Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.45 KB, 42 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ THANH
TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.1. Khái niệm và vai trò thanh toán quốc tế
1.1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là hoạt động thực hiện chi trả bằng tiền liên
quan đến các dịch vụ mua bán hàng hoá hay cung ứng lao vụ… thông
qua quan hệ giữa các ngân hàng giữa các tổ chức hay cá nhân nước
này với các tổ chức hay cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với
một tổ chức quốc tế.
Các quan hệ quốc tế xét về mặt kinh tế được phân chia thành hai
loại: quan hệ mậu dịch và quan hệ phi mậu dịch. Do đó thanh toán quốc
tế cũng bao gồm: thanh toán phi mậu dịch và thanh toán mậu dịch.
- Thanh toán phi mậu dịch: Là quan hệ thanh toán phát sinh
không liên quan đến hàng hoá cũng như cung ứng lao vụ, nó không
mang tính chất thương mại. Đó là những chi phí của các cơ quan ngoại
giao, ngoại thương ở nước sở tại, các chi phí về vận chuyển và đi lại
của các đoàn khách Nhà nước, các tổ chức, cá nhân.
- Thanh toán mậu dịch: Thanh toán mậu dịch phát sinh trên cơ sở
trao đổi hàng hoá và các dịch vụ thương mại theo giá cả quốc tế. Thông
thường trong nghiệp vụ thanh toán mậu dịch phải có chứng từ hàng hoá
kèm theo. Các bên mua bán bị ràng buộc với nhau bởi hợp đồng
thương mại, hoặc một hình thức cam kết khác (thư, điện giao dịch...).
Mỗi hợp đồng chỉ ra một mối quan hệ nhất định, nội dung hợp đồng phải
quy định điều kiện thanh toán cụ thể.
Ngoài ra trong thanh toán quốc tế còn có: thanh toán vay nợ viện
trợ. Loại thanh toán này thực chất cũng là thanh toán mậu dịch, nhưng
chỉ khác nhau ở nguồn vốn. Thanh toán mậu dịch được thực hiện bằng
nguồn vốn tự có, còn thanh toán vay nợ viện trợ do nước ngoài cấp vốn.
1.1.2. Vai trò của thanh toán quốc tế
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế
• Thanh toán quốc tế là một xu thế tất yếu khách quan trong sự phát


triển của kinh tế quốc tế
Hiện nay, xu hướng phát triển kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh
mẽ trên quy mô toàn cầu với rất nhiều những hoạt động như nhu cầu
hợp tác, phân công lao động quốc tế, trao đổi hàng hóa... với sự tham
gia của rất nhiều quốc gia. Do đó bắt đầu phát sinh các mối liên hệ giữa
người mua và người bán, người cho vay và người trả nợ, bên đầu tư và
bên nhận đầu tư... và các bên liên quan trong quan hệ quốc tế có sự
khác nhau về địa lý, về loại tiền sử dụng, về tập quán kinh doanh...Hoạt
động thanh toán quốc tế ra đời là đòi hỏi tất yếu để giải quyết một phần
và làm hài hoà các mối quan hệ đó.
• Thanh toán quốc tế gắn liền với hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu và có vai trò quan trọng
Hoạt động thanh toán đã trở thành bộ phận riêng nhưng lại gắn bó
hữu cơ với hoạt động buôn bán hàng hoá kể từ khi tiền tệ ra đời. Điều
khoản thanh toán luôn luôn là điều khoản không thể thiếu và rất quan
trọng trong một hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ. Thực hiện thanh
toán có liên quan chặt chẽ tới quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng. Các bên tham gia mua bán thường thỏa thuận rất
cụ thể và chi tiết về điều khoản này để tạo điều kiện cho các bên tham
gia hạn chế những rủi ro, cũng như có biện pháp để phòng ngừa rủi ro.
Việc thực hiện các điều khoản thanh toán tùy thuộc và uy tín và độ tin
cậy trong quan hệ mua bán giữa các bên. Do đó hiệu quả kinh tế trong
lĩnh vực kinh doanh XNK một phần lớn nhờ vào chất lượng của khâu
thanh toán, từ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế quốc tế phát triển.
• Thanh toán quốc tế là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
Doanh thu cũng như lợi nhuận của các bên tham gia XNK chịu
ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động thanh toán quốc tế bởi nó tác động
đến vòng quay vốn của doanh nghiệp. Thông qua hoạt động thanh toán,
chúng ta có thể đánh giá khả năng tài chính, uy tín cũng như tiềm lực

