I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN TH HNG NGC
GIá TRị PHáP Lý CủA VĂN BảN CÔNG CHứNG
TRONG PHáP LUậT VIệT NAM
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2020
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN TH HNG NGC
GIá TRị PHáP Lý CủA VĂN BảN CÔNG CHứNG
TRONG PHáP LUậT VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Dõn s v T tng dõn s
Mó s: 8380101.04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: TS. GIANG NAM
H NI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Hồng Ngọc
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ PHÁP
LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG ........................................... 6
1.1.
Vai trò và đặc điểm của công chứng ............................................. 6
1.1.1. Vai trò của công chứng ................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của công chứng ..............................................................15
1.2.
Khái niệm và đặc điểm của văn bản công chứng .........................22
1.2.1. Khái niệm văn bản công chứng.......................................................22
1.2.2. Đặc điểm của văn bản công chứng..................................................28
1.3.
Giá trị pháp lý của văn bản công chứng ......................................32
1.3.1. Về giá trị chứng cứ của văn bản công chứng ...................................33
1.3.2. Về giá trị thi hành của văn bản công chứng .....................................37
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG ....... 45
2.1.
Quy định pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản công chứng......45
2.1.1. Về giá trị chứng cứ không phải chứng minh ....................................45
2.1.2. Về giá trị thi hành của văn bản công chứng .....................................51
2.2.
Quy định về cơ chế, thủ tục bảo đảm thực thi quy định về
giá trị thi hành của văn bản công chứng ......................................58
2.3.
Một số quy định pháp luật có liên quan tác động tới giá trị
pháp lý của văn bản công chứng ..................................................63
2.3.1. Về tiêu chuẩn công chứng viên .......................................................63
2.3.2. Về trình tự, thủ tục công chứng.......................................................64
2.3.3. Về cơ sở dữ liệu công chứng và lưu trữ hồ sơ công chứng ...............65
2.3.4. Về thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng và hiệu lực
của hợp đồng, giao dịch..................................................................67
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN
CÔNG CHỨNG...........................................................................68
3.1.
Về hoàn thiện quy định về giá trị văn bản công chứng ................71
3.2.
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm giá trị thi hành của
văn bản công chứng .....................................................................75
3.3.
Về các vấn đề có liên quan, tác động đến giá trị pháp lý của
văn bản công chứng .....................................................................77
KẾT LUẬN ..............................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................81
PHỤ LỤC ................................................................................................88
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công chứng trên thế giới có nguồn gốc từ lâu, trải qua những thăng
trầm lịch sử luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, thể hiện
rất rõ không chỉ trong các quan hệ về bất động sản, kinh doanh, lao động mà
còn trong các quan hệ gia đình, thừa kế. Theo đó do nhiều yếu tố trong các
mối quan hệ trên tranh chấp xảy ra ngày càng nhiều lên. Khi phát sinh tranh
chấp sinh ra một loạt các hậu quả như: mất thời gian, chi phí, tổn hại đến uy
tín, danh dự của cá nhân, tổ chức tham gia. Vậy cơ chế nào cần được hình
thành và phát triển để có thể phòng ngừa, ngăn chặn tranh chấp phát sinh
trong các các quan hệ về bất động sản, kinh doanh, lao động mà còn trong các
quan hệ gia đình, thừa kế. Đây là những vấn đề đang được tranh luận sôi nổi
với nhiều quan niệm khác nhau và rất được quan tâm không chỉ bởi các nhà
lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, mà còn bởi các công chứng
viên và những người đang công tác trong lĩnh vực công chứng.
Song song với chính sách phát triển kinh tế, mỗi nước đã bắt đầu
chương trình cải cách thể chế của hệ thống tư pháp và pháp luật, sự nảy sinh
và phát triển mạnh mẽ những quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, đòi hỏi có
sự an toàn pháp lý cao và thể chế công chứng ở các nước này phải được
nhanh chóng cải cách phù hợp với nền kinh tế thị trường, trong xu thế đó
Công chứng Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ nhằm đảm bảo sự
phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều
kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Công chứng là hoạt động có ý nghĩa quan trọng nhằm duy trì trật tự
pháp luật ổn định trong các giao dịch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể tham gia giao dịch, bảo đảm ổn định trật tự xã hội, phòng ngừa
1
tranh chấp xảy ra, đồng thời cung cấp chứng cư đáng tin cậy khi xảy ra các
tranh chấp. Việc tham gia vào các giao dịch của công chứng viên được thực
hiện theo nhiều cách khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là được thể hiện
dưới một hình thức chung nhất là hợp đồng, giao dịch đã được công chứng
hay còn được gọi là văn bản công chứng.
