Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự của tòa dân sự tòa án nhân dân tối cao ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.18 KB, 140 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tnh cấp thiết của đề tài
Giám đốc xét xử là việc toà án cấp trên theo quy định của pháp luật,
thực hiện việc kiểm tra hoạt động xét xử của toà án cấp dưới, qua đó có thể
phát hiện ra những thiếu sót, sai lầm của bản án, quyết định của toà án cấp
dưới đã có hiệu lực pháp luật và cách thức để sửa chữa, khắc phục những
thiếu sót, sai lầm đó. Giám đốc xét xử bao gồm nhiều hoạt động cụ thể như
kiểm tra, phát hiện những thiếu sót, sai lầm trong bản án, quyết định của toà
án đã có hiệu lực pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, công dân đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật; tổng kết kinh nghiệm xét xử; hướng dẫn toà án các cấp áp dụng
thống nhất pháp luật; kháng nghị các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, nhưng bị phát hiện có sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm
thay đổi cơ bản nội dung vụ án, để yêu cầu toà án có thẩm quyền xem xét lại
vụ án theo thủ tục tố tụng đặc biệt: xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ
án mà bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị người
có thẩm quyền kháng nghị.
Trong hệ thống Toà án của nước ta, Toà án nhân dân tối cao
(TANDTC) là cơ quan xét xử cao nhất, có nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của
các Toà án khác theo quy định của pháp luật [ ]. Toà dân sự TANDTC là một
toà chuyên trách thuộc TANDTC, có nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm
những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
theo quy định của pháp luật tố tụng [ ].
Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động tố tụng dân sự, kinh tế, lao
động, ngày 15/6/2004, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XI đã thông qua Bộ
luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Đây là BLTTDS đầu tiên của nước ta [ ] và
1
việc ra đời bộ luật này đã chấm dứt hiệu lực của một loạt các văn bản quy
phạm pháp luật tố tụng đơn lẻ trước đó là: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự năm 1989 (PLTTGQCVADS) [ ], Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế năm 1994 (PLTTGQCVAKT) [ ], Pháp lệnh Thủ tục giải


quyết các tranh chấp lao động năm 1996 (PLTTGQCTCLĐ) [ ]
Từ khi có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2005) đến nay, những quy định
của BLTTDS đã trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu, giúp TAND các cấp giải
quyết đúng đắn các vụ việc dân sự; trong đó bao gồm cả việc xét lại bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm. Trên thực tế, đa phần các vụ án dân sự được giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm ở TAND cấp huyện, phúc thẩm ở TAND cấp tỉnh;
bên cạnh đó, bản án, quyết định dân sự của TAND cấp tỉnh đã có hiệu lực
pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải
quyết vụ án thì thẩm quyền giám đốc thẩm thuộc về Toà dân sự TANDTC [ ],
nên Toà dân sự TANDTC là đầu mối chủ yếu thực hiện hoạt động giám đốc
thẩm vụ án dân sự. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dông các quy định của
BLTTDS trong hoạt động giám đốc xét xử tại Toà dân sự TANDTC, trong đó
chủ yếu là những quy định liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự,
đã bộc lộ những bất cập: Có những vấn đề phát sinh trong thực tiễn, cần phải
có căn cứ pháp lý để vận dụng giải quyết, nhưng chưa được quy định (như thủ
tục, thẩm quyền, trình tù tiÕp nhận, giải quyết khiếu nại, kiến nghị giám đốc
thẩm đối với bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật); một sè quy
định hiện hành không phù hợp hoặc còn quá chung chung, nhưng chưa được
cấp có thẩm quyền hướng dẫn (như quy định quá hẹp về thẩm quyền kháng
nghị giám đốc thẩm nên việc kháng nghị nhiều khi không kịp thời, thời hạn
kháng nghị không hợp lý nên trong nhiều trường hợp khi phát hiện những bản
án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng có sai lầm nghiêm trọng, thì đã hết thời
hạn kháng nghị, quy định quá rộng về quyền phát hiện vi phạm pháp luật
2
trong quá trình giải quyết vụ án là mâu thuẫn với quyền tự định đoạt của
đương sự, không có quy định về thời hạn gửi đơn khiếu nại, kiến nghị bản án
đã có hiệu lực pháp luật, nên có nhiều trường hợp đã gần hết thời hạn kháng
nghị hoặc đã hết thời hạn kháng nghị, thì mới phát hiện ra bản án có sai lầm
nghiêm trọng nên không còn đủ thời gian để sửa chữa, khắc phục những sai

