Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn
giai đoạn 2005 - 2007
2.1. Ngành Da - Giầy Việt Nam
2.1.1.Bối cảnh chung ngành Da - Giầy Việt Nam
Ngành Da - Giầy Việt Nam đã phát triển rất nhanh và được xem là một
trong những ngành công nghiệp chính đưa nền kinh tế nước ta phát triển. Da -
Giầy là một trong ba ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất hiện nay sau
dầu thô và dệt may, chiếm trên 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Với khoảng 240
doanh nghiệp đang hoạt động, ngành Da - Giầy đang là một ngành xuất khẩu
mũi nhọn, thu hút khoảng 500.000 lao động hàng năm.
Hiện nay ngành Da - Giầy Việt Nam đứng thứ tư trong số 8 nước xuất
khẩu trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italia, thế nhưng 90%
sản phẩm của giầy da Việt Nam là hàng gia công.Kim ngạch xuất khẩu của
ngành Da - Giầy vẫn đạt mức tăng trưởng đều đặn hàng năm.Tuy nhiên theo
các chuyên gia, hiện nay ngành này đang phải đối mặt với bài toán hóc búa về
thương hiệu, chiến lược phát triển và mất dần lợi thế.
Các doanh nghiệp nội địa ngành Da - Giầy Việt Nam đang có ba bất lợi
lớn: Thứ nhất là không chủ động được nguồn nguyên liệu nên phụ thuộc vào
khách hàng và các nhà cung cấp nguyên liệu từ Trung Quốc, Đài Loan và Hàn
Quốc. Thứ hai là tiềm lực khoa học công nghệ chưa mạnh nên không có sức
cạnh tranh và doanh nghiệp phải làm gia công cho các Công ty liên doanh
nước ngoài là chủ yếu.Và cuối cùng là công tác xúc tiến thương mại kém, nên
hầu hết các doanh nghiệp sản xuất làm gia công ở tầng thứ 2, thứ 3.Như vậy,
cái gọi là sức cạnh tranh, tiềm lực mạnh của ngành Da - Giầy đều thuộc về các
Công ty lớn của Trung Quốc, Đài Loan…đặt tại Việt Nam.Theo Bộ Công
Thương, mỗi năm nước ta vẫn phải nhập 6 triệu feet vuông da thuộc. Nhà máy
thuộc da chưa đáp ứng được 10% nhu cầu và hiện chỉ hoạt động được 25% công
suất do thiếu nguyên liệu. Hàng năm, Việt Nam chỉ có thể cung cấp 5000 tấn da
bò và 100 tấn da trâu nhưng nguồn nguyên liệu nội địa không được tận dụng và
giá trị xuất khẩu thấp. 60% nguồn da này được xuất sang Trung Quốc và Thái
Lan, phần còn lại thì không đủ sản xuất để xuất khẩu. Ngoài ra trong số 30%
doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào sản xuất giầy da thì có tới 70% làm gia
công vì thế giá trị lợi nhuận đích thực do ngành này mang lại không lớn.Và
chưa đến 20 doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam đủ sức làm hàng dạng FOB.
Giầy vải vốn là mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam đang bị hàng của Trung
Quốc chiếm chỗ và Việt Nam hiện đang xuất khẩu chủ yếu là hàng thể thao,
giầy dép, hài đi trong nhà. Hiện nay, giầy Trung Quốc chiếm phần lớn là giầy
thể thao( bằng vải hoặc bằng cao su đúc nguyên khối), kế đến là giầy thời trang
giả da lót simili và một số ít dép xốp đi trong nhà bằng cao su mềm(EVA). Mặc
dù hàng Trung Quốc chất lượng thật sự không cao nhưng với tốc độ mẫu mới ra
liên tục, đủ màu sắc mà giá lại mềm nên đã thu hút được người tiêu dùng.
Điểm yếu của các Công ty sản xuất giầy Việt Nam là chưa có sự định
hướng rõ rệt, chưa tạo được dấu ấn cho thương hiệu của mình dẫn đến người
tiêu dùng có nhận thức khá mơ hồ về các thương hiệu.
Công ty cổ phần Long Sơn là một doanh nghiệp trẻ của ngành Da - Giầy
Việt Nam cũng đang có được rất nhiều thuận lợi và phải đối mặt với không ít
những thách thức do sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh
trong nước và quốc tế. Để có thể đứng vững và không ngừng phát triển, Công ty
đang tiếp tục duy trì và hoàn thiện chiến lược kinh doanh nhằm đạt được mục
tiêu chiến lược trong từng thời kỳ nhất định.