Ở mỗi quốc gia tùy theo đặc điểm hệ thống pháp luật mà văn bản công
chứng được thể hiện khác nhau, nhưng việc quy định về giá trị pháp lý của
văn bản công chứng luôn được coi là giá trị cốt lõi trong pháp luật về công
chứng. Trong công cuộc cải cách đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, cải
cách tổ chức và hoạt động tư pháp đang được Đảng và Chính phủ rất quan
tâm trong đó có cải cách về tổ chức và hoạt động của công chứng - một lĩnh
vực quản lý tư pháp quan trọng trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật về công
chứng các quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng cũng từng bước
được bổ sung hoàn thiện cho phù hợp. Tại văn bản pháp lý đầu tiên Nghị định
45/HĐBT quy định về công chứng chỉ mới đề cấp đến “Các hợp đồng và giấy
tờ được công chứng có giá trị chứng cứ” (Điều 1) thì đến Luật Công chứng
2014 các quy định giá trị pháp lý của văn bản công chứng (Điều 5) đã được
quy định đầy đủ hơn là giá trị như một chứng cứ bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể, phòng ngừa tranh chấp, là bằng chứng xác thực, có giá
trị sử dụng như bản gốc. Sự thay đổi này đã giúp cho luật Công chứng thể
hiện được vai trò của mình với chức năng đảm bảo an toàn pháp lý cho các
bên tham gia hợp đồng, giao dịch.
Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy quy định về giá trị pháp lý của văn
bản công chứng mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng trong các văn bản quy
phạm pháp luật hiện nay vẫn còn mang tính hình thức, chưa có cơ chế đề thực
hiện trên thực tế làm ảnh hưởng đến vị thế của công chứng trong điều kiện
2
đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính phục vụ việc xây dựng nhà
nước pháp quyền. Việc nghiên cứu giá trị pháp lý của văn bản công chứng để
làm cơ sở tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này là một
nhu cầu cấp thiết. Ngoài ra do thực tiễn công tác tại Văn phòng công chứng,
trực tiếp chịu sự tác động của luật công chứng cũng là lý do tôi lựa chọn đề
tài: "Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam"
làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù có thời gian phát triển chưa dài những đã có nhiều đề tài, bài
viết nghiên cứu về công chứng với tư cách là một thiết chế bổ trợ tư pháp
như: "Một số vấn đề về công chứng giao dịch tài sản ở Việt Nam", Luận văn
Thạc sĩ Luật học của Đỗ Xuân Hòa; "Công chứng nhà nước những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở nước ta", Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Ngọc Nga;
Luận án Tiến sĩ Luật học của Đặng Văn Khanh; "Thẩm quyền của Ủy ban
nhân dân trong lĩnh vực thực hiện các việc công chứng", Luận văn Thạc sĩ
Luật học của Lê Thị Thúy; "Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở
nước ta hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Dương Khánh; "Xã hội hóa
công chứng ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Thị
Phương Hoa; "Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo mô
hình công chứng Latinh", Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Toàn;
“Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp”, Luận
văn thạc sĩ của Phạm Thị Mai Trang.
Với tinh thần nghiên cứu, học hỏi một cách nghiêm túc, kế thừa những
quan điểm tư tưởng tiến bộ của các công trình nghiên cứu trên, luận văn "Giá
trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam" là đề tài nghiên
cứu tương đối hệ thống mặt lý luận về công chứng, văn bản công chứng, giá
trị pháp lý của văn bản công chứng và thực tiễn quy định của pháp luật về loại
3
văn bản này để đề xuất những kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
và các biện pháp bảo đảm đối với giá trị của văn bản công chứng.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của công chứng, những quy định
của pháp luật Việt Nam có liên quan đến công chứng, văn bản công chứng và
giá trị pháp lý của văn bản công chứng với tính chất của một văn bản xác thực
(văn bản công). Tuy chưa đi sâu chi tiết phân tích về pháp luật của nhiều quốc
gia, nhưng với phạm vi nghiên cứu mở rộng ngoài lãnh thổ quốc gia Việt
Nam, luận văn đã khái quát một cách chung nhất về tình hình pháp luật điều
chỉnh cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về giá trị pháp lý của văn bản
công chứng ở Việt Nam hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn bản công chứng và giá trị
pháp lý của văn bản công chứng, trong đó tập trung vào một số nội dung chủ
yếu như: xác định rõ vai trò của công chứng, khái niệm văn bản công chứng
và những nội dung cơ bản của văn bản công chứng; làm rõ nội hàm giá trị
chứng cứ không phải chứng minh và hiệu lực thi hành của văn bản công
chứng; đề xuất quan điểm, định hướng nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định
của pháp luật về văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng,
đồng thời xây dựng cơ chế bảo đảm các quy định của pháp luật về hiệu lực thi
hành của văn bản công chứng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng như
những phương pháp chủ đạo, đảm bảo tính khách quan và tính khoa học.