lầm đó ); phạm vi giám đốc thẩm chưa rõ ràng; không có quy định về việc
thu thập chứng cứ tại giai đoạn giám đốc thẩm Những nguyên nhân nêu trên
trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám đốc thẩm vụ án dân sự của
Toà dân sự TANDTC, ảnh hưởng không nhỏ tới việc bảo vệ quyền và lợi Ých
hợp pháp của các đương sự, làm giảm sút uy tín của ngành Toà án.
Bên cạnh đó, đội ngũ thẩm phán, thẩm tra viên, chuyên viên của Toà
dân sù TANDTC hiện nay còn thiếu về số lượng và chưa thật sự đáp ứng yêu
cầu về chất lượng, nên đã tạo ra tình trạng giải quyết không kịp thời, thiếu
đúng đắn, thiếu nhất quán trong việc giám đốc thẩm các vụ án dân sự; cơ sở
vật chất, điều kiện làm việc của Toà dân sự TANDTC chưa đáp ứng yêu cầu
công việc; chế độ tiền lương và thu nhập khác chưa đảm bảo giúp cho các cán
bộ, công chức Toà dân sự TANDTC yên tâm công tác.
Tình trạng đơn khiếu nại, kiến nghị giám đốc thẩm tăng nhanh qua từng
năm, số đơn tồn đọng từ năm trước chuyển qua năm sau không có dấu hiệu
giảm; số lượng các vụ án dân sự mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật bị Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị và yêu cầu
Toà dân sự TANDTC xét xử giám đốc thẩm cũng tăng nhanh theo thời gian,
vượt quá khả năng giải quyết của Toà dân sự TANDTC; chất lượng giải quyết
khiếu nại, kiến nghị giám đốc thẩm và chất lượng xét xử giám đốc thẩm của
Toà dân sự TANDTC còn chưa cao. Thực tế nêu trên đã được lãnh đạo ngành
Toà án nghiêm túc thừa nhận là: “Tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm còn thấp, cá biệt có trường hợp đã trả lời không có căn cứ kháng
3
nghị nhưng sau đó Chánh án lại kháng nghị vì phát hiện có sai lầm nghiêm
trọng hoặc có những trường hợp khi phát hiện có sai lầm nghiêm trọng
nhưng đã hết thời hạn kháng nghị” [ ].
Những tồn tại trên đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải hoàn thiện các quy
định về thủ tục giám đốc thẩm, nâng cao hơn nữa chất lượng giám đốc thẩm
các vụ án dân sự, bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của các chủ thể khi tham
gia giao lưu dân sự. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của

Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ: “Từng
bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt
chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng
nghị đối với bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực; khắc phục
tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ” [ ].
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, thời gian qua tuy đã có một số công
trình nghiên cứu về chế định giám đốc thẩm vụ án dân sự, nhưng các công
trình này mới chỉ tập trung nghiên cứu về những vấn đề riêng biệt; chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về thủ tục giám đốc thẩm vụ án
dân sự, đặc biệt là áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
tại Toà dân sự TANDTC.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc
thẩm vụ án dân sự của Toà dân sự TANDTC ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn
thạc sỹ luật học là cấp thiết cả về lý luận cũng như thực tiễn ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới đến trước khi Quốc hội
ban hành BLTTDS, thì thủ tục giải quyết các vụ án dân sự nói chung, thủ tục
xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị
nói riêng được quy định trong PLTTGQCVADS. Vì vậy, những công trình
4
nghiên cứu việc áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
trong quãng thời gian này chỉ nghiên cứu việc áp dụng các quy định của
PLTTGQCVADS trong hoạt động giám đốc thẩm, như: “Thủ tục giải quyết
giám đốc thẩm các vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”,
Luận văn Thạc sĩ, Ngô Anh Dũng, Đại học Luật Hà Nội, năm 1996; “Thủ tục
giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam”, ĐÒ tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ, Viện nghiên cứu khoa học kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao chủ nhiệm, năm 2003
Từ khi BLTTDS được ban hành cho đến nay, cũng đã có một số công
trình nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án

dân sự, như: Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm và những vấn đề đặt ra trong
việc thi hành, của thạc sĩ Trần Anh Tuấn, Tạp chí Luật học, số đặc san về Bộ
luật Tố tụng dân sự, năm 2005; Tìm hiÓu các quy định của pháp luật về thủ
tục giám đốc thẩm vụ án dân sự, của thạc sĩ Dương Thị Thanh Mai, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, năm 2005 Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ tập
trung nghiên cứu về những vấn đề riêng biệt; chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự, đặc biệt là áp
dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự tại Toà dân sự
TANDTC.
Xuất phát từ những lý do trên đây, cùng với một sè kinh nghiệm thực
tiễn có được trong thời gian công tác tại Toà dân sự TANDTC, tác giả mạnh
dạn lựa chọn đề tài “Áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân
sự của Toà dân sự TANDTC ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ luật
học, nhằm nêu ra những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giám đốc
thẩm các vụ án dân sự của Toà dân sự TANDTC; qua đó đề xuất tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động áp dụng pháp luật về thủ tục
5
giám đốc thẩm vụ án dân sự nói chung, cũng như tại Toà dân sự TANDTC
nói riêng.
3. Mục đch và nhiệm vụ của nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn: Trên cơ sở làm sáng tỏ những vẫn
đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân
sự của Toà dân sự TANDTC trong giai đoạn hiện nay, tác giả sẽ đề xuất một
số giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật về thủ tục
giám đốc thẩm vụ án dân sự tại Toà dân sự TANDTC, bao gồm các nhóm giải
pháp về hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án
dân sự, trong đó có các quy định liên quan đến hoạt động giám đốc xét xử vụ
án dân sự tại Toà dân sự TANDTC; hoàn thiện về tổ chức và điều kiện làm
việc tại Toà dân sự TANDTC; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị cho cán bộ, công chức Toà dân

