Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI THANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.43 KB, 31 trang )

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI THANH
2.1. Nhận thức về năng lực cạnh tranh và công cụ đánh giá năng lực cạnh
tranh của công ty.
2.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh .
Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh giữa các công ty là không tránh khỏi,
doanh nghiệp muốn tồn tại hay đứng vững trên thị phần của mình thì phải khẳng định
được năng lực cạnh tranh của mình. Ngày nay,có nhiều định nghĩa về năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, sau đây tôi xin đưa ra một số định nghĩa làm cơ sở lý luận khi
phân tích năng lực cạnh tranh của ngành bánh kẹo Việt Nam.
Trước hết chúng ta hãy xem xét cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh,nói chung, là sự phấn đấu,vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí
hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất,tạo ra sản phẩm mới tạo ra năng suất và hiệu quả
nhất.
Trong kinh tế, cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ sản phẩm
(hàng hoá và dịch vụ ) bằng các phương pháp và biện pháp khác nhau như kỹ thuật,
kinh tế, chính trị,quân sự,tâm lý xã hội.
Vậy năng lực cạnh tranh là gì? Có nhiều cá nhân hay tổ chức định nghĩa khác
nhau về năng lực cạnh tranh,sau đây là một vài định nghĩa đó:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi
thế cạnh tranh,có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh,
chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững.(Năng lực cạnh
tranh trong điều kiện toàn cầu hoá_Trần Sửu)
Tổ chức OECD đưa ra định nghĩa sau: "Năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra
thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các
doanh nghiệp, các ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế".
Hội đồng về sức cạnh tranh của Mỹ đề nghị định nghĩa: "Sức cạnh tranh là năng
lực về hàng hoá và dịch vụ của một nền sản xuất có thể vượt qua thử thách trên thị
trường thế giới trong khi mức sống của dân chúng có thể được nâng cao một cách vững


chắc, lâu dài".
Mặc dù có sự khác nhau giữa các định nghĩa trên song hàm nghĩa cơ bản là như
nhau. Theo tôi,năng lực cạnh tranh của một ngành tổ chức là việc sử dụng tất cả các
nguồn lực sẵn có kết hợp với các phương pháp, biện pháp để tạo ra các lợi thế cạnh
tranh nhằm duy trì thị phần của mình trên thị trường, ngoài ra có thể mở rộng thị phần
đó, đương đầu được với các đối thủ cạnh tranh của ngành hay tổ chức.
2.1.2.Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp.
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào đều phải đứng trước tình huống cạnh tranh
giữa sản phẩm của doanh nghiệp mình với sản phẩm của các doanh nghiệp trong ngành
hay các sản phẩm có liên quan. Do đó vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp là hết
sức quan trọng và nó bắt buộc mỗi doanh nghiệp nào muốn tồn tại hay phát triển bền
vững đều phải quan tâm đúng mức và đặt nó làm vấn đề cốt yếu trong quá trình ra chiến
lược kinh doanh của mình. Sau đây là một số vai trò chủ yếu của cạnh tranh đối với
doanh nghiệp mà nó ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp:
 Cạnh tranh để tồn tại:
Thông qua cạnh tranh doanh nghiệp dành được khách hàng, thị trường về
mình, chứng minh và làm cho khách hàng hiểu và tin tưởng sản phẩm của mình là ưu
việt để cho họ mua thật nhiều hàng của mình. Một doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm
luôn phải đối đầu với việc tìm kiếm khách hàng mua sản phẩm đó vì vậy doanh nghiệp
đó phải có năng lực để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong việc tìm kiếm khách
hàng,dành khách hàng về mình. Có được khách hàng thì mới đảm bảo cho doanh
nghiệp có doanh thu, mới đảm bảo được sự tồn tại của mình.
 Cạnh tranh để tăng trưởng và phát triển:
Qúa trình cạnh tranh sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp phát triển liên tục. Nhờ đó mà hàng hóa sản xuất ra nhiều, chất lượng tốt, tạo cơ
hội tốt cho công việc kinh doanh trên thị trường nảy nở,kích thích thêm nhà đầu tư
tham gia,làm cho mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Thị trường luôn thay đổi
và liên tục phát triển do vậy cạnh tranh sẽ giúp cho doanh nghiệp bị cuốn vào vòng
xoáy của sự tăng trưởng.