Ngoài ra, luận văn còn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể khác:
Phương pháp lịch sử học: Các vấn đề tiếp cận đều gắn liền với từng
giai đoạn lịch sử, từ những tiến triển của quy định pháp luật công chứng, đến
sự phát triển của văn bản công chứng.
4
Phương pháp phân tích tổng hợp: Việc phân tích các quy định của pháp
luật trong lĩnh vực công chứng cho phép hiểu rõ giá trị của văn bản công
chứng; thông qua đó đưa ra nhưng nhận định, kết luận có liên quan.
Phương pháp so sánh: Luật so sánh luôn đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc nghiên cứu. Hiện nay, trong mối quan hệ hợp tác quốc tế
giữa công chứng các nước, rất nhiều kinh nghiệm hay được phố biến, trao đổi
và nhiều bài học được rút ra trong việc thiết kế quy định liên quan tới văn bản
công chứng.
5. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giá trị pháp lý của văn bản công chứng
Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về giá trị pháp
lý của văn bản công chứng.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về giá trị
pháp lý của văn bản công chứng.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ
CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG
1.1. Vai trò và đặc điểm của công chứng
1.1.1. Vai trò của công chứng
Nguồn gốc của hoạt động công chứng được tìm thấy trong văn hóa La
mã cổ đại, xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ 2 và thế kỷ thứ 3 sau công
nguyên. Công chứng viên, trong luật La Mã đó là người với vai trò ghi chép,
thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của Tòa án, hoặc
ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy chuyển
nhượng sở hữu và làm chứng [1, tr.40-47]. Theo đó, xét về nguồn gốc, công
chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người với vai trò ghi chép,
soạn thảo văn bản và làm chứng [55, tr.18].
Pháp luật dân sự đã trải qua thời kỳ trung cổ đến thời kỳ phục hưng từ
thế kỷ 12 trở đi, thời kỳ này, công chứng phát triển thành tổ chức nghề luật ở
hầu hết các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Theo Pierre-Francois Real, một trong
những nhà biên soạn Luật Ventôse năm 1804 làm cơ sở cho việc thiết lập
nghề công chứng ở nhiều quốc gia khác ngoài Cộng hòa Pháp như Bỉ, Đức,
Áchentina, Áo và Thụy sĩ thì:
Những người tư vấn cho các bên đương sự một cách vô tư, giúp họ
hiểu được phạm vị nghĩa vụ hợp đồng mà họ đã giao kết, soạn thảo
các hợp đồng này một cách rõ ràng, làm chứng cho chúng có tính
xác thực và có giá trị như một phán quyết chung thẩm, đóng vai trò
bộ nhớ của đương sự và lưu giữ tuyệt đối hồ sơ của họ, hạn chế
tranh chấp có thể nảy sinh giữa các bên một cách ngay tình: những
người làm công việc như vậy chính là công chứng viên [41].
Nghiên cứu các tài liệu về lịch sử công chứng cho thấy, trên thế giới có
6
ba hệ thống hệ thống công chứng, đó là hệ thống công chứng dân luật (hay
còn gọi là công chứng latinh), hệ thống công chứng thông luật (hay còn gọi là
hệ thống công chứng Anglo - Saxon) và hệ thống công chứng Collectiviste
(công chứng tập thể) - hệ thống công chứng mà ở đó công chứng được coi
như một hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức công chứng là cơ quan nhà
nước, công chứng viên là công chức nhà nước.
Hệ thống công chứng Latinh: (chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống luật
La mã, còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự - Civil Law). Hệ thống này tồn tại ở
hầu hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch và Anh); Châu Phi
(các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ - La tinh, bang Quebec của
Canada, một số nước châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…).
Tại các nước trong hệ thống công chứng Latinh, nhà nước thừa nhận
thể chế công chứng chuyên nghiệp, đề ra các quy định pháp lý để tổ chức và
quản lý thiết chế công chứng một cách chặt chẽ. Phạm vi hoạt động của công
chứng thường bao gồm các hợp đồng, giao dịch về bất động sản, thừa kế và
các thỏa thuận về tài sản trong hôn nhân gia đình.
Ở Cộng hòa Pháp (một điển hình của trường phái công chứng Latinh),
Điều 1 Pháp lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ công chứng của
Cộng hòa Pháp quy định: "Công chứng viên là viên chức công, được bổ
nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó, các bên phải hoặc muốn
đem lại tính xác thực giống như các văn bản của các cơ quan công quyền và
để đảm bảo ngày, tháng chắc chắn, lưu giữ và cấp các bản sao văn bản công
chứng" [55, tr.19]. (Điều 1) Điều lệ công chứng được ban hành kèm theo
Lệnh số 48/FR ngày 29/8/1968 của Cộng hòa Bê-nanh cũng chép lại gần như
nguyên văn điều luật trên) [66, tr.125].
