BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng của Luật sư trong vụ án Hình sự
Hồ sơ số: LS.HS 06 – Lê Hy Minh Hải, Lê Quang Trung, Tống Hữu Thành, Trần Thị Mỹ
Thảo mua bán trái phép chất ma túy
----------------------------------------------------------------------------------------------------------I.
TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN:
1.
Khoảng vào lúc 1h ngày 16/03/2012, đội cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an quận 7
kết hợp với công an phường Bình Thuận quận 7 kiểm tra phòng số 101 khách sạn Khánh
Ngọc địa chỉ số 30A, đường số 1 phường Bình Thuận quận 7 phát hiện các đối tượng Lê
Quang Trung, Phạm Ngọc Thành, Võ Quý Hiếu, Nguyễn Thị Diễm đang sử dụng trái phép
chất ma túy tổng hợp. Vật chứng thu giữ gồm: 20 gói ma túy tổng hợp tên gọi
Methmphetamine (MA), trọng lượng: 4,0852gram, một máy điện thoại hiệu NOKIA:
3.500.000 đồng và một số dụng cụ để sửdụng ma túy tổng hợp.
2.
Qua lời khai của Trung tại Biên bản ghi lời khai (BL 108) ngày 16 tháng 03 năm 2012, số
ma túy tổng hợp trên Lê Quang Trung lấy từ Lê Hy Minh Hải. Đội ma túy phát hiện Hải
đang thuê phòng 303 khách sạn Khánh Ngọc cùng địa chỉ và đã mời Hải về làm rõ và mở
rộng điều tra. Đến khoảng 16h45p ngày 16/03/2012, đội điều tra ma túy phát hiện Tống
Hữu Thành đang được tên Võ Quốc Cường chở đi bán ma túy, bán cho đối tượng nghiện.
(Cường không biết Thành bán ma túy). Thu giữ của Thành 01 gói ma túy tổng hợp (MA),
trọng lượng 0,0852 gram, 1 điện thoại di động và 300.000 đồng, xe gắn máy mang biển số
54Z4-2723. Tại trụ sở công an phường Tân Kiểng, quận 7, trong lúc lập hồ sơ bắt quả tang
Tống Hữu Thành thì có các đối tượng nghiện gọi điện cho Thành để mua ma túy nên bị đội
điều tra ma túy mời về làm việc.
3.
Đến 0h30 ngày 17/03/2012, trước khách sạn Lan anh tại địa chỉ A77, khu dân cư Kim Sơn,
phường Tân Phong, quận 7, đội cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an quận 7 đã bắt
quả tang Trần Thị Mỹ Thảo đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa mang ma túy đi bán. Cảnh sát
thu giữ của Thảo 1 gói ma túy tổng hợp MA trọng 7 lượng 2.3947 gram, 2 máy điện thoại
di động và 600.000đ. Tại cơ quan điều tra công an quận 7, Thảo khai đã được Dũng (không
xác định lai lịch) nhờ đem ma túyđi bán 02 lần, ngoài việc bán ma túy cho Tống Hữu
Trang 1
Thành, Thảo còn bán ma túy 02 lần cho một số đối tượng khác trên địa bàn quận 7. Thảo
bán ma túy cho Dũng được Dũng cho tiền hai lần tổng cộng 3.000.000 đồng, số tiền này
Thảo đã tiêu xài hết.
4.
Qua quá trình điều tra, ngày 22/08/2012, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 đã ra quyết định
truy tố Lê Hy Minh Hải, Lê Quang Trung, Tống Hữu Thành và Trần Thị Mỹ Thảo về tội
“Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự
1999 sửa đổi 2009.
Vật chứng vụ án:
Tạm giữ của Lê Quang Trung:
- 20 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54 – Công an TP.
HCM là ma túy tổng hợp, chứa thành phần Ma, cân nặng: 4,0852 gram).
- 01 máy điện thoại di động hiệu NOKIA, là phương tiện trong việc liên lạc.
- 3.500.000 đồng Việt Nam.
- 01 số dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.
