Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Sự thể hiện của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong các quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn thi hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÝ ANH PHƯƠNG

SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC BÌNH
ĐĂNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÝ ANH PHƯƠNG

SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC BÌNH
ĐĂNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ

Hà Nội – 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành hết các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lý Anh Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1

7

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

7


1.1.Những khái niệm cơ bản về hôn nhân và gia đình .................................... 7
1.1.1.Khái niệm và đặc trưng cơ bản của hôn nhân .......................................7
1.1.2.Khái niệm và các chức năng cơ bản của gia đình

9

1.2.Các nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

11

1.3.Khái niệm và cơ sở pháp lý của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng13
1.3.1.Khái niệm nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng .............................13
1.3.2.Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng

15

1.4.Sơ lược về địa vị pháp lý của vợ và chồng qua các thời kỳ lịch sử của đất
nước

...................................................................................................... 24

1.4.1.Địa vị pháp lý của vợ và chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến .....24
1.4.2.Địa vị pháp của của vợ và chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc ..27
1.4.3. Địa vị pháp lý của vợ và chồng trong pháp luật từ sau Cách mạng tháng 8
đến nay ....................................................................................................28
1.5.Nội dung cơ bản của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 .................................................... 32
1.5.1. Vợ chồng bình đẳng trong quan hệ nhân thân....................................32
1.5.2.Vợ chồng bình đẳng trong quan hệ tài sản..........................................39



1.5.2.4. Bình đẳng trong quan hệ cấp dưỡng...............................................52
Chương 2

55

ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 –
THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

55

2.1. Thực trạng áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong các quy
định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

55

2.1.1.Áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014 trong thực tiễn xã hội ở nước ta hiện nay ...55
2.1.2.Áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014 trong thực tiễn pháp lý ở nước ta hiện nay..61
2.2.Một số giải pháp về đảm bảo áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và
chồn

...................................................................................................... 76

2.2.1.Hoàn thiện các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 liên quan
đến nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng................................................ 76
2.2.2. Đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hôn nhân và
gia đình ..................................................................................................... 78

2.2.4. Thực hiện giám sát, kiểm tra việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa vợ
và chồng

84

2.2.5.Phòng ngừa và xử lý nghiêm mình, công bằng mọi hành vi vi phạm nguyên
tắc bình đẳng giữa vợ và chồng

84

KẾT LUẬN

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

87


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân và gia đình đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển ổn định
của một quốc gia. Nhà nước và xã hội luôn dành một sự quan tâm cũng như tìm
cách xây dựng các biện pháp nhằm củng cố quan hệ hôn nhân, làm cho mối quan
hệ này luôn bền vững, ổn định. Hôn nhân có bền vững thì gia đình mới ấm no,
hạnh phúc, từ đó góp phần cho xã hội ổn định, trật tự, văn minh và phát triển.
Bình đẳng giới là một trong những chuẩn mực hết sức quan trọng mà các
Quốc gia trên thế giới hiện nay luôn hướng đến nhằm mục đích duy trì sự hòa
bình, ổn định và làm cho xã hội ngày càng trở nên tiến bộ hơn. Vấn đề này cũng
đã được ghi nhận ở rất nhiều các văn bản, điều ước quốc tế về quyền con người.

Đất nước Việt Nam ta đang trên đà chuyển đổi và phát triển với tốc độ nhanh
chóng trên toàn bộ các lĩnh vực nên vấn đề bình đẳng giới cũng luôn luôn được
Nhà nước quan tâm và coi đó là một trong những vấn đề quan trọng, mang tính
thời sự nhằm mục tiêu đảm bảo quyền con người cũng như các quyền bình đẳng
giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt ở đây là quyền bình đẳng giữa người
vợ và người chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng: “Chúng ta làm Cách mạng để giành
lấy tự do, dân chủ, bình đẳng, trai gái đều ngang quyền nhau, không thể để phụ
nữ bị áp bức cũng như coi thường phụ nữ” [16]. Và để tiếp thu các quan điểm, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình cách mạng, Đảng và Nhà
nước ta đã thực hiện nhất quán các đường lối, quan điểm về giải phóng phụ nữ,

