Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Lạm phát của Việt Nam và các giải pháp kiềm chế lạm phát giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM
---------------

NGUYỄN THỊ BÍCH

LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC
GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM
---------------

NGUYỄN THỊ BÍCH

LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC
GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành : Kinh Tế Tài Chính Ngân Hàng
Mã số :60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS.PHAN THỊ CÚC


TP. Hồ Chí Minh - Năm 2008


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1

2.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

1

3.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2

4.

Ý NGHĨA THỰC TIỂN CỦA ĐẾ TÀI

2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT

1.1.

KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA LẠM PHÁT

4

1.2.

CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ LẠM PHÁT

5

1.3.

CÁCH ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT

7

1.3.1 Cách đo lường lạm phát trên thế giới

7

1.3.2. Cách đo lường lạm phát của Việt Nam

7

PHÂN LOẠI LẠM PHÁT

9


1.4.1 Lạm phát vừa phải

9

1.4.2 Lạm phát phi mã

10

1.4.3 Siêu lạm phát

10

NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT

12

1.5.1 Lạm phát do cầu kéo

12

1.5.2 Lạm phát do chi phí đẩy

14

1.5.3 Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế

15

1.5.4 Lạm phát do xuất khẩu:


16

1.5.5 Lạm phát do nhập khẩu:

16

1.5.6 Lạm phát tiền tệ:

16

1.6.

KIỀM CHẾ LẠM PHÁT

18

1.7.

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CỦA VIỆC KIỀM CHẾ LẠM PHÁT

19

1.8.

CÁC KINH NGHIỆM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT

1.4.

1.5.



CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.

20

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
2.1.

PHÂN TÍCH DIỂN BIẾN LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
SAU KHI GIA NHẬP AFTA VÀ MỘT NĂM GIA NHẬP WTO

24

2.2.

ĐẶC ĐIỂM CỦA LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM

26

2.3.

PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN, MỨC ĐỘ CỦA TÌNH HÌNH
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM:

2.4

27

TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM: 29


2.5

2.4.1 Tác động của Lạm phát đến tăng trưởng kinh tế:

29

2.4.2 Tác động của lạm phát đến tỷ lệ thất nghiệp

32

2.4.3Tác động của lạm phát cán cân đến thanh toán quốc tế

34

NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM

35

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1

ĐÁNH GIÁ BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN VỪA QUA
3.1.1 Những giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính Phủ

46
46

3.1.2. Đánh giá biện pháp kiềm chế lạm phát tại Việt Nam

trong thời gian vừa qua
3.2.

49

ĐỊNH HƯỚNG CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC
KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN TỚI

56

3.3.

DỰ ĐOÁN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 60

3.4.

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
TRONG THỜI GIAN TỚI:

KẾT LUẬN

64
72


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN

Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á


CPI

Chỉ số giá tiêu dung

CSTT

Chính sách tiền tệ

FDI

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

NHNN

Ngân hàng Nhà Nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTW

Ngân hàng Trung ương

ODA


Vốn viện trợ không hoàn lại

TTCK

Thị trường chứng khoán

XNK

Xuất nhập khẩu


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng qua các quý giai đoạn 1996-2004 (%)

24

Bảng 2.2: Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế, xã hội chủ yếu năm 2004

24

Bảng 2.3: Chỉ số giá tiêu dùng qua các tháng trong 6 tháng đầu năm 2005 (%)

25

Bảng 2.4: Lạm phát ở Việt Nam từ khi đổi mới

28

Bảng 2.5: Lạm phát và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996-2004 (%)


30

Bảng 2.6: Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế trung bình qua các giai đoạn (%) 32
Bảng 2.7 Lạm phát và thất nghiệp giai đoạn 1996-2004 (%)

33

Bảng 2.8: Lạm phát và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1996-2004

34

Bảng 2.9: Cung – cầu ngoại tệ của Việt Nam (tỉ USD)

36

Bảng 3.1: Thống kê và dự đoán chỉ số lạm phát năm 2008:

61

Bảng 3.2: Tốc độ tăng của chỉ số CPI trong các tháng so với tháng trước

61

Bảng 3.3: Tổng hợp và dự đoán các chỉ tiêu kinh tế - xã hội từ năm 2005-2012

62

Bảng 3.4 : Dự đoán các chỉ tiêu kinh tế - xã hội từ năm 2010-2017


63


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình2.1 : Chỉ số giá tiêu dùng

26

Hình 2.2: Lạm phát và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996-2004 (%)

31

Hình 2.3: Lạm phát, thất nghiệp giai đoạn 1996-2004

33

Hình 2.4: Lạm phát và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1996-2004

35

Hình 2.5: Ảnh hưởng của việc tăng giá xăng lên CPI qua các giai thời kỳ.