sự TANDTC, cải thiện môi trường làm việc cho Toà dân sự TANDTC.
Nhiệm vụ của luận văn: Từ mục đích nêu trên, luận văn đặt ra các
nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật thủ tục
giám đốc thẩm vụ án dân sự như khái niệm, đặc điểm về áp dụng pháp luật
thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự, quy trình áp dụng pháp luật thủ tục giám
đốc thẩm vụ án dân sự, tÝnh khách quan và các căn cứ áp dụng thủ tục giám
đốc thẩm trong tố tụng dân sự
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc
thẩm tại Toà dân sự TANDTC.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc
thẩm tại Toà dân sự TANDTC.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc
thẩm vụ án dân sự tại Toà dân sự TANDTC.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống những quy định pháp
luật về thủ tục giám đốc thẩm tại Toà dân sự TANDTC cũng như việc áp
dụng những quy định pháp luật đó trong thực tiễn hoạt động giám đốc thẩm
của Toà dân sự TANDTC.
Phạm vi nghiên cứu trong đề tài này là việc áp dụng pháp luật về thủ
tục giám đốc thẩm tại Toà dân sự TANDTC đối với các bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực của TAND cấp tỉnh bị kháng nghị theo quy định của
BLTTDS hiện hành của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm
2005 đến hết năm 2008.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta vÒ
Nhà nước và pháp luật, về công tác xét xử nói chung, xét xử các vụ án dân sự
nói riêng.

Luận văn cũng được tiến hành nghiên cứu bằng nhiều phương pháp
khác, như: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, khảo sát,
đánh giá thực trạng giám đốc thẩm các vụ án dân sự; phỏng vấn, trao đổi với
các thẩm phán và thẩm tra viên; khảo cứu các tài liệu có liên quan đến công tác
kháng nghị, xét xử giám đốc thẩm các vụ án dân sự.
Tác giả cũng lựa chọn một số vụ án đã được Toà dân sự TANDTC
xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm để bình luận minh hoạ; đồng thời có tham
khảo số liệu thống kê của ngành TAND, để việc nghiên cứu được toàn diện
và sâu sắc hơn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Qua kết quả nghiên cứu đề tài, tác giả đóng góp những điểm mới sau đây:
7
- Luận văn chỉ ra những quy định hiện hành của pháp luật về thủ tục
giám đốc thẩm vụ án dân sự không phù hợp với thực tiễn, cần sửa đổi; đồng
thời đề xuất hướng sửa đổi.
- Luận văn nêu rõ những quy định còn có những cách hiểu khác nhau,
nên cần có hướng dẫn của cấp có thẩm quyền để áp dụng thống nhất.
- Luận văn cũng chỉ ra những quy định còn thiếu, cần phải bổ sung để có
căn cứ áp dụng trên thực tiễn và đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc áp dụng pháp luật về thủ tục giám
đốc thẩm vụ án dân sự
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về thủ tục
giám đốc thẩm vụ án dân sự của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao
Chương 3: Giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc
thẩm vụ án dân sự của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao
8
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án
dân sự
1.1.1.1. Khái niệm vụ án dân sự, thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
a. Khái niệm vụ án dân sự
Khi tham gia vào mét quan hệ xã hội bất kỳ, các chủ thể đều xuất phát
từ động cơ nhất định để hướng đến mục đích cụ thể, đó là khách thể của quan
hệ xã hội Êy. Theo nghĩa này, khách thể của quan hệ pháp luật dân sự (nhóm
quan hệ xã hội được luật dân sự điều chỉnh) là những giá trị lợi Ých vật chất
hoặc lợi Ých tinh thần mà các chủ thể hướng tới khi tham gia vào quan hệ
pháp luật dân sự nhất định; tuy nhiên, chỉ những quyền và lợi Ých của các
chủ thể được Nhà nước công nhận và bảo hộ thì mới là quyền và lợi Ých hợp
pháp của chủ thể. Vì vậy, khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự nhất
định, chủ thể được hưởng các quyền, đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ
nhất định theo đúng quy định của pháp luật. Việc chủ thể không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của mình tất yếu sẽ ảnh hưởng
đến việc hưởng quyền và lợi Ých hợp pháp của chủ thể khác. Để duy trì trật
tự, bảo đảm công bằng xã hội và thúc đẩy giao lưu dân sự, Nhà nước thiết lập
cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi Ých hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ
dân sự. Theo đó, các chủ thể có quyền, lợi Ých hợp pháp bị chủ thể khác xâm
phạm, cản trở, hạn chế hoặc có nguy cơ bị xâm phạm, cản trở, hạn chế, có
9
quyền sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi Ých
hợp pháp đó, như yêu cầu người có hành vi trái pháp luật phải chấm dứt ngay
hành vi đó, yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thực
hiện các hoạt động cần thiết nhằm bảo vệ quyền, lợi Ých hợp pháp của họ.
Toà án xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao

động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của
pháp luật, để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Thông qua hoạt động của mình, Toà án giáo dục công dân trung thành với Tổ
quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc
sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm
pháp luật khác [ , Điều 1]. Do đó, khi chủ thể yêu cầu Toà án bảo vệ quyền
và lợi Ých hợp pháp của họ, trong trường hợp họ cho rằng quyền, lợi Ých hợp
pháp của mình (hoặc của người khác) bị chủ thể khác xâm phạm, cản trở, hạn
chế hoặc có nguy cơ bị xâm phạm, cản trở, hạn chế, thì Toà án phải căn cứ
vào các quy định của pháp luật để xem xét, thô lý giải quyết yêu cầu đó. Tuỳ
theo nhóm quan hệ pháp luật bị chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm mà vụ án
do Toà án thụ lý giải quyết là vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và
gia đình, vụ án lao động, vụ án hành chính hay vụ án kinh tế.
Thuật ngữ “vụ án dân sự” là một thuật ngữ pháp lý chuyên ngành.
Trong các cuốn Từ điển phổ thông đang lưu hành, như Từ điển Tiếng Việt
của Viện ngôn ngữ học [ ], Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam [ ], Đại từ
điển tiếng Việt [ ], đều không đề cập thuật ngữ “vụ án dân sự”; ngay cả cuốn
Từ điển chuyên ngành luật học duy nhất của nước ta cho đến thời điểm này là
cuốn Từ điển Luật học, do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản
Tư pháp phối hợp phát hành năm 2006 [ ] cũng không đề cập thuật ngữ này.
10
Hiện tại, duy nhất chỉ có cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (thực ra
đây chỉ có thể coi là sổ tay tham khảo dành cho việc học tập và giảng dạy
Luật học), do Trường đại học luật Hà Nội biên soạn và Nhà xuất bản Công an
nhân dân phát hành năm 1999 [ ] là có đưa ra giải thích về thuật ngữ “vụ án
dân sự”, theo đó: “Vụ án dân sự là việc phát sinh tại Toà án, thuộc thẩm
quyền xét xử về dân sự của Toà án, do cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ
hợp tác, tổ chức xã hội khởi kiện, Viện kiểm sát khởi tố yêu cầu Toà án bảo

vệ quyền, lợi Ých hợp pháp của mình, của Nhà nước, của tập thể hay của
người khác. Các vụ án dân sự có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ dân sự giữa
các đương sự gọi là việc kiện dân sự. Các vụ án dân sự không có tranh chấp
về quyền, nghĩa vụ giữa các đương sự, trong đó người khởi kiện chỉ yêu cầu
Toà án xác định sự kiện pháp lý thông qua đó làm phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt quan hệ giữa các đương sự được gọi là việc dân sự. Các vụ án dân
sự chủ yếu phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hôn
nhân và gia đình. Một số vụ án dân sự có thể phát sinh từ quan hệ pháp luật
hành chính hoặc quan hệ pháp luật khác”. Như vậy, khái niệm “vụ án dân
sự” dùng để chỉ những tranh chấp, những yêu cầu phát sinh từ quan hệ dân sự
(theo nghĩa hẹp) và những tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ hôn nhân
và gia đình. Cho nên, bên cạnh khái niệm “vụ án dân sự” còn có các khái
niệm “vụ án kinh tế”, “vụ án lao động”. Tuy nhiên, so với quy định của pháp
luật hiện hành thì khái niệm “vụ án dân sự” như đã nêu trên đã không còn phù
hợp nữa.
BLTTDS được ban hành đã thống nhất ba loại thủ tục tố tụng về dân
sự, kinh tế và lao động thành một thủ tục tố tụng dân sự chung và các loại vụ
việc được giải quyết theo thủ tục này được gọi là vụ việc dân sự. Tuy không
đưa ra khái niệm “vụ việc dân sự”, nhưng theo Điều 1 của BLTTDS thì “vụ
việc dân sự” bao gồm “vụ án dân sự” và “việc dân sự”; trong đó:
11
- “Vụ án dân sự” là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các
bên đương sự, phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự (bao gồm những tranh
chấp giữa cá nhân và cá nhân về quốc tịch Việt Nam, tranh chấp về quyền sở
hữu tài sản, tranh chấp về hợp đồng dân sự, tranh chấp về quyền sở hữu trí
tuệ, chuyển giao công nghệ nhưng không có mục đích lợi nhuận, tranh chấp
về thừa kế tài sản, tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tranh
chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp
luật về đất đai, tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy
định của pháp luật); quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình (bao gồm ly hôn,

tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tranh chấp về thay đổi người trực
tiếp nuôi con sau khi ly hôn, tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác
định con cho cha mẹ, tranh chấp về cấp dưỡng); quan hệ pháp luật kinh
doanh, thương mại (bao gồm tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh
thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có
mục đích lợi nhuận về mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại
diện, đại lý, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn kỹ thuật, vận
chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, dường bộ, đường thuỷ nội địa,
vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, mua
bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy từ có giá khác, đầu tư tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, thăm dò khai thác; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển
giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức của công ty) và quan hệ pháp
luật lao động (bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với
người sử dụng lao động mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên
12
lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp huyện hoà giải không
thành hoặc không giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định, trừ các tranh
chấp không phải hoà giải tại cơ sở, gồm: về xử lý kỷ luật lao động theo hình
thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động,
về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động, về trợ
cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, giữa người giúp việc gia đình với người
sử dụng lao động, về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động
và về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao
động; tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao
động đã được Hội đồng trong tài lao động cấp tỉnh giải quyết mà tập thể người
lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của hội