- 01 xe gắn máy biển số 54Z6 – 0098, số máy 1512399, số khung: 5055490 do chị Phan
Thị Hoa đứng tên đăng ký. Chị Hoa khai nhận đã bán chiếc xe trên cho bà Trương Thị Kim
Sa (mẹ bị cáo Lê Quang Trung), ngụ tại: 92/2 khu phố 3, phường Tân Thuận Đông, quận 7,
nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Lời khai của bà Trương Thị Kim Sa cũng phù
hợp với lời khai của chị Phạm Thị Hoa. Trong thời gian nói trên, bà đưa chiếc xe nói trên
cho con bà là bị cáo Lê Quang Trung dùng làm phương tiện chạy Honda ôm, còn việc
Trung dùng chiếc xe làm việc gì khác thì bà không biết.
Tạm giữ của Tống Hữu Thành:
- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54 – Công an TP.
HCM là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA, cân nặng: 4,0852 gram).
- 01 máy điện thoại di động.
- 300.000 đồng Việt Nam.
- 01 xe gắn máy biển số 54Z4 – 2723 do anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt, sinh năm: 1982, ngụ
tại 570/59/5 Đoàn Văn Bơ, phường 16, quận 4; Chỗ ở: 502/45/11 Huỳnh Tấn Phát, phường
Bình Thuận, quận 7 đứng tên đăng ký xe.
Tạm giữ của Trần Thị Mỹ Thảo:
Trang 2
- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54 – Công an TP.
HCM là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA, cân nặng: 2,3947 gram).
- 01 máy điện thoại di động, là phương tiện trong việc liên lạc dùng để buôn bán ma túy.
- 600.000 đồng Việt Nam.
Tạm giữ của Lê Hy Minh Hải:
-
01 máy điện thoại di động hiệu NOKIA.
II.
KẾ HOẠCH HỎI CỦA TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM:
1.
Hỏi Bị cáo Lê Hy Minh Hải:
Câu hỏi xác định việc Lê Hy Minh Hải có hành vi mua bán ma túy hay không:
-
Xin hỏi bị cáo Hải, tại phiên tòa hôm nay, đề nghị anh cho biết anh có thực hiện hành vi
mua bán chất ma túy với các đối tượng Trung hay Thành hay không?
Lê Hy Minh Hải: Thưa HĐXX, tôi không hề thực hiện việc mua bán ma túy cho anh Trung
và anh Thành.
-
Bị cáo có quan hệ gì với bị cáo Trung và bị cáo Thành?
Lê Hy Minh Hải: Thưa HĐXX, chúng tôi là bạn bè bình thường, mới quen và gặp gỡ nhau
được khoảng 2 tháng.
-
Bị cáo cho biết số ma túy mà bị cáo sử dụng có nguồn gốc từ đâu?
Lê Hy Minh Hải: Thưa HĐXX, tôi lấy ma túy từ Minh bê đê.
2.
Hỏi bị cáo Lê Quang Trung:
Các câu hỏi nhằm xác minh tình tiết Trung không mua ma túy của Hải:
-
Bị cáo Trung cho biết anh có nghiện ma túy không?
Lê Quang Trung: Thưa HĐXX, tôi đã nghiện ma túy từ lâu.
-
Khi bị công an quận 7 bắt thì bị cáo đang làm gì?
Lê Quang Trung: Thưa HĐXX, tôi đang sử dụng ma túy với Thành, Hiếu và Diễm.
-
Số ma túy mà bị cáo sử dụng, bị cáo lấy từ đâu hoặc mua của ai?
Lê Quang Trung: Thưa HĐXX, số ma túy mà tôi sử dụng là do tôi lấy từ Minh bê đê
-
Bị cáo có thực hiện hành vi mua ma túy từ bị cáo Hải hay không?
Lê Quang Trung: Thưa HĐXX, tôi không.
Trang 3
III. BẢN LUẬN CỨ CỦA LUẬT SƯ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA BỊ
CÁO LÊ HY MINH HẢI:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 01 năm 2013
--------------o0o----------------
BẢN LUẬN CỨ
(Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Lê Hy Minh Hải)
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát!