2.2.Phân tích môi trường kinh doanh tác động tới doanh nghiệp.
Qúa trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty luôn chịu sự tác động và
ảnh hưởng của môi trường bên trong và môi trường bên ngoài doanh nghiệp. Để quá
trình phân tích chuỗi giá trị của công ty được thuận lợi hơn, chúng ta cùng xét sự tác
động của môi trường kinh doanh đối với doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh gồm có:
môi trường kinh tế quốc tế, môi trường kinh tế quốc dân, môi trường nội bộ và môi
trường doanh nghiệp. Tùy theo từng cấp độ môi trường mà có những tác động khác
nhau tới doanh nghiệp, quá trình tác động của môi trường tới doanh nghiệp được mô tả
ở sơ đồ 4 dưới đây:
2.2.1.Môi trường quốc tế.
Những năm gần đây có sự thay đổi rất lớn của nền kinh tế thế giới, với sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc thì hình như trọng điểm nền kinh tế thế giới
từng bước chuyển dịch về phía trung tâm Châu Á. Bên cạnh đó thì các nền kinh tế lớn
vẫn chiếm đa số sự ảnh hưởng và có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới. Điều
này cũng tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam, nền kinh tế nước ta đang đứng
trước những cơ hội và thách thức lớn, đặc biệt là tháng 12/2006 chúng ta đã trở thành
thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, chấp nhận thị
trường nước nhà bình đẳng như thị trường quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam
cần cố gắng chớp lấy những cơ hội và khẳng định mình trước những thách thức lớn.
Trên thế giới hiện nay thì nguyên vật liệu phục vụ cho ngành xây dựng đã có sự
tiến bộ vượt bậc, ở nhiều quốc giá tiên tiến nhiều loại gạch bằng đất sét nung đã được
thay thế bằng loại gạch siêu nhẹ chế tạo từ các loại nguyên liệu tổng hợp có độ bền và
mẫu mã cũng như kiểu dáng đẹp mắt, những loại gạch này được đưa vào các công trình
có độ bền đảm bảo nhất là các công trình xây dựng cao tầng. Hiện nay so với ở Việt
Nam còn sản xuất và sử dụng đại trà loại gạch đất sét nung thủ công thì thị trường
nguyên vật liệu thế giới cũng đã từ từ loại bỏ sử dụng các loại gạch này, điều nay cũng
dễ hiểu tại sao ngành gạch xây Việt Nam lại rất hạn chế trong việc xuất khẩu ra nước
ngoài hay tìm cách xâm nhập thị trường các nước phát triển. Sản phẩm xuất khẩu chủ
yếu là các sản phẩm tráng men như gạch nền, gạch ốp lát… mang hình thức trang trí
cho các công trình xây dựng.