Thuận lợi và khó khăn của ngành Da - Giầy Việt Nam nói chung và của
Công ty cổ phần Long Sơn nói riêng trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới và
khu vực:
2.1.1.1. Thuận lợi:
- Được EU dành cho thuế ưu đãi GSP, sản phẩm nhập khẩu của Việt Nam bán
tại các nước EU có mức giá cạnh tranh ( do thuế nhập khẩu thấp hơn các
nước trong khu vực ). Lợi thế này các đối tác với Việt Nam đang hưởng lợi
nhiều hơn chính các doanh nghiệp Việt Nam.
- Nhu cầu tiêu dùng lớn, ổn định và ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng
giá trị của đồng EURO.
- Chất lượng sản phẩm giầy dép của Việt Nam phù hợp và đáp ứng yêu cầu
của người tiêu dùng trong các nước EU.
- Các nước EU mở rộng tạo thêm nhiều cơ hội để các doanh nghiệp Da –
Giầy Việt Nam xuất khẩu sang EU ( với chính sách đồng nhất của EU được
thực thi từ tháng 5/2004 ).
- Các lợi thế khác từ mối quan hệ Việt Nam – EU , giữa các doanh nghiệp Da
– Giầy Việt Nam với các nhà nhập khẩu EU ( quan hệ trực tiếp và thông qua
đối tác EU ).
2.1.1.2.Khó khăn, thách thức:
- Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng trong thời gian qua. Hiện
tại chiếm trên 20% kim ngạch xuất khẩu giầy dép của EU ( khi vượt qua
25%, EU sẽ có biện pháp mạnh để hạn chế ).
- Sức ép do Trung Quốc gia nhập WTO, hiện tại sản lượng giầy dép của Trung
Quốc tiêu thụ tại thị trường EU rất lớn với mẫu mã đa dạng, phong phú, giá
cả rất cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu nhanh ( tuy chất lượng không được đảm
bảo như giầy dép sản xuất tại Việt Nam. Khi chính thức Trung Quốc được
thực thi các quy định của WTO ( sau năm 2005 ), các lợi thế đã tăng lên
nhiều và các sản phẩm của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn.
- Những hạn chế do phương thức gia công, các doanh nghiệp Việt Nam ít có
quan hệ trực tiếp với các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng EU để nắm bắt
xu hướng tiêu dùng, nhu cầu và những biến động của thị trường theo thời
gian nhằm có chiến lược kinh doanh thích hợp.
- Hạn chế về khả năng tự thiết kế, ra mẫu chào hàng, chủ động cân đối các
điều kiện cho sản xuất ( từ nguồn vật tư trong nước ) và khả năng đáp ứng
các yêu cầu của các nhà nhập khẩu ( về tiêu chuẩn sản phẩm, về môi trường
và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ).
- Các doanh nghiệp trong ngành sẽ gặp nhiều khó khăn hơn nếu EU xem xét
không cho phép được tiếp tục hưởng ưu đãi thuế quan ( GSP ), đặc biệt các
đối tác sẽ di dời sản xuất tới các quốc gia có lợi thế xuất khẩu hơn trong khu
vực.
2.1.2. Tình hình xuất khẩu hàng Da – Giầy Việt Nam
- Việt Nam chiếm vị trí thứ tư trên thế giới về xuất khẩu hàng giầy dép sau
Trung Quốc, Hồng Kông và Italia, với kim ngạch đạt trên 2,6 tỷ USD trong
năm 2004, tăng gần 15% so với năm 2003. Và năm 2005, ngành Da - Giầy
Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu 470 triệu đôi giáy dép với tổng kim ngạch
xuất khẩu ngành đạt 3,3 tỷ USD. Năm 2005, Việt Nam mở rộng thị trường
xuất khẩu với Nhật, Nga, các nước Đông Nam Á, Đông Âu, Trung Đông và
châu Phi.
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành này trong vài năm gần đây đạt khá
cao. Việt Nam hiện là một trong 10 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu
giầy dép. Trong đó, 20% lượng giầy dép nhập khẩu của EU là từ Việt Nam,
chiếm tới 80% tổng giá trị xuất khẩu của toàn ngành với trên 200 triệu đôi
năm 2002, đứng thứ 2 sau Trung Quốc.