Thưa các vị luật sư đồng nghiệp và toàn thể các quý vị có mặt trong phiên xét xử ngày
hôm nay!
Tôi là Vũ Đức Minh, luật sư tại Công ty TNHH Luật ABC Đoàn luật sư thành phố
Hồ Chí Minh. Theo yêu cầu của bị cáo Lê Hy Minh Hải và được sự đồng ý của Tòa án
nhân dân Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh, tôi tham gia vào vụ án này và có mặt tại phiên
tòa ngày hôm nay với tư cách là người bào chữa cho bị cáo Lê Hy Minh Hải, người đang
bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh truy tố về tội “Mua bán trái
phép chất ma túy” áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS 1999 sửa đổi 2009.
Qua nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và trong phần thẩm vấn
công khai tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay, tôi xin trình bày quan điểm bào chữa của
mình như sau:
A. Về mặt nội dung:
Tôi không đồng tình với quan điểm truy tố về tội danh “Mua bán trái phép chất ma
túy” áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 1999 sửa đổi 2009 BLHS mà Cáo trạng của Viện
kiểm sát nhân dân Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo Lê Hy Minh Hải
bởi những lý do sau:
Thứ nhất: Dựa trên những vật chứng của vụ án, bị cáo Hải không hề có dấu hiệu
của việc mua bán ma túy.
Căn cứ vào Biên bản về việc bắt người được lập ngày 17/03/2012 bởi Công an
phường Bình Thuận, quận 7 (BL 30), những đồ vật, tài liệu thu được khi bắt giữ bị cáo Lê
Trang 4
Hy Minh Hải bao gồm: Một máy điện thoại di động Mokia 2 sim (0935252261;
0918623677) ngoài ra không có bất kỳ đồ vật, tài liệu nào khác. Do đó, tại thời điểm bị
bắt giữ, bị cáo Hải không hề có dấu hiệu của việc mua bán trái phép chất ma túy.
Tại các Biên bản kiểm tra điện thoại tại các bút lục số: BL 36, BL 37, BL 42 – 44, Biên
bản tạm giữ và niêm phong điện thoại (BL39 – 40), tất cả được lập vào ngày 16/03/2012,
đều không có bằng chứng cụ thể nào chứng minh việc bị cáo Hải đã thực hiện hành vi
mua bán trái phép chất ma túy. Hơn nữa, tại Biên bản tạm giữ và niêm phong điện thoại
(BL39 – 40), sau khi kiểm tra toàn bộ các tin nhắn và cuộc gọi đến, gọi đi của bị cáo Hải,
có thể thấy, tất cả các tin nhắn trong máy điện thoại của đối tượng Hải bị tịch thu tại thời
điểm bị bắt đều không hề chứa nội dung liên quan đến việc mua bán chất ma túy. Tại các
mục “cuộc gọi đi”, “cuộc gọi đến”, các số điện thoại và tên người gọi đã chứng minh Hải
không hề liên quan đến việc mua bán ma túy. Chỉ có duy nhất tại mục “các cuộc gọi nhỡ”
là có sự xuất hiện của số điện thoại: 0903536313 (là số điện thoại của bị cáo Tống Hữu
Thành theo BL số 37). Tuy nhiên, việc cuộc gọi của bị cáo Thành bị ẩn vào mục “cuộc
gọi nhỡ” chứng tỏ bị cáo Hải không hề nghe cuộc điện thoại của Thành, và do đó, lời
khai của bị cáo Thành tại Biên bản ghi lời khai (BL 118 – 119) và Bản tự khai (BL 136)
về việc Thành có gọi điện cho Hải để mua ma túy vào ngày 12/03/2012 là mâu thuẫn với
các tài liệu, chứng cứ của vụ án và không đủ sức thuyết phục để buộc tội bị cáo Hải theo
điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS.
Ngoài ra, không có tài liệu, bằng chứng nào trong hồ sơ chứng minh bị cáo Hải đã
liên lạc với bị cáo Trung để mua bán ma túy.