2.2.2.Môi trường quốc gia.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế quốc dân đang phát triển nhanh chóng,
mức tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2001-2007 là từ 7% đến 8% cho thấy đất nước ta
đang trong tình trạng phát triển nhanh chóng ở nhiều ngành kinh tế. Tuy nhiên chất
lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta được đánh giá là chất lượng tăng trưởng
thấp, tỷ lệ lạm phát còn cao, sử dụng vốn chưa phát huy tính hiệu quả cao, chất lượng
lao động trong nước còn chưa cao đặc biệt thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động chất
lượng cao trong nước.
Bên cạnh đó các ngành gạch ngói trong nước cũng đang trong tình hình phát
triển mạnh mẽ. Năm 2007, ngành gốm sứ xây dựng (GSXD) Việt Nam có bước phát
triển mới cả về sản lượng, năng lực sản xuất, đầu tư phát triển và qui mô thị trường. Có
thể nói sau khoảng 3 năm thị trường bất động sản trầm lắng kéo theo thị trường VLXD
trong đó có GSXD gặp nhiều khó khăn. Năm 2007, cùng với sự khởi sắc của thị trường
bất động sản, Việt Nam gia nhập WTO đã tạo ra những thuận lợi và thời cơ mới cho
ngành GSXD Việt Nam để đáp ứng nhu cầu đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Có thể nói sau 3 - 4 năm gặp quá nhiều khó khăn, hiện ngành GSXD đang bắt
đầu một thời kỳ phát triển mới, giá VLXD có xu hướng tăng cao, phần nào phản ánh
đúng với sự phát triển của thị trường VLXD. Các DN sản xuất GSVS trong nước hiện
đang có xu hướng liên doanh, liên kết với nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất
sứ vệ sinh nhằm tạo sự đột phá trong phát triển sản phẩm, chiến lược thị trường.
Hiện nay còn tới trên 50% lượng gạch ngói vẫn được nung đốt từ lò thủ công với
quy mô sản xuất thủ công nên mặt bằng sản xuất phát triển tùy tiện, phá hủy đất canh
tác vì quy mô rất nhỏ cũng có thể đầu tư được nên dễ phát triển tràn lan, phá hủy môi
trường cũng như gây nên nhiều bất lợi khác cho xã hội. Đây là một thực tế đang tồn tại,
do đó việc mở rộng phạm vi sản xuất gạch ngói bằng lò nung tuynel, thu hẹp nhanh các
dạng sản xuất gạch ngói thủ công là mục tiêu cần được quán triệt trong lĩnh vực phát
triển ngành gạch ngói đất nung.
Trong gần 16 tỷ viên gạch xây quy tiêu chuẩn và khoảng trên 20 triệu m
2
ngói

lợp đã được tiêu thụ trong năm 2006, có khoảng 50% sản phẩm này được sản xuất từ
các dây chuyền tuynel. Hiện nay trên cả nước đã có khoảng gần 500 dây chuyền sản
xuất gạch ngói bằng công nghệ tuynel. Từ khi ra đời công nghệ Tuynel đồng bộ phơi -
sấy - nung theo đặc thù Việt Nam tại công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng, rồi sau đó là
Thạch Bàn và Đại Thanh sử dụng đã gặt hái được hiệu quả đáng kể. Sự bùng nổ về
công nghệ tuynel trong toàn quốc, dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt về thị trường, nên vài
năm trở lại đây các nhà máy gạch gốm tuynel đã chú trọng đa dạng hóa sản phẩm.
Ngoài gạch xây và ngói lợp truyền thống, rất nhiều nhà máy đã sản xuất các sản phẩm
gạch chẻ lát sàn có kích thước bề mặt lớn và chiều dày giảm để tăng sự ưa chuộng của
thị trường, giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh tế. Cũng như vậy, các sản phẩm ngói đa
dạng cũng xuất hiện, nhất là ngói kiểu cổ cho việc trùng tu hoặc xây mới các công trình
kiến trúc tôn giáo.
Nước ta đã gia nhập WTO, đó là thuận lợi lớn, ngoài ra nguyên liệu dồi dào, lao
động còn rẻ là những thuận lợi cơ bản. Tuy nhiên còn nhiều khó khăn mà chúng ta phải
vượt qua, trong đó khó khăn lớn nhất là chất lượng sản phẩm chưa thật vượt trội và ổn
định. Điều đó là tất yếu vì sản xuất của ta còn chia nhỏ, manh mún nên rất khó tối ưu
được chi phí và công nghệ. Ngoài việc phải xác định rằng xuất khẩu như một "công
nghệ thị trường" mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn lúng túng và thực chất đang ở
thời kỳ "tập dượt" là những khó khăn lớn.
2.2.3.Môi trường cạnh tranh ngành.
Phân tích môi trường cạnh tranh ngành đối với đối với công ty bao gồm tác
động của đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, nhà cung ứng, khách
hàng, sản phẩm thay thế. Môi trường cạnh tranh ngành cho ta thấy được vị thế của công
ty và các nguồn lực tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh của công ty.
◊ Đối thủ cạnh tranh hiện tại:
Hiện tại công ty đang là một trong những công ty sử dụng công nghệ nung tiên tiến
bằng lò tuynen, trên thị trường miền Bắc công ty có các đối thủ sản xuất cùng loại sản
phẩm là gạch ngói đất sét nung có tên tuổi như công ty cổ phần Thạch Bàn, công ty cổ
phần Hiệp Hưng…là các đối thủ cạnh tranh trực tiếp giành giật thị trường miền Bắc với
công ty.