đồng trọng tài lao động, gồm: về quyền và lợi Ých liên quan đến việc làm,
tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về việc thực hiện thoả
ước lao động tập thể, về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn)
được Toà án thụ lý, giải quyết; và
- “Việc dân sự” là những yêu cầu vÒ dân sù (bao gồm yêu cầu tuyên
bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự
hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, yêu cầu thông báo
tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó, yêu
cầu tuyên bố một người mất tích hoặc huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích,
yêu cầu tuyên bố một người là đã chết hoặc huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết, yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án hình sự, hành chính
của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự,
quyết định về tài sản trong bản án hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài
mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam); về hôn nhân và gia đình (bao
13
gồm yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, yêu cầu công nhận sự thoả thuận về
thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, yêu cầu hạn chế quyền của
cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn,
yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài
hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án
nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam; về kinh doanh,
thương mại (bao gồm yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt
Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài
thương mại, yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định về kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công
nhận bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài

mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam, yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước
ngoài) và về lao động (bao gồm yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định về lao động của Toà án nước ngoài hoặc không công
nhận bản án, quyết định về lao động của Toà án nước ngoài mà không có yêu
cầu thi hành tại Việt Nam, yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định về lao động của Trọng tài nước ngoài) được Toà án thụ lý, giải
quyết.
Như vậy, so với quan niệm trước đây là tất cả những vụ việc được Toà
án thụ lý giải quyết đều là “vụ án”, thì quan niệm hiện tại về “vụ án dân sự”
đã có sự thay đổi đáng kể :
Thứ nhất, phải là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
đương sự mới là “vụ án dân sự”; còn những yêu cầu của đương sự chỉ nhằm
14
xác nhận sự kiện pháp lý nhất định mà không có tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ thì không phải vụ án dân sự mà là “việc dân sự”.
Thứ hai, “vụ án dân sự” phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự theo
nghĩa rộng (bao gồm quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại và lao động).
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm vụ án dân sự như sau: Vụ án
dân sự là tranh chấp giữa các đương sự về quyền và nghĩa vụ, phát sinh
trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại và lao động, do người có quyền khởi kiện và được Toà án thụ lý, giải quyết.
Tuy nhiên, theo mô hình tổ chức của ngành TAND hiện nay, thì ở
TAND cấp tỉnh và ở TANDTC vẫn tồn tại các toà chuyên trách giải quyết các
loại vụ việc về dân sự và hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động
theo nghĩa hẹp, tương ứng là Toà dân sự, Toà kinh tế và Toà lao động. Vì
vậy, nhóm “vụ án dân sự” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà dân sự
TANDTC chỉ bao gồm những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh
từ quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình,

tức là chỉ gồm những tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về hợp đồng dân sự
về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ không có mục đích lợi
nhuận, về thừa kế tài sản, về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, về quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất, về quốc tịch giữa cá nhân với cá nhân, về
vấn đề liên quan đến hoạt động báo chí, về ly hôn, về chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, về thay đổi người nuôi con sau ly hôn, về
xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ và tranh chấp về cấp
dưỡng.
b. Khái niệm thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
15
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản
Đà Nẵng, năm 1996 [ ] thì “giám đốc thẩm” được giải thích là: Toà án có
thẩm quyền xét lại các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
toà án cấp dưới khi bị kháng nghị trên cơ sở phát hiện có sai lầm trong quá
trình điều tra, xét xử vụ án. Còn trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ luật
học của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công án nhân dân, năm
1999 [ ] thì “giám đốc thẩm” được hiểu là: XÐt lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
trong việc xử lí vụ án. Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2005 [ ] còng đưa
ra quan niệm: Giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm
pháp luật trong việc giải quyết vụ án.
Thuật ngữ “giám đốc thẩm” xuất hiện lần đầu tiên tại Luật Tổ chức
TAND năm 1981 [ ]; tuy nhiên, các quy định về thủ tục xét lại bản án của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật lại được quy định sớm hơn. Tại Thông tư số
321/VHH-CT ngày 12 tháng 02 năm 1958 của Bộ Tư pháp quy định về việc
yêu cầu các Toà án phải nghiên cứu giải quyết các đơn thư khiếu nại về các
vụ án đã xử chung thẩm, đã nêu: “Đối với những việc đã xử rồi… nếu thấy sai
hoặc đúng không rõ ràng thì tuỳ từng trường hợp có kế hoạch giải quyết