Hơn nữa, hồ sơ của vụ án cũng thể hiện bị cáo Hải không hề bị bắt quả tang do mua
bán trái phép chất ma túy.
Thứ hai: Dựa trên lời khai của các bị cáo Hải, Trung, Thành và các nhân chứng:
1. Theo lời khai của bị cáo Trung:
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 16/03/2012 (BL 108-109), Biên bản lấy lời khai ngày
26/03/2012 (BL 110-111), bị cáo Trung đã khai với các cơ quan chức năng là Trung đã
mua 20 gói ma túy tổng hợp của bị cáo Hải trước khi bị tạm giữ.
Tuy nhiên, tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 01/04/2012, bị cáo Trung đã khai rằng:
“Nguồn gốc số ma túy tôi bị công an quận 7 thu giữ ngày 16/03/2012 do tôi lấy của
Minh bê đê trừ tiền súp mà có” và “Do tôi sử dụng ma túy tổng hợp nhiều, đầu tôi
Trang 5
không được tỉnh táo nên tôi khai vậy, thật ra, toàn bộ số ma túy công an quận 7 thu giữ
của tôi ngày 16/03/2012 tôi lấy của Minh bê đê để trừ tiền súp tôi nhờ Hải bán cho
Minh bê đê”.
Tại Bản tự khai ngày 01/11/2012 (BL 135), bị cáo Trung cũng thừa nhận Hải không
lấy tiền của Trung khi đưa cho Trung ma túy.
Những lời khai nêu trên của bị cáo Trung có mâu thuẫn theo từng thời điểm và không
đảm bảo tính trung thực, khách quan.
2. Theo lời khai của bị cáo Hải:
Tại Biên bản ghi lời khai ngày 16/03/2012 (BL 116 – 117), bị cáo Hải đã khai rằng bị
cáo đã mua ma túy tổng hợp từ đối tượng Minh bê đê để bán cho Trung vào trưa ngày
12/03/2012.
Tuy nhiên, tại Biên bản hỏi cung ngày 14/11/2012 (BL 141 – 142), bị cáo Hải đã phủ
nhận toàn bộ hành vi mua bán ma túy của mình trong những biên bản lời khai trước đó và
cho rằng do mình bị đánh nên mới buộc phải khai như vậy.
3. Theo lời khai của các nhân chứng:
Không có nhân chứng nào có thể khai báo về việc có biết hoặc nhìn thấy hành vi mua
bán trái phép chất ma túy của Hải.
Từ những lập luận nêu trên, có thể thấy rằng: lời khai của các bị cáo có nhiều mâu
thuẫn, không phù hợp với chứng cứ của vụ án và do đó không đủ cơ sở để buộc tội hành
vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Hải theo quy định tại khoản 2 Điều 72
BLTTHS 2003, cụ thể:
“Điều 72. Lời khai của bị can, bị cáo
1. Bị can, bị cáo trình bày về những tình tiết của vụ án.
2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với
các chứng cứ khác của vụ án.
Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội”.
Việc cơ quan điều tra kết luận việc “Trung khai: mua ma túy tổng hợp của Hải cất
giữ để bán cho các đối tượng nghiện như lời khai trước đây là đúng. Việc Trung thay đổi
lời khai là nhằm mục đích chối tội mua bán trái phép chất ma túy của bị can cho nhẹ
hình phạt” là không có cơ sở do không làm rõ được các hành vi vi phạm thực tế, không
Trang 6
dựa trên các vật chứng, bằng chứng cụ thể ngoài lời nhận tội của bị cáo Hải và do đó, trái
với các quy định của pháp luật tại Điều 72 vừa nêu .
Tại Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận 7, Viện kiểm sát cũng chỉ thừa nhận
việc Hải có hành vi mua bán trái phép chất ma túy dựa trên lời khai của các bị cáo Trung
và Thành (vốn có nhiều mâu thuẫn với các bằng chứng khác theo phân tích ở trên) mà
không đề cập tới những chứng cứ khác.