Tên công ty Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
BẢNG 3: THỊ PHẦN GẠCH XÂY TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI MỘT SỐ NĂM
Sản lượng tiêu
thụ
(Triệu viên)
Thị
phần
(%)
Sản lượng tiêu
thụ
(Triệu viên)
Thị
phần
(%)
Sản lượng tiêu
thụ
(Triệu viên)
Thị
phần
(%)
1.Công ty cổ phần
sản xuất và thương
mại Đại Thanh
37.183.274 7,20 41.621.177 7,35 44.133.468 7,44
2.Công ty cổ phần
Thạch Bàn
38.267.565 7,41 42.568.329 7,52 45.469.923 7,67
3.Công ty cổ phần
Hiệp Hưng
33.206.729 6,43 37.997.020 6,71 39.904.892 6,73

4.Các công ty khác
112.789.264 21,84 128.770.825 22,74 155.053.926 26,15
5.Các lò gạch thủ
công
294.987.307 57,12 315.301.651 55,68 308.388.326 52,01
Tổng 516.434.361 100,00 566.274.517 100,00 592.940.446 100,0
Nguồn từ phòng kế hoạch kinh doanh của công ty
Ngoài công ty Thạch Bàn hay Hiệp Hưng đều sản xuất bằng công nghệ tuynen thì
các xưởng sản xuất nhỏ lẻ nung gạch thủ công bằng lò nung truyền thống trên địa bàn
ngoại thành Hà Nội và các tỉnh lân cận cũng là đối thủ giành giật thị phần của công ty.
Hiện nay công ty xác định một trong những đối thủ chính và trực tiếp tác động đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đó là công ty cổ phần Thạch Bàn Viglacera,
là một công ty thuộc tổng công ty gốm sứ thủy tinh (Viglacera) cũng sản xuất sản phẩm
cùng gạch ngói đất sét nung. Nằm ở Thạch Bàn-Gia Lâm-Hà Nội, công ty cổ phần
Thạch Bàn Viglacera là công ty sản xuất các loại gạch ngói bao gồm cả sản phẩm là
gạch ngói các loại, gạch ốp lát…phong phú về chủng loại.Với kinh nghiệm hơn 40 năm
phát triển công ty thực sự tỏ ra là đối thủ của công ty Đại Thanh.
Bảng 4 cho ta thấy thị phần của công ty so với các đối thủ trên địa bàn Hà Nội và
các tỉnh lân cận một số năm gần đây, ta thấy thị phần của gạch thủ công trên địa bàn là
tương đối lớn và có xu hướng giảm qua các năm do công suất và hiêu quả các lò nung
tuynen, mặt khác khách hàng ngày càng quan tâm đến chất lượng của gạch cho nên
chọn mua những loại gạch được sản xuât với công nghệ tiên tiến có uy tín.
Bên cạnh đó thì thị phần của các doanh nghiệp sản xuất gạch xây bằng công nghệ
tuynen ngày càng tăng không ngừng. Thị phần của công ty Cổ phần Thạch Bàn lớn hơn
thị phần của công ty Đại Thanh và tốc độ tăng trưởng trên thị phần của công ty Đại
Thanh năm 2005-2006 là 0,15 %, năm 2006-2007 là 0,09% trong khi đó tốc độ tăng thị
phần của công ty Thạch Bàn năm 2005-2006 là 0.11, năm 2006-2007 là 1,15 % cho
thấy tốc độ tăng trưởng của công ty Đại Thanh chậm hơn tốc độ tăng trưởng của công
ty Thạch Bàn.
Để có cái nhìn khách quan hơn chúng ta cùng so sánh chỉ tiêu lợi nhuận của hai