41

Hình 3.1: Tỷ lệ tăng GDP thực từ năm 2003 -2012

63

Hình 3.2: Tỷ lệ tăng GDP thực từ năm 2003 -2012


64


1

MỞ ĐẦU
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Có thể nói lạm phát là một vấn đề luôn làm đau đầu các nhà hoạch định chính
sách kinh tế. nói lạm phát là một vấn đề cũ thì không có gì sai, bởi vì từ xưa tới nay có
rất nhiều nhà kinh tế đã gián tiếp hay trực tiếp đề cập về nó. Song phạm vi lạm phát lúc
nào cũng là chủ đề mới cả, nó thay đổi từng ngày từng giờ, thay đổi liên tục, có khi tạm
ổn, có khi giảm xuống, có khi lên cơn sốt. trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, lạm
phát có những sắc thái riêng. Diễn biến tình hình thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng nước
ta đã làm hao tốn biết bao giấy mực của các nhà hoạch định, nhà nghiên cứu.
Vậy nền kinh tế nước ta trong năm 2008 và những năm trước đó có lạm phát
hay không? Nếu có thì là bao nhiêu? Cao hay thấp? Mức lạm phát đó có ảnh hưởng
như thế nào đến nền kinh tế? Những nguyên nhân nào gây ra lạm phát ở nước ta?
Những câu hỏi này cần phải được làm sáng tỏ và trên cơ sở đó để xuất những giải pháp
thích hợp để góp phần kiềm chế lạm phát, phát triển kinh tế xã hội theo mục tiêu đề ra.
Vì vậy, mặc dù lạm phát là một vấn đề phức tạp, thường xuyên biến động và có
liên quan đến rất nhiều lĩnh vực nhưng với mong muốn bằng những kiến thức đã tiếp
thu được để phân tích diễn tiến của tình hình lạm phát ở nước ta trong thời gian qua và
dự báo trong thời gian sắp tới qua đó đưa ra những giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát
tốt hơn góp phần vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nên em đã chọn lạm phát làm
luận văn tốt nghiệp cao học kinh tế.
2.


ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Xuất phát từ những lý do đã trình bày trên, đề tài tập trung vào nghiên cứu các
vấn đề như sau:


2

1-Nêu ra những quan điểm, lý luận về lạm phát, từ đó đề cập đến những quan
điểm được vận dụng phổ biến và phù hợp với nền kinh tế Việt Nam.
2-Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ năm 2003 đến năm
2008 (là khoảng thời gian kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập vào các tổ chức kinh
tế như AFTA, WTO).
3-Nghiên cứu phát hiện ảnh hưởng của lạm phát đối với đời sống nhân dân nói
chung và đối với nền kinh tế nói riêng như việc làm, cán cân thanh toán, lãi suất, tỷ giá
hối đoái…. Trong đó chú trọng nghiên cứu về ảnh hưởng của lạm phát trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế.
4-Trên cơ sở phân tích diễn biến tình hình lạm phát ở nước ta, đưa ra những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát.
5-Đề ra những giải pháp kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định nền kinh tế.
3.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn đi vào thu thập các số liệu kinh tế liên quan đến lạm phát như tỷ giá
hối đoái, lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng…. Là những số liệu cần thiết cho việc nghiên
cứu. Những số liệu này được thu thập trên các phương tiện thông tin đại chúng, các dữ
liệu thống kê.
4.


Ý NGHĨA THỰC TIỂN CỦA ĐẾ TÀI

Trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam được xem là điểm
đến an toàn về chính trị và là một nền kinh tế đang nóng dần lên. Nếu chúng ta tạo
được một nền kinh tế ổn định thì sẽ hứa hẹn một khả năng thu hút đầu tư nước ngoài
rất lớn, tạo điều kiện phát triển nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.


3

Tham gia rộng hơn vào nền kinh tế thế giới cũng đặt ra cho Việt Nam những
thách thức không phải nhỏ. Vươn xa hơn ra biển lớn, con thuyền kinh tế xã hội Việt
Nam cũng đứng trước nguy cơ phải chống chọi với những cơn bão lớn. Đó là những cú
sốc từ bên ngoài như sự thay đổi của giá dầu, giá vàng, giá đô la Mỹ… Những cú sốc
này làm cho nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng theo hướng bất lợi. Những chính sách
kinh tế xã hội đề ra có thể sẽ không đạt được.
Muốn đạt được những thành tựu đồng thời hạn chế được tác động của những cú
sốc nêu trên, trước hết, cần phải ổn định thị trường tài chính tiền tệ quốc gia, mà cụ thể
ở đây là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng nội tệ. Có như vậy, chúng ta mới có
đủ sức “đề kháng” để chống chọi với những “căn bệnh kinh tế” lây lan trong tiến trình
hội nhập.
Với mong muốn đó, đề tài đi sâu vào nghiên cứu diễn biến của tình hình lạm
phát ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, tìm ra nguyên nhân và từ đó đưa ra giải pháp
khắc phục nhằm ổn định thị trường kinh tế trong nước, tạo điều kiện thu hút đầu tư
nước ngoài, phát triển nền kinh tế quốc gia. Đó chính là ý nghĩa thiết thực nhất mà đề
tài muốn thể hiện
Toàn bộ nội dung của đề tài thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về lạm phát.
Chương 2: Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam.
Chương 3: Đề xuất giải pháp kiềm chế lạm phát tại Việt Nam.



4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT

1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA LẠM PHÁT
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của
nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền
tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì
người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia,
còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi
thị trường toàn cầu.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng sự tăng lên của giá cả chính là một trong những
biểu hiện cơ bản của lạm phát. Việc xem xét lạm phát tập trung vào nghiên cứu những
biểu hiện của lạm phát, thể hiện qua việc gia tăng của mức giá chung với tốc độ cao và
kéo dài. Để đo lường mức giá chung trong nền kinh tế, người ta thường dùng các khái
niệm chỉ số giá. Chỉ số giá bao gồm một số loại như: Chỉ số giá bán lẻ - CPI –
Consumer Price Index; Chỉ số giá bán buôn – WPI - Wholesale Price Index; Chỉ số giá
sản xuất – PPI – Producer Price Index,..... Nhưng thông thường thì người ta dùng chỉ số
giá bán lẻ để đo lường mức độ lạm phát.
Nếu nền kinh tế năm nay có lạm phát 10%/năm tức là mức giá cả chung trong
nền kinh tế tăng lên 10% so với năm trước đó. Điều đó không có nghĩa là giá cả của tất
cả các hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ là 10%, mà những hàng hóa khác nhau sẽ
có những tỷ lệ tăng khác nhau và thậm chí có mặt hàng giá giảm hoặc giá không đổi.