1


thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực, trong đó có hôn nhân và
gia đình.
Trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng đã được đề cập khá cụ thể và chi tiết, đồng thời có xu hướng hoàn thiện hơn
so với Luật Hôn nhân và Gia đình của những năm về trước. Điều đó cho thấy sự
quan tâm của Đảng, của Nhà nước và của toàn xã hội đến vấn đề này, từ đó hướng
đến mục tiêu bình đẳng giới trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, trên thực tế thì Việt Nam ta là một quốc gia thuộc Châu Á, từ bao
đời nay chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo và Khổng tử, nên vấn đề “trọng
nam khinh nữ” đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tiềm thức của biết bao thế hệ nhân
dân. Bên cạnh đó, do tốc độ phát triển về kinh tế cũng như văn hóa là không đồng
đều giữa các vùng miền trên cả nước, nhận thức của người dân ở một số nơi còn
lạc hậu dẫn đến việc bảo đảm bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều
khó khăn, thách thức, đặc biệt trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình.
Từ đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, phân tích pháp luật trong nước, cũng

như có sự so sánh giữa pháp luật trong nước và quốc tế về quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình để qua đó xây dựng được những
quan điểm, đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, khó khăn còn tồn tại nhằm
đảm bảo được quyền bình đẳng này giữa vợ và chồng. Do vậy, tác giả xin phép
được lựa chọn làm đề tài: “Sự thể hiện của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và
chồng trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn
thi hành”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số công trình, đề tài nghiên cứu được các chuyên gia thực hiện dưới các
góc độ và trong phạm vi khác nhau, tiêu biểu là: “Đưa vấn đề giới vào phát triển:

2


thông qua sự bình đẳng giới về quyền, nguồn lực và tiếng nói”, Nxb Văn hóa Thông tin, năm 2001; “Giới, việc làm và đời sống gia đình”, Nxb Khoa học xã
hội, năm 2007;… Một số luận văn và luận án về nguyên tắc bình đẳng của vợ
chồng hiện có: Luận văn Tiến sĩ của tác giả Ngyễn Văn Cừ bảo vệ năm 2005:
“Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam”; tác giả
Chu Thị Thoa: “Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng
hiện nay”, chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa học, năm 2002; tác giả Đặng
Thị Ánh Tuyết: “Bình đẳng giới ở nông thôn miền núi phía Bắc hiện nay”, Chuyên
ngành Xã hội học;…
Ngoài ra, vấn đề bình đẳng giữa vợ và chồng còn được đề cập trong nhiều
tạp chí pháp luật, tạp chí phụ nữ, tạp chí nhân quyền và các hội thảo khoa học trên
toàn quốc. Mặc dù đã có nhiều công trình về bình đẳng giới nói chung và bình
đẳng giữa vợ và chồng nói riêng, nhưng nhìn chung những công trình nêu trên chỉ
mới đề cập một số khía cạnh về vấn đề này. Mặt khác, các công trình này đã được
nghiên cứu, thực hiện cách đây nhiều năm, cho đến nay pháp luật và thực tiễn về
quyền bình đẳng của vợ và chồng đã có nhiều thay đổi. Vì vậy, qua việc thực hiện
công trình mới này tác giả đã nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về nguyên tắc

bình đẳng của vợ và chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, cũng như
đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích, so sánh giữa pháp luật Việt Nam qua
các thời kì lịch sử về nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong lĩnh vực hôn
nhân gia đình và thực tiễn. Từ đó, đưa ra các giải pháp và phương hướng bảo đảm
cho nguyên tắc này được thực hiện triệt để ở Việt Nam.

3


3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu sự thể hiện của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ
và chồng trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn
thi hành.
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về sự
thể hiện nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014 và thực tiễn thi hành.
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu ở một số địa phương trên cả nước.
Về thời gian: Đề tài sử dụng số liệu nghiên cứu từ năm 2014 đến năm 2018.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn
phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hôn nhân và gia đình,
đặc biệt là nguyên tắc bình đẳng của vợ và chồng theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014.
Thứ hai, nêu và phân tích thực trạng về việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng

của vợ chồng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.