công ty trong một số năm gần đây
Bảng 4 : LỢI NHUẬN CÔNG TY THẠCH BÀN VÀ ĐẠI THANH
Công ty Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Công ty cổ phần Đại Thanh 695.914.477 735.155.352 928.068.923
Công ty cổ phần Thạch Bàn 723.054.622 836.794.300 1.259.643.587
Nguồn từ báo cáo kêt quả sản xuất kinh doanh của các công ty
Căn cứ vào biểu đồ 4 ta thấy lợi nhuận của công ty cổ phần Thạch Bàn cao hơn hẳn
lợi nhuận của công ty cổ phần sản xuất thương mại Đại Thanh. Lý do là do thị phần tiêu
thụ của công ty Thạch Bàn trên thị trường cao hơn so với công ty Đại Thanh. Qua đây
cúng cho ta thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty Đại Thanh còn hạn chế hơn
so với đối thủ cạnh tranh trực tiếp là công ty cổ phần Thạch Bàn.
◊ Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn :
Hiện nay nhu cầu tiêu dùng nguyên vật liệu xây dựng rất lớn, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của ngành xây dựng kéo theo các công ty sản xuất vật liệu xây dựng mà
cụ thể là sản xuât các sản phẩm gạch ngói cũng phát triển mạnh mẽ.Nhiều công ty sản
xuất mới mọc ra và nhiều công ty hiện tại nắm giữ một thị phần nhất định đang mở
rộng thêm quy mô đầu tư, đầu tư thêm trang thiết bị tiên tiến sản xuất với năng suất và
hiệu quả cao hơn nhằm bành trướng ra thị trường. Do vậy công ty cổ phần sản xuất và
thương mại Đại Thanh đang đứng trước thực tế là nhiều đối thủ cạnh tranh đang ngày
càng mở rộng quy mô đầu tư của mình,một số làng nghề lân cận thành phố Hà Nội
trước đây vốn sản xuất thủ công nhỏ lẻ có xu hướng liên kết với nhau tăng tầm ảnh
hưởng sản xuất, dẫn tới một đòi hỏi cấp thiết là công ty phải cố gắng hoàn thiện hơn
nữa để tăng khả năng cạnh tranh của mình giữ vững nguồn lực đang có và mở rộng thị
phần hơn nữa.
◊ Sản phẩm thay thế:
Cùng với sự phát triển của ngành xây dựng thì sản phẩm nguyên vật liệu sản
xuất cho xây dựng cũng đang nở rộ. Bên cạnh sản phẩm gạch ngói bằng đất sét nung thì
các sản phẩm gạch men, gạch ốp lát hay các sản phẩm tráng men ốp nền cũng đang
phong phú về chủng loại cũng như chất lượng ngày càng khẳng định. Các sản phẩm này
cũng có thể thay thế cho các sản phẩm gạch xây cho công ty ở một số vị trí như lát nền