5


Lạm phát, về bản chất, là do khối lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá khối
lượng hàng hóa và dịch vụ cung ứng, dẫn đến sự tăng giá đồng loạt, liên tục và ở mức
đáng kể. Từ đó, người ta thường lấy chỉ số giá tăng để nói lên mức độ lạm phát. Lạm
phát thường đi kèm với tăng trưởng kinh tế, tăng số lượng công ăn việc làm. Bản chất
lạm phát không xấu, nếu lạm phát nhẹ, kiểm soát được, vì nó kích thích đầu tư, kích
thích xuất khẩu và cải thiện công ăn việc làm. Nhưng khi lạm phát tăng lên quá mức,
đến 2 con số trở lên, ngoài tầm kiểm soát, sẽ gây tổn hại cho nền kinh tế và cuộc sống
người dân.
1.2. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ LẠM PHÁT
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển và cận đại thì lạm phát dưới
chủ nghĩa tư bản là sự tràn ngập trên các kênh lưu thông một khối lượng dấu hiệu giá
trị (tiền giấy) quá thừa dẫn đến làm mất giá từng phần dấu hiệu giá trị so với mệnh giá
danh nghĩa của nó. Khi đó các nhà kinh tế cho rằng khối lượng tiền bơm ra lưu thông
(Kc) lớn hơn khối lượng tiền cần thiết hay sức hấp thụ của thị trường hàng hóa (Kt);
Biểu hiện của hiện tượng này là tiền giấy mất giá so với hàng, với vàng, với ngoại tệ.
Người dân không muốn giữ tiền và không muốn đem tiền đến gửi tại các NH mà
chuyển vào đầu tư trực tiếp hoặc ồ ạt rút tiền về để mua sắm bất động sản, tích trữ
vàng. Kết quả là hệ thống NH thì thiếu tiền mặt nghiêm trọng, nạn khất nợ trở thành
phổ biến trong khi tiền ngoài lưu thông tràn ngập, các nhu cầu vay qua NH bị từ chối vì
không có nguồn để đáp ứng. Người có hàng thì mặc sức tăng giá với tốc độ lớn hơn
tốc độ lạm phát, người có thu nhập bằng tiền thì bị tước đoạt dần. Cũng theo các nhà
kinh tế học cổ điển thì dường như nạn lạm phát dưới chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn do
ý chí chủ quan của giai cấp bóc lột thông qua quyền thao túng hệ thống các Ngân hàmg
(trước hết là NH phát hành) gây ra. Từ đó họ đã nhìn lạm phát như một tai hoạ từ phía
thể chế mà muốn khắc phục nó hầu như chỉ có thể thông qua một cuộc cách mạng tư sản.


6


Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì lạm phát là một căn bệnh
kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Nó có tính thường trực, nếu không
thường xuyên kiểm soát, không có những giải pháp chống lạm phát thường trực, đồng
bộ và hữu hiệu thì lạm phát có thể xẩy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kỳ
chế độ xã hội nào. Các nhà kinh tế này cho rằng biểu hiện của lạm phát là: khi mức
chung của giá cả hàng hoá và chi phí sản xuất đồng thời tăng lên một cách phổ biến
trong một khoảng thời gian đủ dài để nhận rõ xu hướng này. Do đó nếu giá cả chỉ tăng
ở một vài nhóm hàng mang tính đột biến hay tính thời vụ thì phải loại bỏ các yếu tố đó
theo cách tính chỉ số lạm phát cơ bản. Lạm phát phản ánh thuần tuý quan hệ hàng tiền trên một qui mô phổ biến và có một thời gian đủ dài để khẳng định xu hướng của
nó. Nguyên nhân của lạm phát bao gồm một tổ hợp rất nhiều nhân tố trong đó có thể
chia ra thành một số nhóm chủ yếu là: Lạm phát do cầu kéo; Lạm phát do chi phí đẩy;
Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế và Lạm phát do tình trạng không ổn định về
kinh tế - chính trị - xã hội tạo thành tâm lý đẩy giá lên và đồng tiền bị mất uy tín trong
nền kinh tế. Trong các nhân tố nói trên, ba nhóm nhân tố đầu tiên có tác động mang
tính thường xuyên và cơ bản nhất đến các cấp độ phát sinh của lạm phát.
Vậy một điều cần rút ra ở đây là: Dù theo quan điểm nào chăng nữa thì nói
chung lạm phát vẫn là một hiện tượng kinh tế khách quan và là đối tượng cần đặc biệt
quan tâm của mọi chính phủ. Trong nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ nói chung, nền kinh
tế thị trừơng nói riêng, người ta không thể chối bỏ lạm phát nhưng nếu có nhận thức
đúng bản chất kinh tế của nó thì vẫn có thể chế ngự và kiểm soát được lạm phát. Mặt
khác nguyên nhân của lạm phát là không hoàn toàn do chiếc máy bơm tiền của NHTW
tạo ra mặc dù suy cho cùng thì bản chất của lạm phát vẫn là hiện tượng kinh tế được
nẩy sinh trong mối quan hệ không tương thích một cách phổ biến giữa cung và cầu
hàng hoá trong cơ chế thị trường mà ở đây, "cung" là hàng và "cầu" là tiền. Cần phải
bình tĩnh nhận định và chủ động chế ngự các khả năng bùng nổ những nhân tố tiềm ẩn
của lạm phát.