Bảng 2.1. Giá trị xuất khẩu Da - Giầy Việt Nam 2001-2006
ĐVT: Triệu USD
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Giá trị xuất khẩu 1500 1600 1800 2250 2700 3039 3550
(Nguồn: Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam)
Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu giầy dép các loại trong tháng
10 năm 2006 đạt 280,9 triệu USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn
ngành 10 tháng đầu năm 2006 đạt 2,9 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm
2005.
Năm 2006, tình hình sản xuất kinh doanh của toàn ngành có nhiều biến
động so với năm 2005, một phần do 3 tháng đầu năm 2006, nhiều doanh nghiệp
phải ngừng sản xuất hoặc ít đơn hàng hơn do ảnh hưởng của vụ kiện chống bán
phá giá các loại giầy có mũ từ da xuất xứ Việt Nam và Trung Quốc xuất khẩu
vào các nước EU, một phần do phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế,
sức ép của quá trình hội nhập ngày càng gia tăng, cùng với việc phải đáp ứng
nhiều yêu cầu của các nhà nhập khẩu, người tiêu dùng quốc tế (yêu cầu về cải
thiện cơ sở hạ tầng và môi trường làm việc, đáp ứng các tiêu chuẩn về nhãn
mác, yêu cầu hạn chế các hoá chất độc hại trong sản phẩm, yêu cầu thực hiện tốt
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và yêu cầu thực hiện tốt các tiêu chuẩn
quốc tế...). Tuy nhiên, các biến động lớn nhất là thị trường và cơ cấu sản phẩm,
cụ thể:
Theo đề án phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam giai đoạn 2002-2010 đã
được Bộ Công nghiệp( nay là Bộ Công Thương ) trình Chính phủ phê duyệt, để
đạt được mục tiêu trên, ngành Da - Giầy sẽ cần phải đầu tư khoảng 12.000 tỷ
đồng từ đây đến năm 2005 và 14.000 tỷ đồng giai đoạn 2005-2010. Với chiến
lược phát triển này, ngành Da - Giầy dự kiến sẽ sản xuất được khoảng 50%
nguyên liệu cho sản xuất giầy vào năm 2005 và tăng lên 80% vào năm 2010.
Các chuyên gia của ngành này cho biết, mặc dù có đến 90% sản lượng xuất
khẩu nhưng lợi nhuận thu về từ ngành Da - Giầy chỉ đạt ở mức 25% giá trị gia
tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn gia công hàng cho các đối tác nước ngoài.
Nguyên vật liệu sản xuất trong ngành Da - Giầy (chiếm đến 80% giá trị gia
tăng của sản phẩm) hiện nay đang là khâu yếu nhất của ngành Da - Giầy Việt
Nam, trong đó đặc biệt là khâu chế biến da, nguyên liệu chính cho ngành sản
xuất giầy. Các loại giầy như giầy thể thao, giầy nữ là những mặt hàng Việt Nam
đang có lợi thế cạnh tranh do có thị trường tiêu thụ lớn.