hay xây dựng những nơi là sảnh lớn đòi hỏi tính mỹ quan cao. Như chúng ta đã biết thì
hiện nay các sản phẩm gạch men hay đá ốp lát của tổng công ty gốm sứ thủy tinh
(Viglacera) đang chiếm uy tín lớn về chất lượng cũng như phong phú về mẫu mã chất
lượng, việc bị thay thế bằng các sản phẩm gạch men cũng là vấn đề gây ra trở ngại lớn
đối với quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty,đòi hỏi công ty phải hoàn thiện danh
mục sản phẩm của mình,tạo ra uy tín hơn nữa cho những sản phẩm có mẫu mã đẹp mắt
đánh bật khả năng thay thế của các sản phẩm gạch men.
Bên cạnh đó, hiện nay tiềm lực tiêu thụ sản phẩm trong nhân dân với các công
trình xây dựng nhỏ lẻ là rất lớn, tuy nhiên người dân đã quen với việc sử dụng các sản
phẩm gạch nung thông thường bằng đất sét có chất lượng thông thương do nung thủ
công mà chưa có thói quen sử dụng các sản phẩm gạch ngói nung từ 2 đến 11 lỗ, nung
với công nghệ cao, chất lượng tốt mà công ty sản xuất ra.Việc đánh bật các sản phẩm
gạch ngói thông thường nung thủ công bằng lò nung truyền thống đòi hỏi công ty phải
nỗ lực hơn nữa trong việc quảng bá sản phẩm của mình đến với người dân, khẳng định
chất lượng sản phẩm của mình với tính năng vượt trội cũng như khả năng đảm bảo an
toàn về chất lượng. Đây cũng chính là thị trường mà công ty đánh giá là chưa khai thác
hết và cần có chính sách phù hợp để khai thác triệt để thị trường này.
◊ Nhà cung ứng:
Hiện nay công ty không gặp mấy trở ngại trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu
sản xuất,bởi lẽ công ty nằm kề cận mỏ khai thác đất sét thuộc tỉnh Hưng Yên, là nguồn
đất sét cung cấp cho cả khu công nghiệp kề cận Hà Nội. Công ty cũng đã có những
chính sách hợp lý với những bản hợp đồng dài hạn đảm bảo nguồn nguyên vật liệu
chính là đất sét đáp ứng cho sản xuất lâu dài.
Không như các xưởng sản xuất gạch ngói truyền thống khác công ty nung với lò
nung tuynen nên nguồn nhiệt lượng chủ yếu là điện năng. Ở vị trí thuận lợi của khu
công nghiệp miền Bắc nên công ty cũng không gặp vấn đề gì trong nguồn cung cấp
điện năng sử dụng sản xuất.
◊ Khách hàng:
Khách hàng chủ yếu của công ty là các công trình xây dựng ở miền Bắc, công ty
đáp ứng cho hầu hết các công trình sản xuất ở thủ đô Hà Nội cũng như các tỉnh lân

cận,đặc biệt công ty có bạn hàng là các công ty thuộc tổng công ty xây dựng
(Vinaconex), là bạn hàng lâu năm và thường có nhiều hợp đồng tiêu thụ với số lượng
lớn.
Ngoài ra một nguồn khách hàng mà công ty đang cố gắng khai thác đó là khả
năng tiêu thụ của người dân trên địa bàn các tỉnh lân cận. Vấn đề đặt ra đối với các
khách hàng này là sức ép về giá cả. Người dân băn khoăn giữa hai loại sản phẩm đặc
thù đó là sản phẩm do công ty sản xuất có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, đảm bảo an toàn
về mặt kỹ thuật nhưng giá cả cao hơn so với sản phẩm là gạch ngói nung thông thường
nung trong các lò truyền thống thường có giá rẻ hơn nhưng không có mẫu mã đẹp và
phong phú như sản phẩm công ty sản xuất. Tuy nhiên với mức sống người dân ngày
càng hoàn thiện và nhu cầu sử dụng sản phẩm có chất lượng trong người dân ngày càng
nâng cao thì đây là mảng thị trường mà công ty đang cố gắng khai thác.
Công ty luôn tìm kiếm các khách hàng mới có tiềm năng như thị trường Bắc
Trung Bộ, Tây Bắc Bộ hay tìm kiếm xuất các lô hàng sang bên kia biên giới như Trung
Quốc hay các nước lân cận. Đây chính là khách hàng tiềm năng của công ty và công ty
đang từng bước cải thiện danh mục sản phẩm của mình đạt mục tiêu xuất khẩu với sản
lượng lớn.
2.3.Sử dụng chuỗi giá trị làm công cụ để phân tích đánh giá năng lực cạnh
tranh của công ty cổ phần sản xuất và thương mại Đại Thanh.
2.3.1.Mô hình chuỗi giá trị
Gía trị một công ty tạo ra được đo bằng khối lượng mà người mua sẵn sàng trả
cho sản phẩm hay dịch vụ. Để đạt được lợi thế cạnh tranh các bộ phận chức năng của
công ty phải tạo ra một giá trị với chi phí thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh hoặc phải
làm cho sản phẩm của mình khác biệt với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh nhằm tạo ra
giá bán cao hơn trên thị trường.
Quy trình tạo chuỗi giá trị của công ty được trình bày thông qua khái niệm
“Chuỗi giá trị” do giáo sư Michel Porter, một bậc thầy về kinh tế học đưa ra về lý
thuyết cạnh tranh vào năm 1985 (Mô hình chuỗi giá trị được trình bày ở sơ đồ 3 ).
SƠ ĐỒ 3: MÔ HÌNH CHUỖI GIÁ TRỊ
.

