Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Những cơ sở phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.02 KB, 33 trang )

Những cơ sở phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty Xăng
dầu Hàng không Việt Nam.
1.1 Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh và phân tích hiệu quả
hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
1.1.1 Khái niệm và phân loại hiệu quả kinh doanh.
* Khái niệm hiệu quả kinh doanh:
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế cơ bản, biểu hiện tập trung của
sự phát triển kinh tế theo kiểu chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các
nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh
doanh. Nó là thước đo quan trọng tới sự phát triển và tăng trưởng kinh tế và
là chỗ dựa cơ bản để đánh giá mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ.
* Phân loại hiệu quả kinh doanh.
Trong công tác quản lý công nghiệp phạm trù hiệu quả kinh doanh còn
được biểu hiện ở các dạng khác nhau. Mỗi dạng thể hiện những đặc trưng, ý
nghĩa cụ thể của hiệu quả kinh doanh. Việc phân loại hiệu quả kinh doanh theo
những tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực trong công tác thống kê và
quản lý công nghiệp, nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh
mới và các định những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh doanh quốc dân.
Cách phân loại này dựa trên cơ sở phân định phạm vi tính toán hiệu quả
kinh doanh trong nền kinh doanh quốc dân.
Cách phân loại này dựa trên cơ sở phân định phạm vi tính toán hiệu quả
kinh doanh trong nền kinh doanh quốc dân.
Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả kinh doanh thu được từ những
hoạt động của từng đơn vị sản xuất công nghiệp (xí nghiệp HTX, xí nghiệp
liên hợp, liên hiệp xí nghiệp). Biểu hiện chung của hiệu quả cá biệt là doanh
lợi của mỗi doanh nghiệp đạt được.
Hiệu quả kinh doanh quốc dân: là lượng sản phẩm thặng dư mà toàn bộ
xã hội thu được trong một thời kỳ so với toàn bộ nền sản xuất của xã hội.
Các nước xã hội chủ nghĩa không những cần tính toán và đạt được hiệu


quả kinh doanh cá biệt mà còn phải tính toán và đạt được hiệu quả kinh doanh
quốc dân.
Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh doanh quốc dân có mối
quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau.
Để phân tích và lựa chọn cả phương án luận chứng kinh doanh khác nhau
trong công việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể nào đó, từ đó lựa chọn lấy một
phương án tối ưu.
Vì vậy cần phảI xác định rõ và phân định hai loại hiệu quả: hiệu quả tuyệt
đối, hiệu quả so sánh và mối tương quan giữa hai loại hiệu quả ấy.
Hiệu quả tuyệt đối: Là hiện tượng hiệu quả được tính toán cho từng
phương án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được hoặc so sánh kết
quả thu được với chi phí bỏ ra. Chẳng hạn xác định mức lợi ích thặng dư, tính
toán mức lợi nhuận thu được từ một đồng chi phí sản xuất.
Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi bỏ ra chi phí để thực hiện một
công việc cụ thể nào đó, để biết được với những chi phí đã bỏ ra sẽ thu được
những lợi ích cụ thể gì?Vì vậy, trong công tác quản lý công nghiệp, bất kỳ công
việc gì đòi hỏi phảI bỏ ra chi phí lao động sống và lao động quá khứ, dù với một
lượng lớn hay nhỏ cũng đều phải tính toán hiệu quả tuyệt đối.
Hiệu quả so sánh: được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối của các phương án khác nhau. Nói cách khác, hiệu quả so sánh chính
là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án. Tác dụng của nó là
để so sánh mức độ hiệu quả của các phương án (hay các cách làm khác nhau
cùng thực hiện một nhiệm vụ). Từ đó cho phép ta lựa chọn một cách làm bảo
đảm đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Giữa hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh có quan hệ chặt chẽ với
nhau, xong chúng có tính độc lập tương đối, xác định hiệu quả tuyệt đối là
cơ sở xác định hiệu quả so sánh. Tuy vậy, có khi hiệu quả so sánh được xác
định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối như so sánh giữa
cácd mức chi phí của các phương án khác nhau.
Hiệu quả chi phí thành phần: Hiểu hiện sự so sánh giữa kết quả chung của