Nhìn chung các nước thuộc hệ thống Latinh đều quy định công chứng
là hoạt động của cơ quan công chứng xác nhận tính xác thực và tính hợp pháp
7
của các hành vi pháp lý dân sự, sự kiện pháp lý và các văn bản pháp lý theo
các trình tự quy định của pháp luật.
Hệ thống công chứng Anglo-Sacxon (còn được gọi là hệ thống pháp
luật công chứng hình thức): Gắn liền với hệ thống pháp luật Common Law,
tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane), Canada (trừ
bang Quebec), Singapore, Thái Lan, Đài Loan… Đặc điểm nổi bật của hệ
thống này là việc công chứng chỉ mang tính hình thức, chú trọng đến tính xác
thực về mặt hình thức như: nhận diện đúng khách hàng, xác định đúng thời
gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi nhận sự kiện pháp lý mà không cần
quan tâm đến tình trạng pháp lý của đối tượng.
Ở Vương quốc Anh (một trong các điển hình của trường phái công
chứng Anglo - Saxon), quy chế công chứng năm 1801, 1833, 1834 quy định:
Công chứng viên là viên chức được bổ nhiệm để thực hiện các hành
vi công chứng sau: Soạn thảo, chứng nhận hoặc xác lập chứng thư
và các giấy tờ khác có liên quan đến việc: chuyển nhượng hoặc xác
lập giấy tờ khác có liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản
và tài sản cá nhân, giấy ủy quyền liên quan đến bất động sản và tài
sản cá nhân ở Anh, xứ Wales, các nước khác thuộc khối cộng đồng
Anh hoặc ở nước ngoài; chứng nhận hoặc xác nhận các giấy tờ liên
quan đến di chúc, lập kháng nghị hàng hải về sự cố xảy ra đối với
tàu và hàng hóa trên tàu trong thời gian tàu đi trên biển [62, tr.90].
Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các
nước XHCN trước đây và phát triển mạnh vào các năm 70 của thế kỷ XX đến
trước năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Bungari, Hungari,
Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt nam [30] lại có quan niệm về công chứng
khác với hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo - Saxon.
Ở hệ thống công chứng Collectiviste, công chứng viên là công chức nhà nước,
8
kiêm nhiệm cả việc chứng thực (thị thực hành chính; việc công chứng được
giao cho cả các chủ thể không phải là công chứng viên đảm nhiệm; công
chứng viên không có chứng chỉ hành nghề, không phải chịu trách nhiệm dân
sự trước khách hàng, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước Nhà nước về
những sai phạm trong hoạt động của mình.
Tuy nhiên, hiện nay trong hệ thống công chứng Collectiviste, hầu hết
các nước đã chuyển đổi xác định công chứng là một nghề tự do đặt dưới sự
quản lý của Nhà nước và đang từng bước tiến hành cải cách công chứng từ
mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng tư. Ví dụ: ở Ba Lan,
Điều 1 Luật số 176 ngày 14/02/1991 về công chứng quy định: "Công chứng
viên được bổ nhiệm để lập những văn bản mà trong đó, các bên phải hoặc
muốn đem lại một tính đích thực" [66, tr.99].
Mặc dù hình thành ba hệ thống công chứng như trên, song chung quy
lại, chỉ có hai mô hình công chứng: mô hình công chứng tự do (ở hệ thống
công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo-Sacxon) và mô hình công
chứng nhà nước (chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste).
Ở mô hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế nhà
nước, công chứng viên là công chức nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm, với sự
bao cấp toàn bộ của nhà nước, mô hình công chứng nhà nước chỉ phù hợp với
cơ chế kế hoạch hóa tập trung và nền kinh tế hiện vật, trong đó, các giao lưu
dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển, ở đó, vai trò công chứng chủ
yếu là nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa
và tài sản cá nhân [30].
Ở mô hình công chứng tự do, các công chứng viên được Nhà nước bổ
nhiệm, hành nghề tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức văn
phòng công chứng tư nhân hoặc văn phòng công chứng tập thể, tự chủ trong
tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và đóng thuế cho nhà nước.
9
Tóm lại, có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do
so với mô hình công chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm
cá nhân của công chứng viên, tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động
lực để các công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt tình trong
hoạt động của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của nhà nước. Về mặt tổ chức và
hoạt động, mô hình công chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức bảo
đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân. Về vai trò, mô hình
công chứng tự do có hai chức năng chính. Thứ nhất, là để ngăn chặn các tranh
chấp pháp lý: việc chuẩn bị các văn bản công chứng mang lại bằng chứng rõ
ràng liên quan đến các quyền lợi hợp pháp và giúp ngăn chặn tranh chấp pháp
lý. Thứ hai, là để giải quyết các tranh chấp pháp lý: các văn bản công chứng
đáp ứng được những yêu cầu nhất định sẽ cấu thành văn bản quy phạm có hiệu
lực thi hành hoặc là cơ sở để một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết khi
một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình [8].