4


Thứ ba, đề xuất kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của
việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về bình đẳng giới; cùng với những chủ trương, chính sách, quan điểm của
Nhà nước về vấn đề bình đẳng giới, từ đó nghiên cứu thực trạng của việc thực hiện
nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở Việt
Nam.
Luận văn kết hợp sử dụng phương pháp luận cùng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể: phương pháp tổng hợp, chứng minh, phân tích, so sánh, điều tra xã hội
học,…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ, bổ sung và phát triển
những vấn đề lý luận về nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng theo Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014, tạo cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nhằm tiếp tục hoàn
thiện, nâng cao vấn đề bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân gia đình tại Việt
Nam.
Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơ
quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo
hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các
cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật trong lĩnh

5



vực hôn nhân và gia đình nói chung, cũng như trong vấn đề bình đẳng giữa người
vợ và người chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
bao gồm 2 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ
và chồng trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Chương 2: Áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong các quy
định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 – Thực trạng và những giải pháp cơ
bản.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
1.1. Những khái niệm cơ bản về hôn nhân và gia đình
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của hôn nhân
Con người ngay từ khi được sinh ra đời đã hình thành những tình cảm, tình
yêu thương như: tình mẫu tử, tình phụ tử,… Khi phát triển lớn lên trong mỗi chúng
ta sẽ dần dần xuất hiện thêm nhiều thứ tình cảm khác, như là: tình yêu quê hương,
đất nước; tình yêu thương giữa các thành viên trong gia đình (tình yêu con cái đối
với cha mẹ, tình yêu của anh chị đối với các em,…). Đặc biệt có một thứ tình cảm
rất đặc trưng cần phải nói đến là tình yêu đôi lứa – tình yêu nam nữ. Tình yêu nam
nữ chính là tiền đề cho quan hệ hôn nhân và gia đình sau này.
“Trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng”, hiểu theo nghĩa thông thường thì hôn
nhân chính là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ nhằm tạo lập cuộc

sống chung với nhau.
Theo Từ điền Tiếng Việt: “Hôn nhân là việc nam nữ chính thức lấy nhau làm
vợ chồng”.[17]
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tại khoản 1 Điều 3 như sau:
“Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”.
Như vậy, theo pháp luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân là sự liên kết giữa
một người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện và

7


bình đẳng trong khuôn khổ của pháp luật nhằm tạo lập cuộc sống chung với nhau,
cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
Từ khái niệm trên có thể thấy hôn nhân có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn
bà:
Hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là hôn nhân dựa trên sự liên kết giữa
một người đàn ông và một người đàn bà, đó là hôn nhân một vợ một chồng được
quy định tại các Điều 2, 4 và 10 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Thứ hai, hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa một người đàn ông và một
người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện:
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, việc kết hôn của nam và nữ là hoàn toàn do
họ tự nguyện quyết định, không bị chi phối bới ý chí của bất kỳ ai và không ai có
quyền thực hiện các hành vi gây cản trở cho việc kết hôn đó. Việc kết hôn cũng
không bị chi phối bởi vấn đề kinh tế, mà nó được xây dựng dựa trên cơ sở là tình
cảm, tình yêu chân chính của nam và nữ.
Thứ ba, hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa vợ và chồng:
Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật”. Kế thừa quy định trên của Hiến pháp, Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 cũng đã có quy định về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng tại Điều 17