7


1.3. CÁCH ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT
1.3.1 Cách đo lường lạm phát trên thế giới
Ở Mỹ, Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (FED) chọn Chỉ số trượt giá tổng tiêu dùng
cá nhân làm cơ sở cho các quyết định của mình. Chỉ số này rộng hơn CPI và không bị
ảnh hưởng bởi sự thay đổi thói quen tiêu dùng trong dân chúng nên nó là thước đo rất
tốt cho tình trạng lạm phát hiện thời.
Với đa số các nước khác, ngân hàng Trung Ương thường sử dụng CPI đã được
hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ vì không có được số liệu của chỉ số trượt giá tổng tiêu dùng
cá nhân tốt như của Mỹ.
Điều đáng lưu ý là FED và một số ngân hàng trung ương như RBA của Úc,
RNZ của New Zealand, BoJ của Nhật loại bỏ một số loại hàng hóa có độ biến thiên lớn
(lương thực, năng lượng, lãi suất mua nhà) ra khỏi giỏ hàng hóa tính CPI lạm phát cơ
bản. Lập luận của những ngân hàng này là những thành phần nói trên mặc dù có mức
độ dao động lớn nhưng về lâu dài không làm ảnh hưởng đến xu hướng chung của lạm
phát, bởi vậy không ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát. Ngoài ra sự biến động của
những yếu tố này thường nằm ngoài khả năng kiểm soát và tầm ảnh hưởng của các
ngân hàng trung ương (ví dụ thiên tai dịch bệnh ảnh hưởng đến giá lương thực) nên
đằng nào họ cũng không thể can thiệp được.
Ảnh hưởng của việc loại bỏ các yếu tố có độ biến thiên lớn ra khỏi rổ hàng hóa
tính CPI rất quan trọng cho VN. Hiện tại chỉ riêng lương thực thực phẩm đã chiếm
42.85% và giá lương thực thực phẩm của Việt nam có độ biến thiên cao hơn so với
nhiều nước.
1.3.2. Cách đo lường lạm phát của Việt Nam
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá bán lẻ của
một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế. Giá cả của các loại hàng


8

hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức

giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình
ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm
gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá
trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc.
Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát, là suất tăng của mức giá tổng quát
theo thời gian. Vấn đề đặt ra trước tiên là mức giá tổng quát được tính toán như thế
nào? Hai thước đo thông dụng phản ánh mức giá tổng quát là chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
và chỉ số thu nhập quốc dân điều chỉnh (Gross Domestic Production deflator).
Chỉ số giá tiêu dùng là một tỷ số phản ánh giá của rổ hàng hóa trong nhiều năm
khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hóa đó trong năm gốc. Chỉ số giá này phụ thuộc
vào năm được chọn làm gốc và sự lựa chọn rổ hàng hóa tiêu dùng. Trên cơ sở xác định
chỉ số giá tiêu dùng bình quân, tỷ lệ lạm phát phản ánh sự thay đổi mức giá bình quân
của giai đoạn này so với giai đoạn trước được tính theo công thức:
x 100%
Nhược điểm chính của chỉ số này là mức độ bao phủ cũng như sử dụng trọng số
cố định trong tính toán. Mức độ bao phủ của chỉ số giá này chỉ giới hạn đối với một số
hàng hóa tiêu dùng và trọng số cố định dựa vào tỷ phần chi tiêu đối với một số hàng
hóa cơ bản của người dân thành thị mua vào năm gốc. Những nhược điểm mà chỉ số
này gặp phải khi phản ảnh giá cả sinh hoạt là không phản ánh sự biến động của giá
hàng hóa tư bản; không phản ánh sự biến đổi trong cơ cấu hàng hóa tiêu dùng cũng
như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu dùng cho những hàng hóa khác
nhau theo thời gian.
Chỉ số điều chỉnh GDP là loại chỉ số có mức bao phủ rộng nhất. Nó bao gồm tất
cả các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và trọng số tính toán được


9

điều chỉnh tùy thuộc vào mức độ đóng góp tương ứng của các loại hàng hóa và dịch vụ
vào giá trị gia tăng. Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt hơn cho việc tính toán

tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số giá này không phản ánh trực tiếp sự
biến động trong giá hàng nhập khầu cũng như sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nhược
điểm chính của chỉ số giá này là không thể hiện được sự thay đồi của chất lượng hàng
hóa khi tính toán tỷ lệ lạm phát và chỉ số không phản ánh được sự biến động giá cả
trong từng tháng.
1.4. PHÂN LOẠI LẠM PHÁT
Tùy theo tiêu thức dùng để phân loại lạm phát mà có các loại lạm phát khác
nhau. Thông thường người ta phân loại lạm phát trên cơ sở định lượng và định tính.
Về mặt định lượng: Đó là dựa trên tỷ lệ phần trăm lạm phát được tính trong
năm, phân theo cách này thì lạm phát có các loại sau:
1.4.1 Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải là loại lạm phát ở mức một con số - dưới 10%/năm. Ở mức
độ này, giá cả tăng chậm dao động quanh mức tăng tiền lương, giá trị tiền tệ không
biến động nhiều tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
Đối với loại này thì tuỳ theo chiến lược và chiến thuật phát triển kinh tế mỗi
thời kỳ mà các Chính phủ có thể chủ động định hướng mức khống chế trên cơ sở duy
trì một tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu để gắn với một số mục tiêu kinh tế khác: Kích thích
tăng trưởng kinh tế, tăng cường xuất khẩu và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các năm tài
khoá nhất định. Tuy nhiên chỉ có thể chấp nhận có lạm phát vừa phải trong điều kiện
nền kinh tế còn chưa đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng so với điều kiện hiện tại khi mà
nhiều nhân tố của sản xuất vẫn còn nằm trong tình trạng ngủ yên hoặc chưa có phương
án khả thi để phát huy các tiềm năng đó. Khối tiền tệ chung Châu âu EC và một số
nước bắc Âu như Thuỵ Điển, Na Uy, Đan mạch v.v đã điều hành CSTT bằng cơ chế