Thị trường EU vẫn là thị trường xuất khẩu chính của các doanh nghiệp
trong ngành song có nhiều biến động do ảnh hưởng vụ kiện, sức mua và cơ cấu
sản phẩm thay đổi, đồng thời phụ thuộc nhiều vào các đối tác đặt hàng, hợp tác
sản xuất và sức ép về thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu và
số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tăng đáng kể. Chỉ
tính riêng trong 8 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ
tăng trưởng 37%. Thị trường Hoa kỳ được nhiều doanh nghiệp trong ngành
hướng tới, một phần do tác động vụ kiện, một phần do nhu cầu đa dạng, phong
phú, và quan hệ song phương được cải thiện, các doanh nghiệp chuyển hướng
nhằm đa dạng hoá thị trường, hạn chế rủi ro khi bị áp thuế phá giá cao tại thị
trường EU, đặc biệt tranh thủ các lợi thế về ưu đãi thuế quan, cải thiện quan hệ
thương mại khi VN chính thức gia nhập WTO. Tuy nhiên, để xâm nhập thị
trường Hoa kỳ, các doanh nghiệp cần tìm kiếm đối tác tin cậy, gắn với các kênh
phân phối lớn và các nhãn hiệu giầy nổi tiếng (Hiện tại, gần 80% lượng hàng
tiêu thụ thụ tại Hoa kỳ do các nhà phân phối lớn chi phối, trên 50% lượng giầy
tiêu thụ tại Hoa kỳ là hàng hiệu. Thị trường Nhật vẫn là thị trường yêu cầu chất
lượng cao và khó tính, hiện tại kim ngạch xuất khẩu giầy dép vào Nhật chiếm tỷ
trọng rất thấp và khó có khả năng tăng trưởng nhanh trong thời gian tới đây. Để
xâm nhập thị trượng này, các doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị đầy đủ các điều
kiện cho sản xuất, sẵn sàng thực hiện các lô hàng nhỏ và đáp ứng nhanh yêu
cầu, đồng thời sản xuất các loại giầy có chất lượng cao. Thị trường Mêhicô, tuy
chiếm tỷ trọng không lớn (Năm 2005 đạt 105,257 triệu USD), song có dấu hiệu
sẽ bị kiện phá giá do tốc độ xuất khẩu từ Việt Nam vào Mehicô tăng nhanh, giá
cả thấp (các doanh nghiệp và đối tác tranh thủ xuất khẩu qua thị trường này để
vào Hoa Kỳ và các nước lân cận với lợi thế ưu đãi của khu vực mậu dịch tự do
Bắc Mỹ (NAFTA)). Các thị trường khác (như Đông Âu, các nước Nam Phi...)
đã và đang được các doanh nghiệp quan tâm khảo sát và tìm hiểu, song hạn chế
của thị trường này là khâu thanh toán, rủi ro cao.
Hàng Việt Nam khó có thể cạnh tranh với Trung Quốc về mặt giá cả trên
hầu hết các thị trường. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép của nước ta
cần đặc biệt chú trọng những sản phẩm có chất lượng cao để tạo ra lợi thế cạnh
tranh riêng. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Công nghiệp( nay là Bộ Công
Thương ), giá trị gia tăng trong xuất khẩu mặt hàng này còn thấp (bình quân
khoảng 25%) do phụ thuộc vào nguyên liệu đầu vào theo đơn hàng của các tập
đoàn lớn. Vấn đề này đòi hỏi ngành trong năm 2005 và những năm tới phải có
những giải pháp nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước cao hơn.
Ngoài ra, các thị trường khác như Nhật Bản, Đông Âu và Nam Phi cũng là mục
tiêu mà các doanh nghiệp trong ngành đang hướng tới. Hiệp hội Da - Giầy Việt
Nam vẫn đang tiếp tục tìm kiếm những giải pháp tích cực để đề suất và kiến
nghị Uỷ ban Châu Âu xem xét lại quyết định áp thuế càng sớm, càng tốt, đảm
bảo lợi ích của các doanh nghiệp trong ngành Da - Giầy Việt Nam, đặc biệt
trong quá trình hội nhập.
2.2.Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn
2.2.1.Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn
2005 – 2007
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Long Sơn
được tổng hợp và đánh giá qua Bảng 2.2:
Bảng 2.2.Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần
Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
ĐVT: 1000VNĐ
Stt Các chỉ
tiêu
Thực hiện So sánh
2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006
1 Doanh
thu thuần
28.922.489 27.318.568 41.315.412 0,94 1,51
2 Giá vốn
hàng bán
(CPSX)
24.665.639 23.741.178 34.154.054 0,96 1,44
3 Chi phí
quản lý
kinh
doanh
4.225.857 3.402.416 6.911.551 0,805 2,03
4 Lợi nhuận
từ hoạt
động kinh
doanh
30.993 174.973 249.807 5,76 1,43
5 Thuế
TNDN
phải nộp
8.678 49.992 69.946 5,76 1,399
6 Lợi nhuận
sau thuế
22.315 125.981 179.861 5,04 1,43
(Nguồn: Phòng Kế toán – Tài vụ Công ty cổ phần Long Sơn)
Từ bảng tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty cổ
phần Long Sơn ta có thể nhận thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
đã có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực song lại chưa ổn định. Cụ thể
là:
- Doanh thu thuần năm 2006 giảm 6% so với doanh thu thuần năm 2005
tương ứng với số tiền giảm là 1.603.921.000VNĐ, nhưng đến năm 2007
doanh thu thuần lại tăng 51% so với năm 2006 tương ứng với số tiền tăng
lên là 13.996.844.000VNĐ.