như sau: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi

8


mặt trong gia đình, trong vi các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong
Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.
Thứ tư, hôn nhân là sự liên kết của vợ chồng nhằm sống chung suốt đời với
nhau, cùng nhau xây dựng gia đình tiến bộ, ấm no, hạnh phúc:
Tính chất “bền vững suốt đời” là đặc trưng của hôn nhân thời kỳ xã hội chủ
nghĩa. Khi yêu nhau, vợ chồng đều hướng tới mục tiêu sống chung suốt đời, gắn
bó, hòa thuận với nhau.
Thứ năm, hôn nhân là sự liên kết của vợ chồng theo quy định của pháp luật
hôn nhân và gia đình:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định một cách đầy đủ, chi tiết về
điều kiện kết hôn. Nam, nữ có quyền tự do kết hôn, tuy nhiên khi thực hiện quyền
này thì phải nằm trong khuôn khổ các điều kiện về kết hôn mà pháp luật đề ra.
1.1.2. Khái niệm và các chức năng cơ bản của gia đình
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp người sống chung thành đơn
vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu,
thường bao gồm: vợ chồng, cha mẹ và con cái”.[17]
Theo Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản Khoa học: “Gia đình là một hình thái
cộng đồng những người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và quan hệ máu
mủ”.[18]

9


Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về gia đình tại khoản 2 Điều 3
như sau: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan

hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
giữa họ với nhau theo quy định của Luật này”.
Như vậy, có thể thấy khái niệm gia đình được hiểu dưới những góc độ khác
nhau:
- Dưới góc độ xã hội: Gia đình chính là tế bào nhỏ nhất hình thành nên xã
hội, là một bộ phận không thể tách rời của xã hội;
- Dưới góc độ pháp lý: Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay là quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh
các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Gia đình được hình thành khi
một trong các sự kiện sau đây xảy ra: sự kiện kết hôn, sự kiện sinh con hay sự kiện
nhận nuôi con nuôi,…
Với vai trò là một tế bào cấu thành nên xã hội nên gia đình sẽ thực hiện các
chức năng xã hội của mình: chức năng sinh đẻ, chức năng kinh tế và chức năng
giáo dục.
Thứ nhất, gia đình có chức năng sinh đẻ:
Đây là một chức năng rất quan trọng của gia đình, giúp tái sản xuất ra con
người, quyết định đến sự tồn tại cũng như phát triển của toàn xã hội. Chức năng
này của gia đình sẽ đảm bảo duy trì và phát triển nòi giống, đồng thời đầu tư sức
lao động để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Thứ hai, gia đình có chức năng kinh tế:
Đất nước ta với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, định hướng xã hội
chủ nghĩa, kinh tế gia đình chiếm một tỷ trọng đáng kể và có vai trò quan trọng

10


trong việc duy trì và phát triển gia đình. Do đó, chức năng kinh tế là một trong
những chức năng quan trọng và chủ yếu của gia đình.
Thứ ba, gia đình có chức năng giáo dục:
Đây là một chức năng quan trọng, có vai trò quyết định trong việc hình thành

và phát triển nhân cách của mỗi con người. Gia đình chính là cái nôi, là trường
học đầu tiên giáo dục mỗi con người chúng ta. Gia đình là nơi đào tạo cho con
người chúng ta biết yêu thương, biết cư xử, biết lao động và rèn luyện nhân cách,
đạo đức.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015 với
9 chương, 133 điều đã thể hiện được những điểm tiến bộ rõ nét và tính nhân văn
sâu sắc so với các văn bản Luật Hôn nhân và Gia đình những năm về trước, phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn mới nhằm nâng cao
chất lượng, sự bền vững của hôn nhân và gia đình, các quy định mới thể hiện sự
tiến bộ rõ nét của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000 gồm: Tăng cường bảo vệ quyền con người, Áp dụng tập quán
trong hôn nhân và gia đình, Nâng độ tuổi kết hôn của nam và nữ, Không cấm kết
hôn giữa những người cùng giới tính, Quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận, Quy định thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn, Quy định
bạo lực gia đình là căn cứ để ly hôn, Vấn đề chia tài sản phải xét yếu tố lỗi, Hạ độ
tuổi hỏi ý kiến của con khi bố mẹ ly hôn, Cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo,…
Bất kì một ngành luật nào cũng đều có một hệ thống những nguyên tắc cơ
bản ứng với mỗi ngành luật đó, nó đóng vai trò là một khung pháp lý chung được

11


pháp luật ghi nhận, có tác dụng nhằm định hướng, chỉ đạo cho toàn bộ hệ thống
các quy phạm pháp luật của ngành luật đó.
Nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình là những nguyên lý, tư
tưởng chỉ đạo, quán triệt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và
gia đình.
Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được quy định tại

Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đó là những nguyên tắc sau:
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người
theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người
không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn
trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có
nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử
giữa các con.
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người
cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ
các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa
gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam về hôn nhân và gia đình.