hành động đang được xem xét với chi phí yếu tố tương ứng cấu thành chi phí
lao động xã hội. Tuỳ theo các phân loại chi phí mà có hiệu quả của mỗi chi phí
tương ứng.
Phân loại theo yếu tố:
Hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu.
Hiệu quả sử dụng lao động sống.
Phân loại theo từng giai đoạn của quá trình sản xuất.
Hiệu quả khâu dự trữ.
Hiệu quả khâu sản xuất.
Hiệu quả khâu lưu thông.
Hiệu quả tổng hợp: được tạo thành trên cơ sở hiệu quả sử dụng các loại
chi phí thành phần.
Do đó hiệu quả thành phần và hiệu quả tổng hợp có quan hệ mật thiết
với nhau. Hiệu quả tổng hợp đạt được cao chỉ khi mà các yếu tố của quá
trình sản xuất được sử dụng có hiệu quả. Nếu một trong các yếu tố sử dụng
lãng phí sẽ làm giảm hiệu quả tổng hợp và có khi dẫn đến không đạt được
hiệu quả tổng hợp. Vì vậy, bản thân các đơn vị cơ sở phải xác định những
biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả toàn diện.
Cho nên cách phân loại hiệu quả kinh doanh theo hiệu quả từng phần
và hiệu quả tổng hợp có tác dụng to lớn trong thống kê, hạch toán hiệu quả
kinh doanh và từ đó đề ra các biện pháp cụ thể phấn đấu nâng cao hiệu quả
kinh doanh.
1.1.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp:
Hiệu quả kinh tế liên quan đến hai phạm trù: kết quả hoạt động kinh
doanh và chi phí hoạt động kinh doanh.
+ Kết quả hoạt động kinh doanh:
Kết quả hoạt động kinh doanh là thành tích hoạt động sản xuất kinh
doanh mà doanh nghiệp đạt được trong một giai đoạn nhất định. Kết quả có

thể là đại lượng định lượng được như: số lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu,
lợi nhuận,… Kết quả cũng có thể là đại lượng chỉ phản ánh chất lượng, mang
tính chất định tính như: chất lượng sản phẩm, danh tiếng và uy tín của doanh
nghiệp.
Các kết quả kinh doanh phảI được xem xét bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau.
- Doanh thu:
Doanh thu là một chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ứng mục đích kinh doanh
cũng như kết quả sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu doanh thu có ý nghĩa to lớn
trong việc đánh giá quá trình và quy mô sản xuất kinh doanh và quản lý doanh
nghiệp. Đây là cơ sở dể phân tích các chỉ tiêu khác có liên quan, nó còn là căn
cứ đáng tin cậy cho các cấp lãnh đạo đề ra những quyết định tối ưu trong việc
sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế và xác định chính xác kết quả
tàI chính của doanh nghiệp.
Doanh thu bán hàng: là chỉ tiêu phản ánh giá trị thực hiện do hoạt động
sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp lao vụ, dịch vụ cho
khách hàng. Giá trị của hàng hoá được thỏa thuận ghi trong hợp đồng kinh tế
về mua bán và cung cấp hàng hóa, lao vụ, dịch vụ đã được ghi trong hoá đơn
bán hàng hoặc trên các chứng từ khác có liên quan đến hoạt động bán hàng
hoặc thoả thuận giữa người mua và người bán về giá bán hàng hoá.
Doanh thu bán hàng thuần: được xác định như sau:
Trong đó:
Thuế doanh thu phả nộp được tính bằng tỷ lệ % trên doanh thu chịu thuế:
Thuế suất thuế doanh thu được quy định cho từng ngành cụ thể:
Thuế xuất khẩu: là khoản thuế được tính trên doanh thu bán hàng xuất
khẩu được qui định riêng cho từng mặt hàng cụt thể.
Thuế tiêu thụ đặc biệt: là loại thuế đánh vào các mặt hàng chịu thuế đặc
biệt. Hiện nay, có ba mặt hàng phảI chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đó là: thuốc là,
rượu, bia.
- Lợi nhuận:
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh

doanh, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của
doanh nghiệp. Từ góc độ của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa thu
nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó.
Lãi nhuần: được xác định như sau:
Lãi nhuần = Lãi gộp – Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Lãi gộp: được xác định:
Lãi gộp = Doanh thu thuần – Giá vốn bán hàng.
Các khoản giảm
trừ doanh thu
Các khoản
thuế
Doanh thu bán
h ngà
Doanh thu bán
h ng thuà ần
Thuế suất thuế
doanh thu
Doanh thu
tính thuế
Thuế doanh thu
phải nộp
Doanh thu
tính thuế
Các khoản giảm
trừ doanh thu
Doanh thu
bán h ngà
Các chi phí phát sinh thực
tế ở khâu mua
Giá thanh toán