Ở Việt Nam hoạt động công chứng xuất hiện từ những năm 80 của thế
kỷ XIX [4, tr.12], hoạt động công chứng của nước ta ở giai đoạn này đều áp
dụng theo mô hình của Pháp, một hợp đồng giữa hai bên là người Việt Nam
có thể làm dưới hình thức: (i) Do hai bên đương sự thỏa thuận và ký (được
gọi là tư chứng thư); (ii) Do chính quyền thị thực tức là do trưởng phố ở các
thành thị và lý trưởng ở nông thôn thị thực hoặc do Công chứng viên lập
(công chứng thư).
Cách mạng Tháng 8 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới, ngày
01/10/1945 chính quyền cách mạng đã quyết định về một số vấn đề liên quan
đến hoạt động công chứng. Hệ thống công chứng nhà nước của Việt Nam
được hình thành trên cơ sở Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ
Tư pháp về công tác công chứng nhà nước và Thông tư số 858/QLTPK ngày
10
15/10/1987 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện các việc công chứng;
Quyết định số 90/HĐBT ngày 19/07/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về con
dấu của phòng công chứng nhà nước. Tính đến thời điểm 27/02/1991 thời
điểm ban hành Nghị định số 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và
hoạt động công chứng nhà nước, trên cả nước đã thí điểm thành lập 29 phòng
công chứng nhà nước ở 29 tỉnh, thành phố.
Theo Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp, công
chứng nhà nước được xác định:
Là một hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ
quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp
lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự
kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà
nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và
pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa
vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được thuận
lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [2].
Lần đầu tiên kể từ khi thành lập nước (02/9/1945), khái niệm công
chứng nhà nước được đưa ra ở Việt Nam, đánh dấu sự đổi mới về tư duy pháp
lý, bước đầu đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ
chuyển đổi.
Cùng với quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xóa bỏ
triệt để cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang cơ chế kinh tế thị
trường. Trong vòng 10 năm (1991-2000), Chính phủ đã ban hành ba nghị
định về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, đó là: Nghị định số
45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về
11
tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số
45/HĐBT); Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức
và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 31/CP)
và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công
chứng, chứng thực (sau đây gọi tắt là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP).
Theo Nghị định số 45/HĐBT, thuật ngữ công chứng được xác định
như sau:
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp
đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa
vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [31, Điều 1].
Đến Nghị định số 31/CP, công chứng được xác định:
Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và
giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [11].
Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng ở Nghị
định này đã được xác định khoa học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm
chung của thế giới về công chứng. Theo Nghị định này:
Công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực
của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong
quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau
đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy
định của Nghị định này [12, Điều 2, khoản 1].
12
Luật Công chứng số 82/2006/QH11 được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Luật Công chứng đã quy
định tại Điều 2 như sau:
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính
hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng,
giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Về cơ bản định nghĩa công chứng vẫn không thay đổi so với các Nghị
định trên.
Hiện này, tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam đang chịu sự
điều chỉnh trực tiếp của Luật Công chứng số 53/2014/QH13 được được Quốc
Hội thông qua ngày 20/06/2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2915.
Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định:
Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề
công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao
dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch),
tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch
giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy
định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng.
Qua phân tích về khái niệm công chứng của nước ta qua các thời kỳ có
thể thấy cách thể hiện khái niệm có sự khác nhau, nhưng tất cả có sự giống
nhau cơ bản là xác định công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của hợp
đồng, giao dịch và nhằm bảo đảm cho hợp đồng, giao dịch được giao kết hoặc
xác lập không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nó cũng thể hiện
rõ việc công chứng tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch
13
(công chứng nội dung) đã được xác lập ở Việt Nam ngay từ khi được hình
thành và được kế thừa trong nhiều văn bản pháp luật quy định về tổ chức và
hoạt động công chứng.
Việc xác định mô hình công chứng theo hướng nêu trên xuất phát từ việc
nước ta là một nước có hệ thống luật thành văn, hơn nữa thực tiễn hoạt động
công chứng cho thấy công chứng tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng,
giao dịch đã phát huy một ưu điểm quan trọng đó là bảo đảm tính chặt chẽ, an
toàn về mặt pháp lý của hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm
pháp luật nhất là trong điều kiện hệ thống pháp luật nước ta còn chưa đồng bộ,
trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn chưa cao, đồng thời đây cũng là
xu hướng chung của công chứng thế giới hiện nay. Chính vì vậy, thực hiện chủ
trương được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là “hoàn thiện chế
định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị
pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công
chứng theo hướng nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có
bước đi phù hợp để xã hội hóa công việc này” [28]. Với việc cách xác định nội
hàm của thuật ngữ “công chứng” trong Luật Công chứng 2014, hoạt động công
chứng ở Việt Nam dần trở về đúng bản chất là một hoạt động dịch vụ công,
đồng thời là một nghề do công chứng viên thực hiện, nhằm mang lại tính xác
thực cho các hợp đồng, giao dịch qua đó bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên
giao kết, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật. Xét dưới góc độ hội nhập
thì khái niệm này cơ bản phù hợp với quan niệm về công chứng theo hệ thống
Latinh và cùng với đó, cơ chế quản lý công chứng cũng được xác định một
cách cụ thể hơn cho phù hợp với tình hình mới.