12


1.3. Khái niệm và cơ sở pháp lý của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và
chồng
1.3.1. Khái niệm nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng
Hôn nhân và gia đình là một lĩnh vực rộng lớn, trong đó tồn tại các quan hệ
nhân thân cũng như các quan hệ tài sản, nó phát sinh dựa trên cơ sở hôn nhân,
huyết thống hay nuôi dưỡng,…
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, do quan niệm xã hội, nam giới thường
được coi là “trụ cột”, có toàn quyền quyết định, làm chủ các vấn đề có liên quan
đến gia đình, còn người phụ nữ lại bị coi thường, không được xem trọng,… Như
vậy, để có một xã hội hiện đại và tiến bộ thì yêu cầu cấp thiết là làm sao để đảm
bảo được sự bình đẳng giữa người nam và người nữ trong gia đình, cụ thể ở đây

chính là sự bình đẳng giữa vợ và chồng.
Bình đẳng giữa vợ và chồng là việc người vợ có quyền bình đẳng, ngang
hàng với người chồng, mọi công việc có liên quan trong gia đình đều được vợ,
chồng cùng nhau gánh vác, chia sẻ và cùng nhau hưởng thụ thành quả từ những
công việc đó.
Nguyên tắc bình đẳng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn
nhân và Gia đình. Đó là nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo, quán triệt toàn bộ hệ thống
các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình
Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định: “Bình đẳng giới là việc
nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng
lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như
nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Khi nam nữ kết hôn, hình thành nên quan hệ hôn nhân và gia đình thì khái
niệm bình đẳng giới sẽ được xem xét, nhìn nhận dưới góc độ bình đẳng giữa vợ

13


và chồng. Do đó khái niệm bình đẳng vợ chồng sẽ thuộc trong phạm vi khái niệm
bình đẳng giới.
Trong pháp luật Việt Nam nhà làm luật không đưa ra khái niệm thế nào là
quyền bình đẳng mà chỉ nêu ra các quy định về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và
chồng nhằm đảm bảo sự bình đẳng của vợ chồng.
Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng bình
đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong
việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp,
Luật này và các luật khác có liên quan”.
Như vậy, từ quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ta có các điểm
cần lưu ý như sau:
Thứ nhất, vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về

mọi mặt trong gia đình:
Mọi mặt trong gia đình ở đây có thể hiểu là mọi vấn đề liên quan đến nhân
thân và quan hệ tài sản của vợ và chồng trong phạm vi gia đình, vợ chồng bình
đẳng trong việc bàn bạc, thỏa thuận các vấn đề liên quan đến nhân thân và tài sản
của vợ chồng, của con cái hoặc các thành viên trong gia đình, liên quan đến cuộc
sống chung của gia đình, các mục tiêu và các tiêu chí mà gia đình mình hướng tới.
Thứ hai, vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của công dân:
Sau khi nam nữ kết hôn hình thành quan hệ vợ chồng thì sẽ có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong mọi vấn đề liên quan đến gia đình mình, từ việc quyết định
các công việc của gia đình, hay việc chăm sóc, giáo dục con cái,... hay trong việc
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật. Đây
chính là một điểm mới đáng chú ý của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với

14


Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, khẳng định quan điểm của Nhà nước về
sự bình đẳng giữa vợ và chồng không chỉ gói gọn trong quan hệ gia đình mà còn
trong các quan hệ khác của đời sống xã hội được thể hiện qua những quyền công
dân được Hiến pháp quy định.
1.3.2. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 có quy
định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Như vậy, Hiến
pháp năm 1946 đã ghi nhận nguyên tắc bình đẳng của nam nữ. Kể từ đó, nguyên
tắc này đã được các bản Hiến pháp sau này của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam kế thừa và ghi nhận.
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi
nhận quyền bình đẳng của công dân tại Khoản 1 Điều 16: “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật” và được cụ thể hóa tại Điều 26 như sau:

- Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm
quyền và cơ hội bình đẳng giới.
- Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện,
phát huy vai trò của mình trong xã hội.
- Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
Trong mối quan hệ hôn nhân thì nguyên tắc bình đẳng nam nữ sẽ được xem
xét và ghi nhận dưới góc độ bình đẳng giữa vợ và chồng. Chính vì lẽ đó, Khoản 1
Điều 36 Hiến pháp 2013 cũng đã có quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn.

15


Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau”.
Nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình không
chỉ được Hiến pháp quy định và bảo vệ mà còn được điều chỉnh trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như: pháp luật dân sự, pháp luật hôn nhân và gia đình,...
Văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên đề cập đến vấn đề bình đẳng giữa vợ và
chồng là Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948. Ngay tại lời nói đầu của Tuyên
ngôn đã tuyên bố rằng:
Bản tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền này là thước đo
chung cho tất cả các nước và tất cả các dân tộc đánh giá việc thực
hiện mục tiêu mà mọi cá nhân và mọi tổ chức trong xã hội, trên cơ sở
luôn ghi nhớ Bản tuyên ngôn này, sẽ phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng
các quyền và tự do cơ bản của con người thông qua truyền bá và giáo
dục, cũng như sẽ phấn đấu đảm bảo cho mọi người dân, ở chính các
nước thành viên của Liên Hợp Quốc và ở các lãnh thổ thuộc quyền
quản lý của mình, công nhận và thực hiện những quyền và tự do đó
một cách có hiệu quả thông qua những biện pháp tích cực, trong phạm
vi quốc gia hay quốc tế. [12]

Khoản 1 Điều 16 Bản Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền quy định: “Đến
tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị
ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi
kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn”.
Quy định nêu trên là một trong những quyền tự do cơ bản của con người được
ghi nhận tại Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Các Quốc Gia Hội Viên cam

16


kết, bằng những hành động riêng rẽ hay phối hợp, sẽ cộng tác với Liên Hiệp Quốc
trong việc thực hiện những mục tiêu mà Bản tuyên ngôn đề ra (Điều 56).
Một văn bản pháp lý quốc tế tiếp theo phải kể đến là Công ước Cedaw về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979. Công ước này đã
thừa nhận một cách rõ ràng:
Sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vẫn đang tồn tại ở nhiều
nơi và nhấn mạnh rằng: “Sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vi phạm
các nguyên tắc bình đẳng về các quyền và tôn trọng nhân phẩm, là một
trở ngại với sự tham gia của phụ nữ, trên cơ sở bình đẳng với đàn ông,
vào đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội và chính trị của quốc gia họ, làm
ảnh hưởng tới sự thịnh vượng của xã hội và gia đình, và gây nhiều khó
khăn cho sự phát triển đầy đủ các khả năng tiềm tàng của phụ nữ trong
việc phục vụ đất nước và loài người. [13]
Điều 1 Công ước đã nêu ra định nghĩa về sự phân biệt đối xử như sau:
Vì những mục đích của Công ước này, thuật ngữ “phân biệt đối
xử với phụ nữ" sẽ có nghĩa là bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế
nào được đề ra dựa trên cơ sở giới tính, mà có tác dụng hoặc nhằm mục
đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ, bất kể tình trạng hôn
nhân của họ như thế nào, được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện các
quyền con người và tự do cơ bản trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã

hội, văn hóa, dân sự hay bất kể lĩnh vực nào khác, trên cơ sở bình đẳng
giữa nam giới và phụ nữ. [13]
Bản Công ước khẳng định tại Điều 2 và Điều 3 rằng Các quốc gia thành viên
Công ước lên án sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ thể hiện dưới mọi hình thức,