10

NHTW đảm bảo lạm phát mục tiêu ,nghĩa là NHTW sử dụng công cụ CSTT để duy trì
và đảm bảo một mức lạm phát mục tiêu giao động xung quanh một chỉ số CPI được
xác định là 2 hoặc 3%/năm và nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng GDP trong năm.

1.4.2 Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã là lạm phát với tốc độ hai chữ số. Loại lạm phát này tác động
tiêu cực đến nền kinh tế, với những hậu quả cực kỳ khó khăn cho đời sống kinh tế, xã
hội, chính trị trong nước. Khi lạm phát phi mã xảy ra, sản xuất bị đình trệ, nền tài chính
bị khủng hoảng, và nếu không có biện pháp kiềm chế thì nền kinh tế dễ rơi vào tình
trạng siêu lạm phát
Đây là tỷ lệ lạm phát vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của NHTW. Giải pháp
để chống lại hiện tượng lạm phát này đòi hỏi phải là sự tổng lực của toàn nền kinh tế
quốc dân trong các nỗ lực thắt chặt tiền tệ, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường đầu tư, thu
hút mạnh các nguồn vốn, kích thích đầu tư trong nước, cải cách lại cơ cấu kinh tế, nâng
cao trình độ công nghệ, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho lưu thông hàng hoá và
đẩy mạnh sản xuất hàng thay thế nhập khẩu để tăng cung cho nội bộ nền kinh tế đang
tràn ngập quá mức tổng phương tiện thanh toán...ở nước ta từ năm 1985 đến 1988 đã
phải chứng kiến và chống đỡ với cấp độ lạm phát này.
1.4.3 Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát với tốc độ 3 chữ số trở lên, thậm chí người ta không
thể đo lạm phát bằng số % mà là bằng số lần tăng giá trong năm. Siêu lạm phát có thể
dẫn đến nền kinh tế bị suy thoái nghiêm trọng. Đây thực sự là một giai đoạn cực kỳ
hỗn loạn, bất ổn định kinh tế xã hội và đời sống nhân dân.
Thế giới đã từng kinh hoàng về nạn siêu lạm phát ở Đức trong các năm từ 1921
đến 1923 sau đại chiến thế giới thứ nhất. Đây là mức siêu lạm phát lớn nhất trong lịch
sử tiền tệ trên thế giới tính cho đến nay. Chỉ số giá trong vòng 22 tháng từ 1/1921 đến


11

11/1923 tăng tới 10 triệu lần; Kho tiền của Đức trong 2 năm đó tăng 7 tỷ lần tổng giá
trị danh nghĩa. Tính tước đoạt của cuộc siêu lạm phát này được lượng hoá bằng con số
kinh khủng: Nếu ai đó có một tấm ngân phiếu 300 triệu DM thì chỉ sau 2 năm nói trên,
giá trị thực của tấm ngân phiếu này hầu như chỉ còn lại là số 0; Cuộc siêu lạm phát lớn

thứ 3 xẩy ra ở Mỹ thời kỳ nội chiến 1860 - Riêng trong năm 1860 giá cả hàng hoá tăng
lên 20 lần = 2000% Người ta đã miêu tả bằng hình ảnh về cuộc lạm phát này rằng tiền
mang đi chợ phải đựng bằng sọt, còn hàng hoá mua đựơc thì bỏ vào túi áo - Mọi hàng
hoá trên thị trường trở nên cực kỳ khan hiếm trừ tiền. Tiền hầu như đã trút bỏ mọi chức
năng vốn có của nó kể cả chức năng trực tiếp nhất là làm phương tiện lưu thông hàng
hoá. Cuộc siêu lạm phát gần đây nhất và là cuộc lạm phát lớn thứ 2 trong lịch sử kinh
tế hàng hoá - tiền tệ thế giới (chỉ sau cuộc siêu lạm phát ở Đức) xẩy ra ở Nam Tư bắt
đầu từ 5/1992 đến hết năm 1994 khi chính quyền Xecbia không đứng vững được nữa:
Chỉ tính riêng tỷ giá 6 tháng cuối năm 1993, giá cả hàng hoá tăng hơn 25 lần - Tiền
lương năm 1991 của công chức bình quân 5.300 Đina/tháng tương đương với 400 USD
thì năm 1993 tiền lương bình quân tăng lên 2 tỷ Đina/tháng nhưng chỉ tương đương với
6 USD/tháng. Lạm phát đã được lớn lên theo từng giờ - bình quân cứ mỗi giờ giá ngoài
thị trường tăng 1%. Sau nhiều lần thay đổi mệnh giá đến 15/2/1993 Chính phủ phải cho
phát hành loại giấy bạc mệnh giá 50 tỷ Đina - Nền sản xuất trở nên kiệt quệ và Chính
phủ đương nhiệm hầu như bị tan rã hoàn toàn...Tuy nhiên, siêu lạm phát là một hiện
tượng kinh tế cực kỳ hiếm, nó thường xuất hiện gắn liền với các cuộc chiến tranh thế
giới hoặc nội chiến khốc liệt. Tất nhiên hiếm không có nghĩa là không xẩy ra! Một vài
ví dụ điển hình về nạn siêu lạm phát và các cấp độ nguy hiểm của lạm phát như đã
trình bày để bổ xung thêm cho nhận thức về lạm phát và xác định những mức độ ảnh
hưởng tác động mạnh đến mức nào trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội nói chung
của mỗi quốc gia trong kinh tế thị trường.
Về mặt định tính: Lạm phát được chia làm thành nhiều loại khác nhau, tùy theo
tính chất của lạm phát mà người ta chia ra các loại cơ bản sau:


12

Lạm phát thuần túy: Là trường hợp đặc biệt của lạm phát, hầu như giá cả của
mọi loại hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian.
Lạm phát cân bằng: Là loại lạm phát có mức giá chung tăng tương ứng với mức

tăng thu nhập.
Lạm phát được dự đoán trước: Là lạm phát mà mọi người có thể dự đoán trước
nhờ vào sự diễn tiến liên tục theo chuỗi thời gian trong nhiều năm.
Lạm phát không được dự đoán trước: Là lạm phát xảy ra bất ngờ, ngoài sự tiên
liệu của mọi người về quy mô, cường độ cũng như mức độ tác động.
Lạm phát cao và lạm phát thấp: Là mức lạm phát mà tỷ lệ tăng thu nhập tăng
thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ngược lại lạm phát thấp là mức tăng thu nhập tăng tăng cao
hơn mức độ tăng của tỷ lệ lạm phát.
1.5. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT
Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến lạm phát, và mỗi loại lạm phát được xuất
phát từ những nguyên nhân khác nhau. Các nguyên nhân này có thể xuất phát từ phía
tổng cầu trong nền kinh tế, cũng có thể là các nguyên nhân xuất phát từ phía cung, và
cũng có thể chúng xuất hiện đồng thời có cả phía cung lẫn phía cầu. Trong khi quan sát
thực tế người ta nhận thấy rằng, trong môi trường đang có lạm phát thì bản thân môi
trường đó nó cũng có khả năng và là nguyên nhân thúc đẩy hoặc tiếp tục gây ra một
chu trình lạm phát mới, tức là tạo sự lẫn quẩn trong vòng xoáy lạm phát.
1.5.1 Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối về cung - cầu hàng hoá dịch
vụ mà trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với cung hàng hoá hoặc tốc độ
gia tăng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng của sản xuất - kết quả là
trên thị trường, hàng hoá khan hiếm tương đối so với tiền do đồng thời cả hai nhóm
nguyên nhân hàng và tiền. Khi tổng cầu tăng như vậy tức là có nhiều người muốn mua


13

và sẵn sàng mua hàng hóa, trong khi đó lượng cung không tăng hoặc tăng ít hơn, thì
đương nhiên trên thị trường sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt hàng hóa, theo quy luật cung
cầu thì trong trường hợp này giá cả thị trường tăng lên là điều tất yếu. Như vậy đã xuất
hiện lạm phát.

Tổng cầu trong nền kinh tế bao gồm chi tiêu của hộ gia đình-C, chi tiêu của
chính phủ-G, Đầu tư trong nền kinh tế-I, Nhu cầu hàng hóa cho xuất khẩu-X, lượng
hàng hóa nhập khẩu-M, hàng hóa nhập khẩu làm phong phú thêm hàng hóa trong nước
làm giảm căng thẳng của tổng cầu nên được biểu diễn bằng dấu âm (-) trong biểu thức
cộng các yếu tố của tổng cầu. Nếu gọi tổng cầu là AD thì: AD = C + I + G + X - M.
Tổng cầu tăng có thể do một hoặc một số các yếu tố trong vế bên phải của biểu thức
tăng lên:
• Chính phủ tăng các khoản chi tiêu cho an ninh quốc phòng, tăng các khoản
đầu tư của chính phủ, cũng làm tăng tổng cầu.
• Thâm hụt ngân sách kéo dài và được đài thọ bằng cách vay mượn trong
nước, ngoài nước hoặc NHTW.
• Các hộ gia đình tăng chi tiêu do thu nhập tăng, hoặc được chính phủ giảm
thuế, hoặc cảm thấy các chế độ an sinh xã hội hay bảo hỉểm tốt nên quyết định cắt
giảm tiết kiệm để chi tiêu, hoặc được chính phủ tăng trợ cấp.
• Tâm lý thích tiêu dùng hoặc tiết kiệm của dân chúng đưa đến sự gia tăng tốc
độ lưu thông tiền tệ. Nếu dân chúng có khuynh hướng thích tiêu dùng, tốc độ lưu thông
tiền tệ sẽ tăng lên.
• Đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên do dự đoán về triển vọng phát triển
kinh tế trong nước và ngoài nước.
• NHTW thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ, làm lãi suất giảm, các doanh
nghiệp vay tiền đầu tư nhiều hơn, bên cạnh đó dân chúng hạn chế gửi tiền vào ngân


14

hàng mà rút ra mua hàng hóa hay đầu tư vào chứng khoán, cũng tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp mở rộng đầu tư.
• Các yếu tố như tỷ giá hối đoái, mức thu nhập của cư dân nước ngoài làm gia
tăng hàng hóa xuất khẩu kéo theo tổng cầu gia tăng.
1.5.2 Lạm phát do chi phí đẩy:

Là hiện tựơng mặt bằng giá cả thị trường bị đẩy lên do chi phí sản xuất gia tăng
quá mức trung bình mà nền kinh tế có thể chịu đựng được .Lạm phát loại này xuất hiện
khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc năng lực sản xuất của nền kinh tế giảm sút.
Loại lạm phát này liên quan chủ yếu đến việc giảm kiểm soát hành chính các mặt hàng
là đầu vào quan trọng của nền kinh tế. Trong hoàn cảnh sản xuất không tăng hoặc tăng
ít trong khi chi phí gia tăng tạo áp lực đẩy giá bán hàng hóa tăng theo. Chi phí đầu vào
tăng có thể do giá các nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất (xăng dầu, điện, than,
thép) tăng giá. Điều kiện khai thác khó khăn hơn đòi hỏi nhiều chi phí hơn; thiên tai
mất mùa lụt báo động đất làm giảm năng lực sản xuất; khủng hoảng ngành dầu mỏ do
các liên minh dầu mỏ tăng giá hoặc chiến tranh vùng vịnh làm tăng giá, giá dầu tăng
làm tăng chi phí trong ngành năng lượng, từ đó làm tăng chi phí đầu vào trong các
ngành khác. Các chi phí sản xuất tăng làm tăng giá thành sản phẩm và buộc doanh
nghiệp tăng giá bán để bù đắp chi phí. Giá bán tăng - tạo lạm phát. Nhưng mặt khác giá
bán tăng, theo quy luật cung cầu sẽ làm tổng cầu giảm xuống, các doanh nghiệp sẽ cắt
giảm sản xuất sa thải nhân công. Hậu quả dẫn đến cho nền kinh tế lúc này là vừa có
lạm phát lại vừa bị suy thoái.
Nếu lạm phát do cầu kéo ở mức vừa phải là một điều kiện rất tốt cho nền kinh
tế, nó sẽ kích thích đầu tư mở rộng sản xuất, người ta còn ví nó như một chất dầu mỏ
dùng để bôi trơn cho bộ máy kinh tế. Nhưng lạm phát chi phí đẩy thì dù bất kỳ mức độ
nào cũng đều không tốt, vì bản thân nó đã mang trong mình sự suy thoái kinh tế.


15

Lạm phát chi phí đẩy còn do tăng lương, tăng các chi phí đầu vào khác do đầu
tư mở rộng. Việc đầu tư mở rộng dứt khoát phải tăng thêm nhu cầu về nhân lực, đất
đai... Đầu vào tăng dồn sang đầu ra, tạo nên mặt bằng giá mới..
Chi phí tăng xuất phát từ các nguyên nhân như:
• Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động: Các doanh
nghiệp luôn chịu áp lực về vấn đề tiền lương cho người lao động. Trong dài hạn, do áp

lực từ công đoàn, do thuế thu nhập hoặc các yếu tố khác làm cho nhân viên tạo sức ép
nâng giá tiền lương lên. Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các
xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá
thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
• Do giá nhập khẩu tăng lên ảnh hưởng đến giá cả trong nước hoặc tác động
gián tiếp thông qua việc làm tăng chi phí sản xuất.
• Do thuế suất tăng gây ảnh hưởng đến suất sinh lời của nhà đầu tư do vậy giá
cả tăng lên để duy trì mức sinh lời như mong muốn.
1.5.3 Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế
Là lạm phát xuất hiện khi có quan hệ không bình thường trong các cân đối cơ
bản của nền kinh tế như Công nghiệp - Nông nghiệp, Công nghiệp nặng - Công nghiệp
nhẹ; Sản xuất - dịch vụ; Xuất - nhập khẩu và Tích luỹ - tiêu dùng...Các quan hệ nói
trên không được đặt trong một hoàn cảnh kinh tế cụ thể để có định hướng cân đối một
cách hợp lý sẽ lập tức gây ra hiện tượng đông cứng một bộ phận nguồn lực kinh tế,
giữa chúng không chuyển hoá được cho nhau tạo ra một trạng thái vừa thừa, vừa thiếu
các năng lực sản xuất một cách giả tạo - Vì vậy, còn có thể gọi nhóm nguyên nhân gây
ra loại lạm phát này là sự ách tắc các nguồn vốn - Các lợi thế so sánh giữa các vùng
trong nội bộ nền kinh tế và lợi thế so sánh giữa các quốc gia không được khai thác làm
cho sức phát triển bị "đóng băng" hoá.


16

1.5.4 Lạm phát do xuất khẩu:
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được
huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến
tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.

1.5.5 Lạm phát do nhập khẩu:
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập

khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định
tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong
nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
1.5.6 Lạm phát tiền tệ:
Cung tiền tăng (chẳng hạn do NHTW mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền
ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua
công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là
nguyên nhân gây ra lạm phát. Trong nước, ngân sách đầu tư lớn, do sự tăng trưởng
mạnh của khối ngân hàng thương mại cổ phần. Chẳng hạn, tại TP Hà Nội, theo báo cáo
của Ngân hàng Nhà nước, lượng tăng trưởng tín dụng năm 2007 lên tới 70% – 80%,
trong khi khối các ngân hàng quốc doanh tăng trưởng tín dụng chỉ khoảng 20% – 30%.
Trong khi đó, GDP tăng trưởng có 8,4%, bội chi ngân sách rất lớn...
Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù
hợp nên việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn. Quản lý
yếu kém dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị
trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát.
Có thể kể ra các nguyên nhân trực tiếp làm lượng cung tiền tăng lên như sau:
Thứ nhất, chi tiêu ngân sách ngày càng lớn. Chi tiêu ngân sách năm sau cao hơn
năm trước do yêu cầu phát triển tế xã hội đòi hỏi các điều kiện hạ tầng như đường xá, cầu
cống, bến cảng, các khu đô thị, khắc phục hậu quả của thiên tai ... Trong đó có nhiều các