thích đáng (báo cáo cấp trên đề nghị kháng cáo hay xin xử lại hoặc đặt vấn
đề điều tra, xác minh lại )” [ ]. Phải đặt ra yêu cầu trên là do thực tiễn giai
đoạn này có nhiều đơn khiếu nại oan sai về các bản án chung thẩm, chứ
không phải xuất phát từ quá trình nghiên cứu lý luận và tham khảo kinh
nghiệm lập pháp của nước ngoài. Chính vì vậy, thời kỳ này chưa có một thủ
tục cụ thể để giải quyết vấn đề xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật. Sau đó, tại Luật tổ chức TAND năm 1960 [ ] và Pháp
16
lệnh quy định cụ thể về tổ chức của TANDTC và tổ chức của các TAND địa
phương năm 1961 [ ] thì việc xử lại những vụ án do TAND cấp dưới đã xử
mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng Chánh án
TANDTC hoặc Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị đã được quy định cụ thể
hơn. Theo các quy định này, việc xử lại thuộc thẩm quyền của TANDTC
nhưng nếu thấy cần thiết, TANDTC có thể giao cho TAND cấp tỉnh thực hiện
thẩm quyền xử lại đối với những vụ án mà toà án cấp này hoặc cấp dưới đã
xử mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, trong giai đoạn
này, giám đốc thẩm được hiểu là việc Toà án có thẩm quyền (có thể là
TANDTC hoặc chính Toà án đã ban hành bản án, quyết định bị kháng nghị)
xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định bị kháng nghị. Quy định này khác với
thủ tục giám đốc thẩm hiện nay là sau khi có kháng nghị giám đốc thẩm, Toà
án giám đốc thẩm sẽ xem xét vụ án trên cơ sở bản án, quyết định đã có hiệu
lực bị kháng nghị và nếu có căn cứ thì huỷ bản án và giao hồ sơ vụ án cho
Toà án có thẩm quyền xét xử lại. Thủ tục để xem xét kháng nghị mới là thủ
tục giám đốc thẩm chứ không phải là thủ tục xét lại vụ án như quy định của
giai đoạn này.
Thuật ngữ “giám đốc thẩm” lần đầu tiên được quy định trong Luật tổ
chức TAND năm 1981 và sau đó được quy định trong PLTTGQCVADS năm
1989. Theo đó, nếu phát hiện thấy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án có sai lầm, thì những người có thẩm quyền (Viện trưởng, Phó
Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án, Phó Chánh án TANDTC, Viện trưởng

VKSND cấp tỉnh và Chánh án TAND cấp tỉnh) sẽ kháng nghị bản án, quyết
định đó và đề nghị Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm xem xét lại vụ án.
Trên cơ sở kháng nghị, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm sẽ xem xét lại
vụ án và ra mét trong những quyết định:
17
- Không chấp nhận kháng nghị và giữa nguyên bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật; hoặc
- Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; hoặc
- Huỷ bản án, quyết định bị kháng nghị và giao cho Toà án cấp dưới
xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm.
Như vậy, trong giai đoạn này, giám đốc thẩm được hiểu là việc Toà án
có thẩm quyền giám đốc thẩm xét xử lại vụ án đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị. Biểu hiện rõ nhất của hoạt động “xét xử lại vụ án” là ở quy định
Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm có quyền sửa trực tiếp bản án, quyết
định bị kháng nghị.
Khi BLTTDS được ban hành, chúng ta thấy rõ sù thay đổi trong nhận
thức về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự. Theo các quy định của BLTTDS,
Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm không còn quyền sửa bản án, quyết
định dân sù đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị nữa, mà chỉ có mét
trong các quyền là:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định bị
kháng nghị; hoặc
- Huỷ bản án, quyết định bị kháng nghị và giao hồ sơ vụ án cho Toà
án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm lại; hoặc
- Huỷ bản án, quyết định bị kháng nghị và đình chỉ giải quyết vụ án.
Qua đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy khái niệm giám đốc thẩm hiện nay
không còn là việc “xét xử lại” vụ án như trước đây nữa, mà chỉ là việc “xét
lại” bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Đây được xem là sù thay đổi căn
bản quan niệm về bản chất của giám đốc thẩm, chứ không đơn thuần chỉ là
thay đổi từ ngữ trong quá trình lập pháp.

Như trên đã phân tích, giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị người có thẩm quyền kháng
18
nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ
án. Vì vậy có thể hiểu là để thực hiện được hoạt động giám đốc thẩm, tất yếu
phải trải qua một chuỗi các công đoạn với những việc cụ thể, bao gồm từ việc
phát hiện ra sù vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án –> người có
thẩm quyền thực hiện quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật –> Toà án cấp giám đốc thẩm mở phiên toà giám đốc thẩm –> Hội
đồng giám đốc thẩm ban hành quyết định giám đốc thẩm.
Như vậy, cũng như thủ tục sơ thẩm hay thủ tục phúc thẩm, thủ tục
giám đốc thẩm là mét giai đoạn của tố tụng dân sự, bao gồm toàn bộ quy
trình từ khi phát hiện sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, kháng nghị, phiên toà giám đốc thẩm đến việc ra phán quyết của Toà
án cấp giám đốc thẩm, được tuân theo một trình tự chặt chẽ.
Có thể chia thủ tục giám đốc thẩm làm hai thủ tục cơ bản là thủ tục
kháng nghị giám đốc thẩm và thủ tục phiên toà giám đốc thẩm. Trong đó:
- Thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm bao gồm những quy định về việc
phát hiện sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án trên cơ sở
khiếu nại, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức; về căn cứ kháng
nghị giám đốc thẩm; về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm;
- Thủ tục phiên toà giám đốc thẩm bao gồm những quy định về thẩm
quyền giám đốc thẩm, về thủ tục phiên toà giám đốc thẩm, về phạm vi
giám đốc thẩm và về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm.
1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
Áp dụng pháp luật, hiểu theo cách khái quát nhất là một hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc cá nhân người có chức vụ, quyền hạn, tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy
19