- Giá vốn hàng bán năm 2006 giảm 4% so với giá vốn hàng bán năm 2005
tương ứng với số tiền giảm là 924.461.000VNĐ, giá vốn hàng bán năm 2007
lại tăng 44% so với giá vốn hàng bán năm 2006 tương ứng với số tiền tăng
lên là 10.412.876.000VNĐ.
- Chi phí quản lý năm 2006 giảm 19,5% nhưng năm 2007, khoản chi phí này
lại tăng lên 103% so với chi phí quản lý năm 2006 tương ứng với số tiền
tăng lên là 3.509.135.000VNĐ.
- Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần Long Sơn năm
2006 tăng lên tới mức 476% so với năm 2005 tương ứng với số tiền tăng lên
là 144.580.000VNĐ, năm 2007 khoản lợi nhuận này tăng lên 43% so với
năm 2006 tương ứng với số tiền tăng là 74.834.000VNĐ.
- Khoản đóng góp của Công ty cổ phần Long Sơn vào Ngân sách Nhà nước
tăng từ 8.678.000VNĐ (2005) lên đến 48.992.000VNĐ(2006) và
69.946.000VNĐ(20070, điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh
của Công ty đóng góp một phần làm tăng GDP của nước ta.
- Lợi nhuận sau thuế của Công ty năm 2006 và 2007 đều tăng lên cụ thể là:
năm 2006 tăng 404% so với năm 2005 tương ứng với số tiền tăng lên là
102.666.000VNĐ, năm 2007 tăng 43% so với năm 2006 tương ứng với số
tiền tăng lên là 53.880.000VNĐ.
Về hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng giầy dép các loại thì doanh
thu thuần chiếm 7,69% so với tổng doanh thu thuần(2005), chiếm 93% so với
tổng doanh thu thuần( 2006), chiếm 73,5% so với tổng doanh thu thuần(2007).
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh giầy dép của Công ty chiếm 56,1%
năm 2005, 33,2% năm 2006 và 57,2% năm 2007 so với tổng lợi nhuận của
Công ty. Từ đó, ta có thể thấy doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất
kinh doanh giầy dép chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu và lợi nhuận sau
thuế của Công ty. Tuy nhiên, Công ty chủ yếu nhận đặt hàng gia công các sản
phẩm giầy dép từ đối tác nước ngoài nên còn phụ thuộc nhiều vào việc nhập
nguyên, phụ liệu cho hoạt động sản xuất của Công ty và do đó lợi nhuận thu
được tuy đã tăng nhưng chưa cao, hoạt động sản xuất chưa thực sự ổn định.
Hoạt động xuất khẩu giầy dép các loại là hoạt động mang lại nguồn lợi
nhuận lớn, lợi nhuận sau thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh giầy dép chiếm
tới 56,12% ( năm 2005), 33,22% ( năm 2006 ), và chiếm 57,23% trong tổng lợi
nhuận sau thuế của Công ty.Dưới đây là bảng tình hình xuất khẩu của Công ty:
Bảng 2.3.Tình hình xuất khẩu giầy dép của Công ty cổ phần Long Sơn
giai đoạn 2005 - 2007
ĐVT: Đôi
Stt Thị trường tiêu thụ Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
1 Đức 1.155.032 903.318 1.042.843
2 Pháp 69.540 27.999 70.458
3 Bỉ 3.828 12.663 15.354
4 Canada 16.544 15.856 15.844
5 Hà Lan 161.071 110.328 81.980
6 Đan Mạch 12.837 22.517 2.706
7 Italia 264.937 205.191 170.844
8 Thụy Điển 74.592 74.881 144.924
9 Anh 16.791 52.700 6.300
10 Các nước khác 289.418 446.060 605.120
( Nguồn: Phòng Xuất – Nhập khẩu Công ty cổ phần Long Sơn )
Trong thời gian qua, Công ty cổ phần Long Sơn vẫn duy trì việc xuất
khẩu giầy dép sang các nước thuộc thị trường châu Âu ( EU ) và không ngừng
tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước ngoài khối Liên minh
EU. Nhìn chung, thị trường xuất khẩu lớn của Công ty cổ phần Long Sơn vẫn là
thị trường các nước như Đức, Anh. Tuy nhiên, sản lượng giầy dép xuất khẩu
sang các nước không đều qua các năm, do có sự biến động về số lượng giầy dép
ký kết trong hợp đồng với các đối tác nước ngoài và do sự biến động về giá cả
nguyên, phụ liệu cho hoạt động gia công. Biểu 2.1; 2.2; 2.3 sẽ cho ta thấy sản
lượng giầy dáp xuất khẩu sang thị trường các nước của Công ty cổ phần Long
Sơn giai đoạn 2005 – 2007:
Biểu 2.1.Sản lượng giầy dép tiêu thụ trên thị thường các nước của Công ty cổ
phần Long Sơn giai đoạn 2005 -2007
Tại thị trường các nước Anh, Đức, Pháp vẫn được Công ty duy trì và mở rộng, tuy nhiên
thị trường Bỉ, Canada và Đan Mạch vẫn chưa được chú trọng. Sản lượng giầy dép xuất khẩu
sang các nước này chỉ chiếm khoảng 0,7 – 1,2% so với tổng sản lượng xuất khẩu sang các nước
thuộc thị trường châu Âu.
