngân hàng cho rằng ít nhất về mặt lý thuyết có tồn tại mối quan hệ giữa rủi ro
thanh khoản và rủi ro tín dụng (Bryant 1980; Diamond 1997; Diamond & Dybvig
1983; Qi 1994). Imbierowicz & Rauch (2014) giả định có sự phụ thuộc giữa rủi ro
thanh khoản và rủi ro tín dụng và mối quan hệ này là cùng chiều nhưng kết quả nghiên
cứu cho thấy không tồn tại mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng tại
các ngân hàng ở Mỹ.

Khi phân tích về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng, một
số nghiên cứu đã chỉ ra rằng hai loại rủi ro này có mối quan hệ cùng chiều. Như
Dermine (1986), một khoản vay không đòi được nợ làm tăng rủi ro thanh khoản vì
khoản vay đó gây ra sự sụt giảm của dòng tiền và khấu hao. Theo nghiên cứu này, rủi
ro thanh khoản và rủi ro tín dụng có sự tương quan dương. Samartın (2003) và ́ Iyer
& Puri (2008) cho thấy các tài sản rủi ro của ngân hàng cùng với sự không chắc chắn
về nhu cầu thanh khoản của nền kinh tế có thể dẫn đến sự thiếu hụt thanh khoản dựa


18

trên sự hoảng loạn thông thường của người gửi tiền. Dựa vào các mô hình này, rủi ro
thanh khoản và rủi ro tín dụng là quan hệ đồng biến, hai loại rủi ro này cùng tạo ra sự
bất ổn của ngân hàng.
Mối quan hệ cùng chiều giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng cũng được
giải thích bởi các nghiên cứu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính (Acharya &
Viswanathan 2011; Diamond & Rajan 2005; Gorton & Metrick 2012; He & Xiong
2012a). Chẳng hạn như Diamond & Rajan (2001) và Diamond & Rajan (2005) giải
thích nếu ngân hàng cho vay quá nhiều dự án rủi ro thì ngân hàng không thể đáp ứng
nhu cầu rút tiền của khách hàng. Nếu các tài sản dùng để cho vay các dự án rủi ro này
càng giảm giá trị thì càng có nhiều người đi rút tiền. Kết quả là rủi ro tín dụng càng
cao thì dẫn tới rủi ro thanh khoản càng cao do nhu cầu rút tiền của người gửi tiền.
Một quan điểm khác về mối quan hệ cùng chiều giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín
dụng được nghiên cứu bởi (Gorton & Metrick 2012). Phân tích thực nghiệm của
nghiên cứu này minh chứng rằng việc rút tiền đột ngột tại một ngân hàng như thế nào
là dựa vào tâm lý hoảng loạn của nhà đầu tư, có thể xảy ra trong thời hiện đại – thời
ngân hàng được chứng khoán hóa, trái ngược với việc rút tiền đột ngột tại một ngân
hàng truyền thống. Bằng chứng của nghiên cứu này cho thấy trong các cuộc khủng
hoảng tài chính gần đây, việc nhận thức rủi ro tín dụng trong các hình thức cho vay
dưới chuẩn đã gây ra tình trạng tái tài trợ và tỷ lệ chiết khấu (hair-cut) trên thị trường

liên ngân hàng tăng lên đáng kể. Nghiên cứu này cũng nhận thấy, rủi ro tín dụng cảm
nhận (perceived credit risk) khác với rủi ro tín dụng thực tế, dẫn đến rủi ro thanh
khoản trong các ngân hàng.
Bên cạnh đó, rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng cũng có mối quan hệ ngược
chiều với nhau. Acharya và cộng sự (2010) cho rằng việc nắm giữ tiền mặt trong ngân
hàng tăng lên rất nhanh trong giai đoạn khủng hoảng tài chính gần đây. Nghiên cứu
nhận định việc nắm giữ tiền mặt làm tăng thanh khoản cho ngân hàng, nhưng mục
đích giữ tiền mặt là để các nhà quản lý chủ động trong việc mua sắm tài sản với giá
rất thấp của các ngân hàng khác trong giai đoạn khủng hoảng, tài sản được bán với
giá thấp đi kèm với rủi ro không lường trước. Theo nghiên cứu này, rủi ro thanh khoản


×