định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc
chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Áp dụng pháp luật được xem là hoạt
động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, nó vừa là một hình thức
thực hiện pháp luật, vừa là một giai đoạn mà các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành tổ chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các quy định
pháp luật.
Nhiều khi các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả năng tự
thực hiện các quy phạm pháp luật, nên ngoài các hình thực thực hiện pháp luật
như tuân theo, thi hành, sử dụng pháp luật, thì cần thiết phải có hoạt động áp
dụng pháp luật. Vì vậy, áp dụng pháp luật được tiến hành khi:
- Thứ nhất: Khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý hoặc áp dụng biện pháp
cưỡng chế Nhà nước đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ: Khi
một người có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ thương tật
của người bị hại được xác định là từ 11% trở lên, thì cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Toà án sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật để thực hiện việc khởi tố,
điều tra, truy tố và xét xử để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó; hoặc
khi một người thực hiện việc xây dựng công trình trái phép, đã bị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ra quyết định xử lý hành chính buộc dừng việc thi công và
tháo dỡ công trình vi phạm, nhưng họ không thực hiện thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ ra quyết định cưỡng chế và thực hiện việc tháo dỡ công trình xây
dựng có vi phạm.
- Thứ hai: Khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ:
Khi một người nghiện ma tuý hoặc chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản
của gia đình thì theo yêu cầu của của người có quyền, lợi Ých liên quan, cơ
quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực
20
hành vi dân sự của người đó, đồng thời quyết định người đại diện theo pháp luật
và phạm vi đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nêu trên.
- Thứ ba: Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các

chủ thể tham gia quan hệ pháp luật mà các bên không thể tự giải quyết được. Ví
dụ: Khi nhiều người tranh chấp với nhau về quyền thừa kế tài sản, không tự thoả
thuận được và có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết. Toà án sẽ căn cứ vào
các quy định của pháp luật để quyết định việc thụ lý vụ án, sau đó tiến hành các
hoạt động tố tụng, cuối cùng là xét xử vụ án và ra phán quyết để giải quyết tranh
chấp về quyền thừa kế tài sản giữa các đương sự.
- Thứ tư: Khi Nhà nước thấy cần thiết kiểm tra, giám sát hoạt động của
các chủ thể. Ví dụ: Sau khi Toà án giải quyết một vụ án dân sự nhất định và bản
án của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên đương sự trong vụ án có đơn
khiếu nại cho rằng việc giải quyết vụ án có dấu hiệu không vô tư khách quan và
vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến quyền và lợi Ých hợp pháp của họ. Nhận
được đơn khiếu nại của đương sự, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm sẽ thực
hiện các hoạt động kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án đã có
hiệu lực pháp luật, trên cơ sở xem xét, đánh giá lại toàn bộ các chứng cứ, tài liệu
có trong hồ sơ vụ án. Nếu xét thấy việc khiếu nại của đương sự là không có căn
cứ thì Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm sẽ trả lời đơn khiếu nại cho đương
sự; còn nếu thấy việc khiếu nại là có cơ sở thì Toà án có thẩm quyền giám đốc
thẩm sẽ đề xuất người có thẩm quyền kháng nghị bản án đã có hiệu lực pháp luật
theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi có kháng nghị giám đốc thẩm của người có
thẩm quyền, Toà án cấp giám đốc thẩm sẽ thực hiện việc xét xử giám đốc thẩm
và sẽ ra phán quyết để quyết định về tình trạng pháp lý của bản án bị kháng nghị.
Ở nước ta và nhiều quốc gia khác, thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một
nguyên tắc cơ bản trong quá trình tiến hành tố tụng của Toà án nói chung, trong
21
tiến hành tố tụng vụ án dân sự nói riêng. Theo nguyên tắc này thì trong một thời
hạn nhất định bản án, quyết định dân sự sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị
để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định dân sự phúc thẩm có
hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, vì hoạt động xét xử là một hoạt động áp dụng
pháp luật rất phức tạp, phụ thuộc vào sù đầy đủ, hoàn thiện, phù hợp xã hội của
hệ thống quy phạm pháp luật, vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức thực

hiện nhiệm vụ, tư cách đạo đức của người Thẩm phán, vào nhiều yếu tố điều
kiện, hoàn cảnh chủ quan, khách quan khác, nên không thể không xảy ra sai lầm,
thiếu sót trong quá trình giải quyết vụ án, kể cả khi xét xử phúc thẩm. Do đó,
cần thiết phải có một thủ tục tố tụng đặc biệt cho phép cơ quan nhà nước, cá
nhân người có thẩm quyền thực hiện những công việc nhất định, theo một trật
tự cho phép, để có thể khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự.
Thủ tục giám đốc thẩm là một giai đoạn đặc biệt để sửa chữa những
sai lầm đối với các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Do vậy, áp dụng
pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự là một giai đoạn làm phá vỡ
tính ổn định của bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Điều đó
yêu cầu khi thực hiện thủ tục giám đốc thẩm phải tuân theo một trình tự chặt
chẽ do pháp luật quy định.
Căn cứ vào tính chất, đặc điểm nguyên nhân của sai lầm trong các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà các nhà làm luật chia thủ tục xét
lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật thành “giám đốc thẩm” và
“tái thẩm”. Nếu trong quá trình tiến hành tố tụng, do yếu tố chủ quan dẫn đến
có sai lầm (như kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với các tình
tiết khách quan của vụ án, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp
luật, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng) thì bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Còn nếu do
22
xuất hiện những tình tiết mới là những yếu tố khách quan làm thay đổi cơ bản
nội dung bản án, quyết định (như phát hiện được tình tiết mới mà đương sự đã
không thể biết trong quá trình giải quyết vụ án, có sự giả mạo chứng cứ), thì
bản án, quyết định có thể bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Vì vậy, tuy
cùng xét lại những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng hai thủ tục
này lại là hai thủ tục độc lập trong tố tụng dân sự.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật về
thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự như sau: Áp dụng pháp luật về thủ tục

