Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Điều kiện sống Lưỡng cư (Amphibia)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.49 KB, 8 trang )

Điều kiện sống Lưỡng cư
(Amphibia)

Lưỡng cư phân bố ở nước ngọt,
không khí nóng và ẩm. Do đời sống lệ
thuộc chặt chẽ vào độ ẩm và nhiệt độ
mà lưỡng cư vắng mặt ở vùng sa mạc
khô cằn và vùng địa cực trong khi
chúng rất phong phú và đa dạng ở
những vùng nhiệt đới nóng và ẩm.

- Da của lưỡng cư là cơ quan hô hấp
vô cùng quan trọng. Da trần, ẩm thuận
lợi cho sự khuếch tán khí và độ ẩm
của da giảm cùng độ ẩm của môi
trường ngoài. Không khí càng khô sự
hô hấp càng không thuận lợi và thân
nhiệt càng giảm dẫn đến bị chết. Mức
độ hô hấp qua da cũng thay đổi tùy
loài và tùy nơi ở. Các loài sống ở nơi
khô ráo, thường có da hóa sừng để
giảm bớt sự thoát hơi nước ở bề mặt
thân, hơn nữa chúng hoạt động vào
buổi chiều và ăn đêm nên tránh được
thời tiết khô ráo ban ngày.
- Thân nhiệt của lưỡng cư không
những tùy thuộc nhiệt độ của môi
trường như ở cá và bò sát mà thường
thấp hơn từ 2 - 3
0
C. Thí dụ một loài


nhái bén ở California khi trời lạnh
nhiệt độ cơ thể cao hơn nhiệt độ
không khí nhưng khi trời nóng nhiệt
độ cơ thể thấp hơn.
- Cấu tạo đặc biệt của da lưỡng cư
làm chúng không thể sống trong nước
có hàm lượng muối 1 - 1,5% vì ở
nồng độ này cân bằng thẩm thấu qua
da bị phá hủy.
Do đó lưỡng cư không thấy ở vùng
nước lợ cũng như ở các đảo đại
dương. Tuy nhiên một số loài vẫn có
khả năng sống ở nước lợ. Ở Philippin
có loài ếch Rana moodei sống trong
hang cua nước lợ và ấu trùng chịu
đựng hàm lượng muối 2,1%.
Ở các vùng ven biển nước ta, các loài
cóc, nhái vẫn sống kiếm ăn bên các
vũng nước lợ. Ðộ pH cũng ảnh hưởng
đến sự phát triển của trứng lưỡng cư
khi pH giảm thì trứng lưỡng cư có
thể không phát triển (một số loài
trứng chịu đựng đến pH= 3,8).
Về mặt sinh thái học ta phân biệt ba
nhóm: Nhóm ở cây, nhóm ở đất và
nhóm ở nước. Nhóm ở cây và ở đất
gồm chủ yếu các loài thuộc bộ Không
đuôi.
- Nhóm ở cây phổ biến nhất, đa số
thuộc hai họ Nhái bám

(Rhacophoridae) và Nhái bén
(Hylidae). Các loài ở cây có cấu tạo
đặc biệt thích hợp cho sự leo trèo.
Nhái bén (Hyla) có ngón chân nở
rộng thành giác bám, có thêm rèm
biểu bì và tuyến tiết chất dính giúp
con vật bám được vào mặt phẳng
thẳng đứng. Nhiều loài nhái bám
như hót cổ (Rhacophorus) có đầu
ngón chân nở rộng thành giác bám, có
đốt sụn trung gian giữa hai đốt ngón
chân làm chúng dễ dàng nắm cành
cây để leo trèo. Hơn nữa một số loài
có màng da nối ngón chân làm chúng
có thể nhảy chuyền từ cành này sang
cành khác, có khi xa đến 10m
(chẫu xanh ở rừng Cúc Phương).
Màng này giúp hạn chế tốc độ rơi của
con vật.
- Nhóm ở đất gồm nhiều loài ở
bộ Không đuôi, một số ít loài bộ
có đuôi và không chân. Các loài
không đuôi sống ở đất thường tìm
kiếm những hang hốc, khe đất trong
tự nhiên để làm nơi ở. Một số loài nầy
có thể đào đất bằng chân sau, các loài
này đều có chi ngắn và khỏe, thiếu

×