Như vậy bản chất hoạt động công chứng là loại hoạt động mang tính
chất dịch vụ công. Bằng hành vi công chứng của mình, công chứng viên đã
14
cung cấp một dịch vụ về an toàn pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức
bảo đảm tính hợp pháp và an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch, hợp
đồng, phòng ngừa các tranh chấp có thể xảy ra về sau giữa các bên. Điểm đặc
biệt trong dịch vụ mà Công chứng viên cung cấp cho các bên là dịch vụ mang
yếu tố quyền lực nhà nước, có quyền nhân danh nhà nước để chứng nhận tính
xác thực và tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, như vậy nhà nước đã gắn
cho văn bản công chứng một giá trị giống như một quyết định, một bản án của
Toà án nếu xét trên góc độ thi hành.
Các học giả phương Tây khi nghiên cứu một cách tổng thể pháp luật
công chứng của Việt Nam và các nước phương Tây đã đánh giá rằng Việt
Nam hiện nay đang phải đối mặt với nhiều tranh chấp về quyền sở hữu đất
đai. Ở các nước theo truyền thống luật thành văn, các tranh chấp này không
tồn tại bởi Nhà nước đã trao thẩm quyền duy nhất cho các công chứng viên
để thực hiện toàn bộ các giao dịch chuyển đổi bất động sản (như mua bán,
chia tách hay thừa kế). Công chứng viên là người bảo đảm, là chủ thể của hệ
thống tài sản đất đai và là thẩm phán của hợp đồng. Công chứng viên biết
rằng họ trực thuộc một cơ quan thống nhất đặt dưới thẩm quyền của Nhà
nước. Vấn đề ở đây không phải là trao lợi thế cho một ngành nghề cụ thể,
mà là để xã hội có được những “thẩm phán hợp đồng” độc lập, đáng tin cậy
và công bằng. Đó là cơ sở để có được sự hài hòa trong xã hội. Có thể thấy
rằng những giá trị, ý nghĩa, vai trò của công chứng và công chứng viên vừa
nêu của hệ thống công chứng Latinh chưa được thể hiện hoặc thể hiện còn
khá mờ nhạt trong pháp luật Việt Nam.
1.1.2. Đặc điểm của công chứng
Từ việc phân tích vai trò của công chứng, có thể thấy công chứng có
các đặc điểm cơ bản:
15
Thứ nhất, công chứng là một hoạt động mang tính chuyên môn nghề
nghiệp của công chứng viên
Ngày nay, an ninh luật pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các
xã hội phương tây và công chứng viên là nguồn đảm bảo cho sự an ninh này.
Mặc dù cách thể hiện khác nhau, song về cơ bản công chứng viên tại các nước
theo truyền thống luật thành văn được hiểu là viên chức công được bổ nhiệm
để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên phải hoặc muốn đảm bảo
tính xác thực của văn bản đó giống như văn bản của các cơ quan công quyền
khác và đảm bảo việc lưu giữ, cấp bản sao của văn bản đó (Pháp, Đức, Ba
Lan, Tây Ban Nha...) bởi vậy hoạt động công chứng là hoạt động mang tính
chuyên môn nghề nghiệp của công chứng viên. Chỉ có công chứng viên,
người được đào tạo về chuyên môn và được cơ quan nhà nước trao quyền mới
được thực hiện hoạt động này.
Đặc điểm này của hoạt động công chứng được biểu hiện như sau: Các
phòng công chứng, văn phòng công chứng thực hiện hoạt động công chứng
bằng kiến thức chuyên môn nghề nghiệp của các công chứng viên là những
người do Nhà nước bổ nhiệm với đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn quy định
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng. Công
chứng viên bằng sự kiến thức pháp luật và kinh nghiệm nghề nghiệp, với sự
khách quan, vô tư phải đảm bảo xác định đúng chủ thể, đối tượng, nội dung,
tính chất của hợp đồng giao dịch, xác định các quan hệ pháp lý phát sinh xung
quanh yêu cầu công chứng, hậu quả pháp lý có thể xảy ra. Xét trên một khía
cạnh khác, công chứng viên tham gia nhằm giúp các bên thể hiện sự thỏa
thuận nhất trí của mình theo quy định của pháp luật chứ không phải là người
tham gia giải quyết tranh chấp giữa các bên. Với ý nghĩa đó công chứng viên
còn được coi là "thẩm phán phòng ngừa" [39, tr.2]
Nếu so sánh về vai trò của công chứng viên giữa hệ thống công chứng
16
Latinh và hệ thống công chứng Anglo - Sacxong thì có thể thấy rõ công
chứng viên tại các nước thuộc hệ thống thứ nhất có vị trí, vai trò, chức năng
rõ rệt, quan trọng hơn hẳn hệ thống thứ hai.