cho người bán
Giá vốn h ng bánà
Giá thanh toán cho người bán là giá được ghi trên hoá đơn do người mua
hàng đem về cùng với hàng mua sau khi đã trừ đI các khoản chiết khấu, giảm
giá.
Chi phí phát sinh trong quá trình mua hàng bao gồm: chi phí bảo hiểm, bốc
dỡ vận chuyển, tiền thuê kho bến bãi, hao hụt định mức trong khâu mua, các
khoản lệ phí phải nộp trong khâu mua, tiền lương và bảo hiểm của cán bộ chuyên
trách mua (nếu có).
Chi phí bán hàng: phản ánh các khoản phí thực tế phát sinh trong quá
trình tiêu thụ hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, bao gồm các chi phí quản lý, đóng gói,
vận chuyển, giới thiệu, bảo hành sản phẩm hàng hoá. Chi phí bán hàng bao
gồm các khoản mục sau: Chi phí nhân viên, chi phí vật liệu bao bì, chi phí dụng
cụ đồ dùng, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí
bằng tiền khác.
Chi phí quản lý doanh nghiệp: phản ánh các khoản chi phí quản lý kinh
doanh bao gồm: chi phí nhân viên quản lý, chi phí vật liệu quả lý, chi phí đồ
dùng văn phòng, chi phí khấu hao tài sản cố định, thuế và các khoản lệ phí, chi
phí dự phòng, chi phí dịch vụ mua ngoà, chi phí bằng tiền khác.
- Chi phí kinh doanh:
Chi phí là đại lượng quan trọng để xác định hiệu quả kinh doanh. Chi phí
kinh doanh cảu một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong kỳ kinh doanh
nhất định để thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các nhà sản xuất phảI chịu chi phí về
nguyên vật liệu, lao động cần thiết để cho quá trình sản xuất, các chi phí bán
hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Các khoản chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp. Các khoản chi phí này gọi là chi phí ngoàI sản xuất, là
các phí tổn phát sinh trong kỳ. Các khoản chi phí sản xuất là các khoản chi phí
sản phẩm. Để thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng và hạch toán, chi phí thường

được phân thành hai loại:
Chi phí cố định (định phí): là những chi phí không có sự biến động tăng
hay giảm theo sự biến động tăng hoặc giảm của khối lượng sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ, lao vụ. Chi phí cố định gồm có: Chi phí khấu hao tài sản cố định,
chi phí quản lý chung, chi phí về thuế vốn, thuế trước bạ, thuế môn bài, các
loại phí bảo hiểm tàI sản, tiền thuê tài sản.
Chi phí biến đổi (biến phí): là những chi phí kinh doanh có sự biến động
tăng hoặc giảm tương ứng với sự biến động tăng hoặc giảm của khối lượng
sản phẩm, hàng hoá, lao vụ. Chi phí này luôn biến đổi ở các kỳ kinh doanh
với nhau. Chi phí biến đổi gồm có: chi phí tiêu hao vật tư, nguyên vật liệu để
sản xuất sản phẩm, chi phí về tiền lương cho bộ phận sản xuất, bộ phận bán
hàng và bộ phận quản lý chung theo khối lượng kinh doanh, chi phí thuế
doanh thu, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
* Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp:
Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp phản ánh hiệu quả kinh tế của toàn bộ quá
trình sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Hiệu quả tổng hợp được xác
định thông qua việc tính toán, so sánh giữa các chỉ tiêu kết quả kinh doanh và
chi phí sản xuất.
- Lợi nhuận:
Lợi nhuận là phần chênh lệch dương giữa tổng thu nhập và tổng chi phíc
của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Lợi nhuận được xác định như
sau:
Lợi nhuận = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
Lợi nhuận là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Nhà quản trị quan tâm tới chỉ tiêu này vì lợi nhuận là đIều kiện tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Càng tạo ra nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp
càng phát triển vững mạnh, đời sống người lao động càng được nâng cao.
- Tỷ lệ lãi gộp:
Tỷ lệ lãi gộp là chỉ tiêu dùng để phản ánh ảnh hưởng của giá bán hàng
hoá tới hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.