giám đốc thẩm vụ án dân sự là việc Toà án, Viện kiểm sát có thẩm quyền
thực hiện việc kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án, quyết
định dân sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, theo một trình tự và
trong một khoảng thời gian do pháp luật tố tụng dân sự quy định; trong
trường hợp phát hiện ra những sai lầm, thiếu sót trong bản án, quyết định
dân sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì thực hiện việc khắc phục,
sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân
sự
Từ khái niệm áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
ở trên, có thể rót ra những đặc điểm áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc
thẩm vụ án dân sự như sau:
- Áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự là hoạt
động chỉ do những chủ thể mang quyền lực Nhà nước tiến hành:
Sau khi bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật, đương sự trong
vụ án hoặc cá nhân, tổ chức khác có quyền khiếu nại, kiến nghị cho rằng việc
xét xử vụ án có sai lầm nghiêm trọng hoặc vi phạm pháp luật. Cơ quan có
thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm đối
23
với bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật là TANDTC và
VKSNDTC (đối với bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của
TAND các cấp) hoặc TAND cấp tỉnh và VKSND cấp tỉnh (đối với bản án,
quyết định của TAND cấp huyện đã có hiệu lực pháp luật). Trong trường hợp
sau khi kiểm tra phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án, TAND, VKSND phải báo cáo với người có thẩm quyền (là
Chánh án Toà án hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát) xem xét kháng nghị bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật đó theo thủ tục giám đốc thẩm.
Sau khi người có thẩm quyền ra quyết định kháng nghị, thì Hội đồng giám
đốc thẩm của Toà án cấp có thẩm quyền thực hiện việc xét lại bản án, quyết
định dân sự bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và Hội đồng giám đốc

thẩm sẽ ra phán quyết để quyết định về tình trạng pháp lý của bản, quyết định
dân sự bị kháng nghị.
- Áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự phải tuân
theo thủ tục chặt chẽ và dưới những hình thức nhất định:
Tính chất của giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát
hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Qua tính
chất của giám đốc thẩm như đã nêu trên, chúng ta có thể thấy hoạt động giám
đốc thẩm có xu hướng phá vỡ tính ổn định của bản án, quyết định dân sự đã
có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự phải được
quy định thật chặt chẽ, cụ thể. Thật vậy, để thực hiện được hoạt động giám
đốc thẩm vụ án dân sự một cách có hiệu quả, nhất thiết phải tuân theo các thủ
tục về quy trình giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với bản án, quyết định dân
sự đã có hiệu lực pháp luật để phát hiện ra dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án (để giải đáp được các câu hỏi: bản
án, quyết định dân sự bị khiếu nại, kiến nghị có sai lầm hay không?, nếu có
24
sai lầm thì thuộc loại sai lầm nào, có nghiêm trọng hay không?); về thời hạn,
căn cứ và thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm (để giải đáp được các câu
hỏi: còn thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm hay không?, căn cứ để kháng
nghị giám đốc thẩm là căn cứ nào?, ai là người có quyền kháng nghị giám đốc
thẩm?); về phạm vi giám đốc thẩm, về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc
thẩm (để giải đáp được các câu hỏi: cần xem xét lại những nội dung nào trong
bản án, quyến định bị kháng nghị?, tính pháp lý của bản án, quyết định bị
kháng nghị là như thế nào, sẽ được giữ nguyên hay sẽ bị huỷ bỏ?, nếu bị huỷ
bỏ thì Toà án cấp nào sẽ có thẩm quyền giải quyết lại?).
- Áp dụng pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự là hoạt
động điều chỉnh mang tính cá biệt:
Các vụ án dân sự không giống nhau về quan hệ pháp luật có tranh chấp,
về quyền và nghĩa vụ của các đương sự, về cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng, về thời gian, cách thức tiến hành các hoạt động tố tụng cụ
thể, , nên việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với từng vụ án là
không thể giống nhau, càng không thể chỉ xét lại một hoặc một số vụ án và
cho đó là điển hình để từ đó đưa ra kết luận về nhiều vụ án khác. Pháp luật tố
tụng Việt Nam hiện hành không thừa nhận án lệ là một hình thức của quy
phạm pháp luật, nên các quyết định giám đốc thẩm của Toà án có thẩm quyền
chỉ có giá trị tham khảo đối với Toà án các cấp, chứ không thể có giá trị áp
đặt phải tuân theo. Toà dân sự TANDTC có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết
khiếu nại, kiến nghị đối với bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật
của TAND các cấp trên toàn quốc và có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm
đối với bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực của các TAND cấp tỉnh trên
toàn quốc; tuy nhiên, trong thực tiễn công tác giám đốc thẩm thì không thể sử
dụng kết quả giải quyết vụ án này để giải quyết vụ án khác, mà phải căn cứ
vào các quy định của pháp luật.
25

×