B. Về mặt tố tụng:
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, tôi nhận thấy có những sai phạm nghiêm trọng
trong thủ tục tố tụng, cụ thể:
Thứ nhất: Vào lúc 01 giờ 00 phút ngày 16/3/2012, Công an Quận 7 tiến hành kiểm
tra hành chính khách sạn Khánh Ngọc tại số 30A, đường số 1, khu phố 3, phường Bình
Thuận, quận 7, Tp. HCM. Tại thời điểm đó, Công an Quận 7 tiến hành khám xét các đối
tượng trong phòng 101 nhưng các đối tượng không được nghe, đọc lệnh khám xét. Sau
khi tiến hành khám xét phòng 101 và thu giữ đồ vật, Công an Quận 7 có lập biên bản bắt
người phạm tội quả tang là áp dụng sai biện pháp ngăn chặn. Căn cứ quy định tại điểm c
Khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003 thì đáng lẽ Công an Quận 7 phải thực hiện biên pháp bắt
người trong trường hợp khẩn cấp chứ không phải lập biên bản bắt người phạm tội quả
tang. Sau đó, theo quy định tại Điều 83 BLTTHS 2003 thì “Sau khi bắt hoặc nhận người
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời
khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho
người bị bắt”. Trên thực tế, trong vòng 24 giờ kể từ ngày bị bắt, cơ quan Công an Quận 7
không ra quyết định tạm giữ đối với bị cáo Trung.
Hơn nữa, căn cứ Khoản 2 Điều 141, Khoản 2 Điều 81 BLTTHS thì trong thời hạn 24
giờ, kể từ khi khám xong, người ra lệnh khám phải thông báo bằng văn bản cho Viện
kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, trên thực tế, Cơ quan cảnh sát điều tra Quận 7 đã không
thông báo đến Viện kiểm sát nhân dân Quận 7.
Thứ hai: Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo Trung được lập vào lúc
01 giờ 00 phút và kết thúc vào lúc 17 giờ 40 phút ngày 16/03/2012 tại khách sạn Khánh
Ngọc, số 30A, đường số 1, Khu phố 3, phường Bình Thuận, quận 7, TP HCM. Tuy nhiên,
tại Biên bản ghi lời khai của bị cáo Trung (BL 108) thì thời gian bắt đầu là lúc 14 giờ 00
phút và thời gian kết thúc là 15 giờ 00 phút ngày 16/03/2012; địa điểm lập biên bản là tại
Trang 7
Cơ quan Điều tra tội phạm ma túy Công an Quận 7. Như vậy, hai biên bản nêu trên được
lập vào cùng 1 thời điểm, địa điểm khác nhau nhưng đều có chữ ký của bị cáo Trung,
điều này là vô lý và thể hiện việc hồ sơ đã có sự sai phạm nghiêm trọng trong tố tụng.
Từ những lập luận nêu trên, tôi cho rằng vụ án này cần phải được xem xét, bổ sung
những chứng cứ quan trọng để chứng minh, làm rõ việc có hành vi mua bán trái phép ma
túy của bị cáo Hải hay không? Trong quá trình tố tụng cũng xuất hiện nhiều sai phạm
nghiêm trọng theo quy định tại Điều 4, Thông Tư Liên Tịch Số: 01/2010/TTLTVKSNDTC-BCA-TANDTC “Hướng Dẫn Thi Hành các Quy Định của Bộ Luật Tố Tụng
Hình Sự về Trả Hồ Sơ để Điều Tra Bổ Sung”.
Do đó, căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003, tôi đề nghị Hội
đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra, bổ sung hồ sơ vụ án.
Trên đây là những bào chữa của tôi về vụ án với vai trò là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bị cáo Lê Hy Minh Hải.
Cảm ơn sự lắng nghe của Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm sát và toàn bộ các quý
vị có mặt tại phiên xét xử ngày hôm nay!
Luật sư
(đã ký)
Vũ Đức Minh
Trang 8
NHẬN XÉT VỀ BUỔI DIỄN ÁN
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
Trang 9
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
Trang 10
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
Trang 11