17


đồng ý áp dụng tất cả những biện pháp thích hợp và không chậm trễ để thực hiện
một chính sách xoá bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, và nhằm mục đích đó,
cam kết:
- Thể hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ vào hiến pháp nước
mình, hoặc vào các văn bản pháp luật thích hợp khác, nếu như việc này
chưa được thực hiện, và bảo đảm, thông qua pháp luật và các biện pháp
khác, việc thực hiện các nguyên tắc này trên thực tế;
- Thông qua các biện pháp pháp lý và các biện pháp thích hợp
khác, kể cả việc trừng phạt trong những trường hợp cần thiết, nhằm
ngăn cấm tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ;
- Thiết lập sự bảo vệ về mặt luật pháp các quyền của phụ nữ trên
cơ sở bình đẳng với nam giới và đảm bảo bảo vệ phụ nữ một cách có
hiệu quả chống lại bất kỳ hành động phân biệt đối xử nào thông qua
các Tòa án quốc gia có thẩm quyền và các thiết chế công cộng khác;
- Kiềm chế tham gia bất kỳ hành động hoặc hoạt động nào có
tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ và bảo đảm rằng các giới
chức và cơ quan chính quyền sẽ hành động phù hợp với nghĩa vụ này;
- Thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xoá bỏ sự phân
biệt đối xử chống lại phụ nữ do bất kỳ cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan
nào tiến hành;

18



- Thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp, kể cả về mặt pháp lý,
nhằm sửa đổi hoặc xoá bỏ các luật và văn bản pháp luật hiện hành, các
tập quán và phong tục tạo nên sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ;
- Hủy bỏ tất cả quy định hình sự quốc gia mà tạo nên sự phân
biệt đối xử chống lại phụ nữ.
Các quốc gia thành viên Công ước phải tiến hành mọi biện pháp thích hợp,
kể cả về mặt lập pháp, trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là về chính trị, xã hội, kinh
tế và văn hóa, để đảm bảo sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, với mục đích
đảm bảo cho họ thực hiện và được hưởng các quyền của con người và tự do cơ
bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới.
Về sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình thì
ngay tại khoản 1 Điều 16 của Công ước đã có quy định như sau:
Các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp thích
hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong tất cả các vấn
đề liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình, cụ thể phải bảo đảm
những quyền dưới đây, trên cơ sở bình đẳng nam nữ:
a) Quyền kết hôn như nhau;
b) Quyền như nhau trong việc tự do lựa chọn người để kết hôn
và chỉ kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện;
c) Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ chồng trong thời gian
hôn nhân cũng như khi hôn nhân bị hủy bỏ;

19


d) Quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ, bất
kể tình trạng hôn nhân như thế nào, về các vấn đề liên quan đến con
cái họ. Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải được coi

là điều quan trọng nhất;
e) Quyền như nhau trong việc quyết định một cách tự do và có
trách nhiệm về số con và khoảng cách giữa các lần sinh, quyền được
tiếp cận với những thông tin, giáo dục và các phương tiện cho phép họ
thực hiện các quyền này;
f) Quyền và trách nhiệm như nhau đối trong các vấn đề về nuôi
dưỡng, giám hộ, bảo trợ, ủy thác và cho nhận con nuôi, hoặc trong
những vấn đề tương tự ở những nơi mà các khái niệm này có trong
pháp luật quốc gia. Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải
được coi là điều quan trọng nhất;
g) Các quyền cá nhân như nhau giữa vợ và chồng, bao gồm
quyền được lựa chọn tên họ, nghề nghiệp, việc làm của bản thân mình;
h) Các quyền như nhau của cả vợ và chồng đối với việc sở hữu,
tiếp nhận, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là
tài sản không phải trả tiền, hay đó là tài sản có giá trị lớn.
Như vậy, có thể thấy nghĩa vụ của các Quốc gia khi tham gia vào Công ước
Cedaw sẽ mang tính chất toàn diện, từ nghĩa vụ đảm bảo quyền bình đẳng trong
việc kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân, trong quan hệ giữa cha, mẹ đối với con cái,
trong việc chiếm hữu sử dụng định đoạt tài sản, hay khi hhoon nhân kết thúc,... và

20


×