Chuỗi giá trị được phân thành các hoạt động chính và hoạt động hỗ trợ. Mỗi hoạt
động đều làm tăng giá trị của sản phẩm. Những hoạt động chính chịu trách nhiệm tạo ra
sản phẩm vật chất, tiếp thị và sau bán hàng. Các hoạt động hỗ trợ là những hoạt động
chức năng trợ giúp cho các hoạt động chính như các hoạt động của bộ phận chế tạo và
Marketing.
Đề tài này chủ yếu sử dụng chuỗi giá trị để phân tích và so sánh các hoạt động
cấu thành chuỗi giá trị của công ty cổ phần sản xuất thương mại Đại Thanh và công ty
Thạch Bàn Viglacera nhằm đánh giá được năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần sản
xuất và thương mại Đại Thanh từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao khả năng cạnh
tranh cho các sản phẩm mà công ty sản xuất.
2.3.2.Lý do sử dụng mô hình chuỗi giá trị để đánh giá khả năng cạnh tranh
của công ty.
Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp và chuỗi giá trị của công ty có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Các hoạt động của doanh nghiệp tạo thành chuỗi giá trị thỏa mãn
nhu cầu khách hàng cũng cấu tạo nên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Để tạo được
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp thì công ty cần phải kiểm soát được các hoạt động
trong chuỗi giá trị nhằm giảm thiểu chi phí hoặc tạo ra được sự khác biệt hóa sản phẩm
của mình so với đổi thủ cạnh tranh, để làm được điều này thì đòi hỏi công ty phải có kết
hợp được các nguồn lực trong chuỗi giá trị tạo thành sản phẩm trong doanh nghiệp
mình.
Do các hoạt động trong chuỗi giá trị có mối liên hệ với nhau và tạo nên nguồn
sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp, phân tích chuỗi giá trị của doanh nghiệp chính
là phân tích cốt lõi của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó ta dễ
dàng nhận thấy những điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp, từ đó có thể đánh giá
được tồn tại của doanh nghiệp và thấy được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như
thế nào.
2.4.Phân tích chuỗi giá trị đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty cổ
phần sản xuất thương mại Đại Thanh.
2.4.1.Các hoạt động chính.
2.4.1.1.Hậu cần đầu vào.

 Công tác tiếp nhận và lưu kho nguyên vật liệu:
Hoạt động tiếp nhận và lưu kho nguyên vật liệu của công ty diễn ra song song
với quá trình sản xuất thành phẩm của các nhà máy. Bởi vì nguyên vật liệu chủ yếu của
công ty là than và đất sét nên hoạt động lưu trữ nguyên vật liệu chuẩn bị cho lò nung
tuynen là rất quan trọng, bởi vì nếu bảo quản than không hợp lý có thể dẫn đến chất
lượng nung trong lò không được tốt sẽ ảnh hưởng tới chất lượng thành phẩm sau này.
Công ty luôn chú trọng tới công tác hậu cần trước sản xuất và kiểm soát chặt chẽ quá
trình này.
Than được công ty đặt hàng mua từ nơi khác đến nên công tác vận chuyển đến
các nhà máy và công tác lưu kho được chuẩn bị kỹ lưỡng. Thông thường công ty vận
chuyển than bằng đường sông Hồng từ nhà cung cấp ở Quảng Ninh cũng như một số

×