Hệ thống công chứng Latinh ở Pháp, Tây Ban Nha, Đức và Trung
Quốc mang lại cho công chứng viên vai trò của "thẩm phán phòng ngừa"
đúng nghĩa, thể hiện giá trị chứng cứ không phải chứng minh và hiệu lực thi
hành cho văn bản công chứng, điều này rất quan trọng đối với hòa bình xã hội
vì chúng mang đến cho người dân sự đảm bảo về pháp luật cho tất cả các thủ
tục dân sự cần thiết: hôn nhân, thừa kế, quyền sở hữu đất và thành lập kinh
doanh. Công chứng viên không chỉ soạn văn bản mà còn là nhân chứng có
đặc quyền của văn bản công chứng được các bên nhất trí. Công chứng viên
cũng không phải là nhân viên tư vấn của một bên để gây thiệt hại cho bên kia
mà là chuyên gia khách quan và không thiên vị để lập ra những hợp đồng công
bằng vì lợi ích của tất cả mọi người. Về quyền sở hữu, công chứng viên đảm
bảo sự an toàn gần như tuyệt đối cho người nắm giữ quyền này. Nhờ đó, ở các
nước phương tây, các tranh chấp về quyền sở hữu gần như không tồn tại.
Công chứng viên của các nước thuộc hệ thống công chứng Latinh đóng
vai trò then chốt trong luật về bất động sản, luật thế chấp, luật về hợp đồng,
luật công ty cũng như các luật khác về gia đình và thừa kế. Ví dụ như trong hệ
thống “công lý phòng ngừa” của Đức thì chức năng nhiệm vụ của các công
chứng viên dân luật bổ sung cho vai trò của thẩm phán. Theo báo cáo của Đức
tại Đại hội quốc tế công chứng Latinh thì “công chứng viên có nghĩa vụ cung
cấp các dịch vụ pháp lý nhằm bảo đảm và bảo vệ hoạt động vì an ninh pháp lý
và tránh xung đột về lợi ích của các bên tư nhân có liên quan và vì lợi ích
chung của cộng đồng” [70].
Việc một công chứng viên can thiệp là điều được pháp luật đòi hỏi đối
với những giao dịch quan trọng có tác động lâu dài hoặc có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng về kinh tế hay cá nhân đối với các bên liên quan. Cái cốt lõi trong
17
hoạt động của một công chứng viên là nhằm mục đích ngăn ngừa xung đột từ
đó giảm bớt gánh nặng cho tòa án, là việc thông báo các giao dịch hợp pháp,
cung cấp lời khuyên và dịch vụ trung lập cho các bên quan tâm trong việc
thực hiện các giao dịch hợp pháp đã được công chứng [70].
Cũng thuộc hệ thống công chứng Latinh, song ở Nhật Bản và Hàn Quốc,
hệ thống công chứng đem lại cho công chứng viên vai trò của nhân chứng và
cán bộ chứng nhận. Họ chỉ có quyền yêu cầu thi hành nghĩa vụ trả tiền.
Như vậy, có thể thấy được, hoạt động công chứng là hoạt động nghề
nghiệp có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao của công chứng viên,
khác với hoạt động chuyên môn thuần túy của các công chức hành chính. Ý
nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là đảm bảo giá trị thực hiện cho các
hợp đồng giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu có
tranh chấp xảy ra (văn bản công chứng là một công chứng thư). Bản thân hoạt
động công chứng chứa đựng tính phức tạp, đa dạng của của các giao dịch dân
sự, kinh tế, thương mại. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các quốc
gia trên thế giới đều có các quy định nghiêm ngặt về điều kiện, tiêu chuẩn bổ
nhiệm công chứng viên.