2.2.2.Phân tích năng lực cạnh tranh của Công ty thông qua các yếu tố
nội lực
2.2.2.1.Nguồn lực vật chất và tài chính
Nguồn lực vật chất của Công ty cổ phần Long Sơn không chỉ biểu hiện ở
hệ thống phân xưởng, nhà máy của Công ty mà còn được biểu hiện thông qua số
lượng máy móc, thiết bị được sử dụng vào hoạt động sản xuất, gia công sản
phẩm giầy dép các loại của Công ty:
Bảng 2.4 .Tình hình máy móc thiết bị của Công ty tính đến 31/12/2007
Stt Tên thiết bị Nước sản xuất Số lượng Giá trị còn lại
1 Máy may Nhật 49 máy 85%
2 Máy chặt Nhật 36 máy 80%
3 Máy bồi Hàn Quốc 1 bộ 88%
4 Máy nén khí Hàn Quốc 16 máy 91%
5 Máy gồ mũi Nhật 6 máy 87%
6 Máy ép Hàn Quốc 18 máy 86%
7 Máy in xoa Hàn Quốc 18 máy 90%
8 Máy mài Nhật 18 máy 87%
(Nguồn : Phòng Quản lý và điều hành sản xuất Công ty cổ phần Long Sơn)
Nhìn chung, máy móc thiết bị trong toàn Công ty cổ phần Long Sơn phần
lớn là được nâng cấp, sửa chữa và mua sắm mới, dây chuyền sản xuất được
đồng bộ hóa do đối tác Đài Loan cung cấp do đó đảm bảo cho hoạt động gia
công, sản xuất giầy dép xuất khẩu trong Công ty đạt hiệu quả cao nhất.
Tổng giá trị máy móc, thiết bị và khấu hao tài sản cố định được sử dụng
và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Long Sơn được thống
kê trong Bảng 2.5:
Bảng 2.5.Tình hình tăng, giảm TSCĐ hữu hình của Công ty cổ phần Long Sơn tính
đến 31/12/2007
Khoản mục
Nhà cửa,
vật kiến trúc
Máy móc,
thiết bị
Phương tiện
vận tải,
vật truyền dẫn
Tổng cộng
1.Nguyên giá TSCĐ 26.779.991.161 1.370.508.300 1.534.469.000 29.684.968.461
2.Giá trị khấu hao 2.091.059.000 127.821.000 88.000.000 2.306.888.000
3.Giá trị còn lại của
TSCĐ hữu hình
15.188.840.161 425.705.300 1.370.043.000 16.984.588.461
Biểu 2.2.Biểu đồ % TSCĐ của Công ty cổ phần Long Sơn
Vốn là một trong những nguồn lực quan trọng nhất và không thể thiếu
trong quá trình sản xuất kinh doanh và là yếu tố quan trọng tạo nên năng lực
cạnh tranh của Công ty. Trong thời gian qua, hoạt động sản xuất kinh doanh
nói chung và hoạt động xuất khẩu giầy dép của Công ty cổ phần Long Sơn đạt
được nhiều thành tựu đáng kể do đó mà nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn cũng
tăng lên và thay đổi qua các năm:
Bảng 2.6 .Tình hình nguồn vốn của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn 2005 – 2007
ĐVT: VNĐ
Chỉ tiêu Thực hiện
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
I.Tổng giá tị tài sản 35.503.918.71
8
55.162.627.179 34.910.697.718
1.Giá trị TSCĐ 10.406.526.46
1
17.090.551.461 16.984.588.461
2.Giá trị TSLĐ 22.400.255.25
7
38.072.075.718 17.926.109.257
II.Tổng giá trị nguồn
vốn
35.503.918.71
8
55.162.627.179 34.910.697.718
1.Vốn CSH 6.723.205.718 30.732.760.719 15.691.884.718
2.Vốn vay 28.780.713.00
0
24.429.867.000 19.218.813.000
(Nguồn : Phòng Kế toán – Tài vụ của Công ty cổ phần Long Sơn)
Từ bảng số liệu trên ta có biểu đồ thể hiện sự tương quan giữa giá trị tài
sản và giá trị nguồn vốn của Công ty cổ phần Long Sơn như sau:
Biểu đồ 2.3.Tài sản và nguồn vốn của Công ty cổ phần Long Sơn
2.2.2.2.Nguồn nhân lực
Lực lượng lao động trong Công ty cổ phần Long Sơn phần lớn là lao
động trẻ, nhiệt tình, sáng tạo nhưng nếu phân theo trình độ giáo dục, đào tạo ta
có thể nhận thấy Công ty còn thiếu một đội ngũ cán bộ quản lý chuyên nghiệp
và đội ngũ công nhân lành nghề. Cơ cấu lao động của Công ty được thống kê
trong Bảng 2.7:
Bảng 2.7.Tình hình lao động của Công ty cổ phần Long Sơn giai đoạn
2005 – 2007 phân theo trình độ giáo dục, đào tạo
ĐVT: Người
Trình độ
Năm
2005 2006 2007
Đại học, sau đại học 25 40 60
Cao đẳng, trung cấp 45 60 80
THPT 1070 1260 1380
(Nguồn: Phòng Quản lý nhân sự Công ty cổ phần Long Sơn)
Từ bảng số liệu về lao động của Công ty ta có Biểu 2.4 cho thấy cơ cấu
lao động của Công ty cổ phần Long Sơn thay đổi từ năm 2005 đến năm 2007
như sau:
Biểu 2.4.Biểu đồ cơ cấu lao động trong Công ty cổ phần Long Sơn
Theo bảng và biểu đồ trên ta thấy: Hện tại số nhân lực có trình độ đại
học, sau đại học trong Công ty cổ phần Long Sơn chỉ chiếm khoảng 4% trong
tổng số công nhân viên trong Công ty, số nhân lực có trình độ cao đẳng, trung
cấp cũng chỉ chiếm khoảng 6% trong khi đó số nhân lực có trình độ trung học
phổ thông thì chiếm tới 90% tổng số công nhân viên trong Công ty.
2.2.2.3.Chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh là một trong những yếu tố quyết định năng lực
cạnh tranh của Công ty cổ phần Long Sơn. Chiến lược kinh doanh chỉ ra đường
lối, phương hướng phát triển của Công ty trong ngắn hạn cũng như dài hạn, làm
căn cứ cho việc huy động các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu chiến lược đã
định. Tại Công ty cổ phần Long Sơn, chiến lược kinh doanh thể hiện thông qua
chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm, chiến lược đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực, chiến lược định hướng khách hàng. Các chiến lược này đã góp
phần giúp Công ty nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường các
nước châu Âu( EU ) trong thời gian qua:
- Về chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm: Trước yêu cầu của thị trường
ngày càng cao, Công ty cổ phần Long sơn đã quan tâm đế yếu tố chất lượng sản
phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên các sản
phẩm của Công ty có đặc điểm là: yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm
thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chủ yếu dựa
vào yếu tố lao động giá rẻ, chất lượng sản phẩm chưa thực sự có ưu thế rõ rệt
trên thị trường thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của sản phẩm
chưa cao , nhiều sản phẩm còn đi sau các Công ty khác trong ngành như Công
ty giầy Thụy Khuê, Công ty Giầy Thượng Đình, Công ty cổ phần giầy Hà
Nội…về kiểu dáng và màu sắc.
- Về chiến lược phân phối: Công ty cổ phần Long Sơn vẫn áp dụng hình thức
kênh phân phối qua các trung gian thương mại nên chưa thiết lập được hệ thống
phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối cùng. Với phương