Lãi gộp
Tỷ lệ lãi gộp = x 100
Doanh thu thuần
Tỷ lệ lãi gộp càng cao chứng tỏ phần giá trị mới sáng tạo của hoạt động
sản xuất kinh doanh càng lớn, doanh nghiệp càng được đánh giá cao và ngược
lại. Nếu giá bán vẫn giữ nguyên nhưng tỷ lệ lãi gộp giảm thì ta có thể kết luận
là chi phí đã tăng lên. Chi phí ở đây được hiểu là chi phí mua nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất hay giá vốn hàng bán.
- Doanh lợi sản xuất:
Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của toàn bộ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận
Doanh lợi sản xuất =
Doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu sẽ đem lại cho doanh nghiệp
bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu doanh lợi này càng cao thì lợi nhuận tạo ra
càng nhiều, chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Do hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức
tạp, có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh nên
doanh nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi sử dụng có hiệu quả các yếu tố cơ
bản như vốn, trang thiết bị, lao động… Để đánh giá một cách toàn diện về hiệu
quả kinh tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, người ta thường kết hợp
sử dụng các chỉ tiêu bộ phận để đánh giá từng mặt hoạt động cụ thể.
Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp và chỉ tiêu hiệu quả
kinh tế bộ phận không phảI là mối quan hệ cùng chiều. Trong lũ chỉ tiêu hiệu
quả tổng hợp tăng lên thì có thể những chỉ tiêu bộ phận có thể tăng lên, cũng có
thể không đổi hoặc giảm.
* Hiệu quả sử dụng vốn:
Mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh thì trước tiên
phảI có vốn, vốn là đIều kiện không thể thiếu được của quá trình táI sản xuất,

là tiền đề, là phương tiện cho quá trình hoạt động kinh doanh.
Hiệu quả sử dụng vốn là một phần chính yếu trong hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp, nó phản mặt hoạt động kinh doanh trên góc độ vốn. Đối với
hoạt động kinh doanh thương mại thì vốn vận động hầu hết các quá trình
nghiệp vụ. Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu động, ta lần
lượt tính từng chỉ tiêu.
- Chỉ tiêu doanh lợi trên vốn sản xuất:
Lợi nhuận
Doanh lợi vốn =
Tổng vốn sử dụng
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lời của toàn bộ vốn kinh doanh, cho
biết một đồng vốn bỏ vào kinh doanh sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Doanh lợi vốn càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại.
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về
tàI sản cố định, mà đặc đIểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong
nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết
thời gian sử dụng. Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng vốn cố định phải
được hiểu trên hai khía cạnh.
Với số vốn hiện có, có thể sản xuất thêm một số lượng sản phẩm với chất
lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đầu tư thêm vốn một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng
doanh số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phảI lớn hơn tốc
độ tăng vốn.
Lợi nhuận
Sức sinh lợi của vốn cố định =
Vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn cố định phản ánh cứ một đồng vốn cố định tham
gia sản xuất sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn
cố định được coi là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu

quả đâu tư cũng như chất lượng sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tàI sản lưu động nhằm đảm bảo cho
quá trình táI sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên
tục. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động đóng vai trò quan trọng, mang tính quyết
định trong hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được xác định thông
qua mối quan hệ giữa kết quả thu được và lượng vốn bỏ ra.
Lợi nhuận
Doanh lợi vốn lưu động =
Vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ vào kinh doanh sẽ thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mức doanh lợi vốn càng
lớn thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao, thể hiện khả năng phản ánh sự cố
gắng của doanh nghiệp trong việc hợp lý hoá hoạt động kinh doanh của
mình và đảm bảo tiết kiệm chi phí.
* Hiệu quả sử dụng lao động:
Dựa vào phần lý luận về hiệu quả kinh tế ở trên, ta có thể hiểu sử dụng
lao động trong các doanh nghiệp là chỉ tiêu tương đối, phản ánh quan hệ
giữa các đại lượng kết quả của hoạt động kinh doanh và đại lượng chi phí
lao động sống để đạt được kết quả đó. Hiệu quả sử dụng lao động chính là
một chỉ tiêu quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, nó phản ánh kết quả và trình độ sử dụng lao động của từng
đơn vị trong doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả lao động trong cá doanh
nghiệp là rất cần thiết, giúp doanh nghiệp thấy rõ khả năng của mình, đồng
thời khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý sử dụng lao động nhằm
đạt tới mục tiêu đề ra. Đánh giá hiệu quả sử dung lao động không thể nói
chung mà phải thông qua hệ thống chỉ tiêu đánh giá, bao gồm:
- Năng suất lao động:
Chỉ tiêu này thường được biểu hiện dưới hai dạng: Chỉ tiêu hiện vật và chỉ
tiêu giá trị.