Thứ hai, hoạt động công chứng chịu sự quản lý của Nhà nước
Đặc điểm này được thể hiện ở các hệ thống công chứng như sau:
Ở các nước theo hệ Latinh, công chứng viên được Nhà nước ủy thác
một phần quyền lực và trao cho con dấu riêng có khắc tên công chứng viên
đó. Với tư cách là ủy viên công quyền, công chứng viên có nhiệm vụ cung
cấp dịch vụ công, thể hiện ở việc chính họ được người đứng đầu Nhà nước
hoặc Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm và được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Mặt khác, hệ thống công chứng La tinh và hệ thống công chứng AngloSaxon đều coi công chứng là một nghề tự do. Công chứng viên hoạt động độc
lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Tuy nhiên, đó là một
18
nghề đặc biệt, đòi hỏi công chứng viên phải có trình độ chuyên môn (luật) và
kỹ năng nghiệp vụ được nhà nước công nhận để có thể đảm bảo tính xác thực
cho các hợp đồng vốn rất phức tạp, bởi vậy, công chứng viên do nhà nước bổ
nhiệm hoặc công nhận theo các điều kiện, tiêu chuẩn do luật định và hoạt
động theo chế động chứng chỉ hành nghề [55, tr.18].
Hệ thống công chứng Collectiviste là một thế chế công chứng được tổ
chức khá chặt chẽ, hoạt động chuyên nghiệp bằng sự bao cấp của nhà nước
thông qua việc cấp ngân sách hành chính để đầu tư cơ sở vật chất, trả lương
và hoạt động. Tổ chức công chứng là một loại hình cơ quan bổ trợ tư pháp
trong bộ máy hành pháp của Chính phủ. Công chứng viên được nhà nước bổ
nhiệm để hành nghề chuyên nghiệp, không kiêm nhiệm công việc khác; thực
chất, họ là công chức, viên chức nhà nước [53, tr.20].
Vấn đề quản lý của Nhà nước đối với hoạt động công chứng đã được
luật công chứng cùng các Nghị định hướng dẫn quy định cụ thể trong các điều
luật về thành lập tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng, phí công
chứng, tiêu chuẩn công chứng viên, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
công chứng … tất cả đều sự quản lý của các cơ quan nhà nước. Hoạt động
quản lý nhà nước về công chứng là sự phối hợp giữa chính phủ, Bộ tư pháp,
Bộ ngoại giao, bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về công chứng,
luật công chứng phân định rõ nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan trong quản
lý về tổ chức hoạt động công chứng, theo hướng tăng cường vai trò của ủy
ban nhân dân cấp tỉnh đối với việc phát triển và quản lý hệ thống tổ chức hành
nghề công chứng ở địa phương mình, đồng thời đảm bảo tính thống nhất
trong việc quản lý nhà nước về công chứng trên phạm vi toàn quốc, đảm bảo
các tổ chức hành nghề công chứng hoạt động trong khuôn khổ các quy định
của pháp luật, phát huy được vai trò, tầm quan trọng của công chứng trong
đời sống xã hội.
19
Thứ ba, kết quả của hoạt động công chứng là văn bản công chứng
Văn bản công chứng là văn bản do công chứng viên lập theo trình tự,
thể thức bắt buộc, ghi lại một cách chính xác ngày, tháng, năm, địa điểm giao
kết và ý chí, nguyện vọng của các bên khi tham gia hợp đồng giao dịch.
Theo Jean Paul Decorps, nguyên Chủ tịch Liên minh công chứng
Latinh quốc tế, giá trị chứng cứ không phải chứng minh và hiệu lực thi hành
của văn bản công chứng được coi là hai “đặc quyền” [40, tr.19] cơ bản công
chứng. Bộ luật dân sự Pháp, tại điều 1319: “Văn bản công chứng đem lại sự
tin cậy đầy đủ cho hợp đồng”; Điều 1317: “Văn bản công chứng là văn bản
được công chứng viên lập để làm chứng, tại một địa điểm và theo những thể
thức bắt buộc” [56, tr.31].
Có thể thấy, văn bản công chứng được tạo lập, trước hết đảm bảo giá trị
thực hiện đối với các bên trong giao dịch, đồng thời có giá trị đối với cả bên
thứ ba. Hợp đồng, giao dịch khi đã được công chứng theo các quy định của
pháp luật thì giá trị pháp lí của hợp đồng, giao dịch đó sẽ được nhà nước thừa
nhận. Văn bản đã được công chứng sẽ có ý nghĩa rang buộc các bên tự
nguyện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà không cần sự phán xét của
Tòa án. Trừ khi bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện theo văn bản đã
công chứng thì bên còn lại trong hợp đồng, giao dịch có quyền yêu cầu tòa án
xét xử theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là văn bản đã được
công chứng luôn tạo ra một biện pháp an toàn cho các bên khi tranh chấp xảy
ra. Đây chính là giá trị chứng cứ của các hợp đồng, giao dịch đã được công
chứng. Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, những văn bản đã được công
chứng chính là bằng chứng không thể chối cãi giữa các bên tham gia hợp
đồng, giao dịch. Từ đó, quyền, lợi ích hợp pháp của các bên được bảo vệ và
đảm bảo thực hiện.
20