17

vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài, tốn kém, hiệu
quả thấp. Những khoản chi tiêu ngân sách này đã đưa một lượng tiền mặt lớn ra thị trường.
Thứ hai, quản lý tiền mặt kém hiệu quả. Hiện nay ở Việt Nam có nhiều đơn vị
như Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tín dụng phi
ngân hàng, Công ty bảo hiểm, ... liên quan tới công tác lưu hành tiền tệ. Lượng tiền cần có
(D) để cân đối với hàng hoá không đồng nhất với lượng tiền mặt thực tế đang có trên thị

trường. Lượng tiền này không chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mặt thực tế (T) mà còn phụ
thuộc vào vòng quay đồng tiền (V), chúng tỷ lệ thuận với nhau theo công thức: D = T . V.

Lượng tiền D cân đối với hàng cần phải được kiểm soát chặt và thường ổn
định trong một thời gian thích hợp có lợi cho sự phát triển kinh tế. Khi có nhu cầu tăng
D, các nhà quản lý thường tăng vòng quay của đồng tiền (V), hạn chế tăng T. Vấn đề
này rấ quan trọng cả đối với quản lý vĩ mô và quản lý vi mô.
Song việc có nhiều thành viên tham gia vào cơ chế lưu hành tiền tệ như trên
đã khiến cho công tác quản lý trở nên phức tạp và kém hiệu quả. Nhiều cơ sở ngân
hàng, phi ngân hàng tham gia kinh doanh tiền tệ thường chỉ quan tâm tới lợi nhuận, tới
vốn. Do vậy vòng quay tiền mặt ít được chú ý, khiến cho việc quản lý V càng khó khăn
phức tạp hơn. Khi có nhu cầu tăng D, thay vì việc tìm giải pháp tăng vòng quay đồng
tiền (V) lại tăng lượng cung tiền mặt vào lưu thông, làm cho lượng tiền mặt có trong
lưu thông (T) thường xuyên tăng lên. Lượng tiền nhiều trong lưu thông khiến cho thu
chi tiền mặt dễ dàng, xuất hiện toạ chi ở nhiều doanh nghiệp, vòng quay đồng tiền (V)
thực tế đã tăng lên. Điều này khiến cho D càng lớn gây mất cân đối trầm trọng giữa
tiền (D) và hàng, làm lạm phát gia tăng đột biến.
Thứ ba, ngoại tệ tăng mạnh. Năm 2007 đầu tư nước ngoài vào Việt nam tăng
cao, kiều hối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này cũng đã gần 30 tỷ USD. Với
lượng tiền đó đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn tung ra thị trường, làm cho lượng
tiền mặt trên thị trường tăng lên.


18

Thứ tư, sức hút của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát
triển mạnh trong thời gian qua đã hút một lượng tiền lớn vào đây. Ngoài lượng tiền
nhàn rỗi trong dân được huy động, lượng vốn bằng tiền còn được huy động thông qua
vay ngân hàng, rút tiết kiệm, bán tài sản (do thay đổi mục tiêu kinh doanh), từ các nhà
đầu tư nước ngoài,....

Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng khác là tâm lý hoang mang của người
dân trước giá cả thị trường tăng cao, đồng tiền giảm giá nhanh chóng. Để bảo toàn vốn
của mình, các nhà đầu tư cũng như dân chúng đã chuyển sang mua vàng hoặc kim loại
quý, đá quý khác thay vì dùng vốn đó kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Do vậy một
lượng tiền lớn được tung vào lưu thông đã làm cho lạm phát trầm trọng hơn.
Tất cả những nhân tố trên làm cho lượng tiền mặt thực tế có trong lưu thông
(T) tăng lên quá nhiều, vượt xa lượng tiền mặt thực tế cần có từ đó dẫn tới lạm phát.
1.6. KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Sau khi tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến lạm phát chúng ta bàn tiếp làm thế nào để
kiềm chế lạm phát. Để kiềm chế lạm phát tốt, trước hết cần tìm hiểu kỹ nguyên nhân,
các mối tương tác giữa các chỉnh thể cấu thành trong nền kinh tế, tiên liệu được các
tình hình có thể xảy ra. Từ đó xây dựng các hệ thống giải pháp đồng bộ, phối hợp nhịp
nhàng với nhau, nhằm can thiệp kịp thời. Các giải pháp đó chính là trước hết cần am
hiểu tường tận thấu đáo và sử dụng thành thạo các công cụ của chính sách kinh tế vĩ
mô; tăng cường công cuộc cải tổ hệ thống kinh tế theo hướng rõ ràng minh bạch, nhằm
tạo môi trường thông thoáng mà ai cũng có thể theo dõi giám sát kiểm tra; Xây dựng
hệ thống các chỉ số kinh tế vĩ mô một cách chi tiết, để căn cứ vào đó đưa ra các mức
báo động khác nhau, và cũng là cơ sở quyết định các chính sách vĩ mô nói chung và
kiềm chế lạm phát nói riêng. Nhìn vào đó thấy chỉ số thất nghiệp tăng thêm 3%, kim
ngạch xuất khẩu giảm 5% .v.v. và .v.v. thế thì điều gì đang xảy ra và chúng ta cần làm
gì. Có một loạt các phương thức để kiềm chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương như


×