Chỉ tiêu hiện vật:
Số lượng sản phẩm Số sản phẩm sản xuất trong kỳ
bình quân một nhân viên Số nhân viên bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu giá trị:
Doanh thu bình quân Doanh thu bán hàng trong kỳ
một nhân viên trong kỳ Số nhân viên bình quân trong kỳ
- Lợi nhuận bình quân một nhân viên:
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Lợi nhuận bình quân Lợi nhuận của doanh nghiệp
một nhân viên Số nhân viên bình quân của DN
Chỉ tiêu này cho biết mỗi lao động sử dụng trong doanh nghiệp tạo ra
được bao nhiêu lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định.
Chỉ tiêu năng suất lao động và lợi nhuận bình quân một nhân viên càng
cao thì hiệu quả sử dụng lao động càng tốt. Việc phân tích, đánh giá hai chỉ
tiêu này giúp doanh nghiệp có thể khống chế số lượng lao động ở mức hợp lý,
vừa đảm bảo sử dụng tốt về số lượng thời gian và chất lượng lao động, vừa
góp phần vào việc tiết kiệm chi phí, tăng thu nhập cho doanh nghiệp.
Đội ngũ lao động giữ vai trò quan trọng trong việc kinh doanh có hiệu
quả của doanh nghiệp. Chất lượng sản xuất kinh doanh phụ thuộc rất
nhiều vào ý thức trách nhiệm, tinh thần hợp tác của mọi thành viên trong
doanh nghiệp. Để phát huy được mọi tiềm năng trong lao động, sử dụng
lao động có hiệu quả đòi hỏi phảI quản lý lao động một cách khoa học, sử
dụng đúng người, đúng việc, đúng năng lực trình độ.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ quan trọng
của bất kỳ công ty , doanh nghiệp nào trong cơ chế thị trường. Vấn đề đặt
ra là phảI phân biệt giữa kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh, từ đó
có hướng nghiên cứu phù hợp. Để đưa ra được những biện pháp thích hợp
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của mỗi công ty, doanh nghiệp đòi hỏi
phảI có sự nghiên cứu, phân tích tỉ mỉ, chính xác thực trạng kinh doanh ở
công ty, doanh nghiệp đó.

1.1.3. Phương pháp phân tích hiệu quả kinh doanh.
* Các phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh.
+ Phương pháp so sánh:
So sánh là phương pháp phân tích kinh doanh, sử dụng con số về một chỉ
tiêu so sánh giữa các thời kỳ với nhau, từ đó xác định kết quả, vị trí và xu
hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.
+ Phương pháp so sánh bằng số tuyệt đối.
Việc so sánh này giúp cho doanh nghiệp biết được mối quan hệ quy mô,
khối lượng đạt được vượt (+) hay hụt (-) của các chỉ tiêu phân tích giữa kỳ
phân tích so với kỳ gốc, biểu hiện bằng tiền, giờ công hay hiện vật. Đây là một
phương pháp khá chính xác trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh vì nó
được dựa trên các số liệu trung thực về tình hình sản xuất trong các doanh
nghiệp.
+ Phương pháp so sánh bằng số tương đối.
Phương pháp so sánh bằng số tương đối kế hoạch.
Phương pháp này phản ánh mức độ doanh nghiệp cần phải thực hiện
trong kỳ kế hoạch. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ cho một tỷ lệ tương đối so
với kết quả thực mà doanh nghiệp đạt được.
Phương pháp so sánh bằng số tương đối phản ánh tình hình kế hoạch và
được sử dụng ở bảng sau:
- Dạng giản đơn:
Tỷ lệ % hoàn thành Trị số của kỳ phân tích
kế hoạch về một chỉ = x 100%
tiêu nào đó Trị số của chỉ tiêu kỳ kế hoạch
- Dạng có liên hệ:
Tỷ lệ % hoàn thành Trị số chỉ tiêu của kỳ phân tích
kế hoạch và chỉ tiêu =
nào đó liên hệ với... Trị số chỉ tiêu Trị số chỉ tiêu cần liên hệ kỳ phân
tích
kỳ kế hoạch Trị số chỉ tiêu cần liên hệ kỳ kế

hoạch
- Dạng kết cấu:
Phản ánh tỷ trọng của từng bộ phận chiếm trong tổng thể.
Tỷ trọng của từng Trị số của bộ phận
bộ phận chiếm = x 100%
trong tổng thể Trị số của tổng thể
+ Phương pháp thay thế liên hoàn.
Khi nghiên cứu, sử dụng phương pháp này ta phải xắp xếp các nhân tố
ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích theo thứ tự từ nhân tố số lượng đến nhân tố
chất lượng. Trong đó nhân tố số lượng thường dùng để chit quy mô của chỉ
tiêu như số lượng sản phẩm sản xuất, số lượng công nhân, số lượng máy móc
thiết bị... còn nhân tố chất lượng thường dùng để phản ánh hiệu quả của chỉ
tiêu như giá thành, lợi nhuận, tiền lương, năng suất lao động bình quân... cụ
thể nếu nghiên cứu nhân tố số lượng, ta sẽ giả định nhân tố chất lượng không

×