của mỗi đơn vị. Việc xem xét tình hình thanh toán là một trong những cơ
sở để tìm đối tác, bạn hàng trong quan hệ kinh doanh nhất là kinh doanh
trên quy mô toàn cầu. Có thể nói rằng, kinh tế đối ngoại có được mở
rộng hay không một phần là nhờ vào hoạt động thanh toán quốc tế có
được thực hiện tốt hay không. Thanh toán quốc tế được thực hiện tốt sẽ
tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, phát triển sản xuất
trong nước, khuyến khích nâng cao chất lượng hàng hoá, thực hiện mục
tiêu chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu của các quốc gia.
1.1.2.2. Đối với Ngân hàng
Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế có vị
trí và vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thanh toán quốc tế không chỉ là một dịch vụ đơn thuần mà còn được coi
là không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của mỗi Ngân hàng, bổ
sung và hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh khác trong Ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng được thực hiện một
cách hiệu quả sẽ giúp Ngân hàng thu hút thêm nhiều khách hàng có nhu
cầu thanh toán quốc tế, mà phần lớn là các khách hàng hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ đó, Ngân hàng có thể mở rộng
qui mô hoạt động, tăng thêm nguồn thu nhập, nâng cao khả năng cạnh
tranh.
Xét trên phương diện quản lý nhà nước, thông qua hoạt động
thanh toán quốc tế, Nhà nước thực hiện tốt quản lý nguồn ngoại tệ ra
vào của một quốc gia dựa trên cán cân thanh toán quốc tế và làm cơ sở
cho việc xây dựng và thực hiện chính sách tài khoá - tiền tệ. Như vậy,
thanh toán quốc tế có một vị trí rất quan trọng, đòi hỏi các Ngân hàng
phải nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế để đáp ứng các
yêu cầu và chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Các ngân hàng có một vai trò rất lớn trong việc đẩy mạnh và phát
triển dịch vụ thanh toán quốc tế bởi đây là một loại hình dịch vụ không
thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của mỗi NHTM. Nhờ mạng lưới

ngân hàng rộng lớn trên quy mô toàn thế giới với chức năng làm trung
gian thanh toán, hoạt động thanh toán giữa các quốc gia được diễn ra
thuận lợi, tiết kiệm được thời gian và chi phí, từ đó nó thúc đẩy các quan
hệ kinh tế quốc tế phát triển. Mặt khác, Ngân hàng không chỉ thực hiện
dịch vụ thanh toán quốc tế đơn thuần mà còn tham gia vào hoạt động tư
vấn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoàn thiện nghiệp vụ này để hạn
chế những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động kinh
doanh xuất nhập khảu.
1.2. Khái quát về quá trình phát triển thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế đã xuất hiện từ lâu, nhưng thực sự chỉ được phát triển
từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và từ đó đến nay nó trở thành một bộ phận không
thể tách rời của nền kinh tế. Ngày nay, các quan hệ kinh tế càng được mở rộng
trên toàn cầu với tốc độ nhanh chóng. Hàng năm, một khối lượng lớn hàng hoá
được trao đổi, mua bán trên thế giới, vì vậy thanh toán quốc tế là một tất yếu
khách quan. Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, đặt ra yêu cầu trong
thanh toán quốc tế phải có những phương thức thanh toán phù hợp hơn, thuận
tiện hơn, an toàn hơn. Do đặc tính thuận lợi của hình thức thanh toán không
dùng tiền mặt, cùng với sự phát triển của hệ thống Ngân hàng ở các nước, hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt (tức chuyển khoản) được sử dụng chủ yếu
trong các hoạt động thanh toán quốc tế.
Sau chiến tranh Thế giới lần thứ II, hệ thống các nước Xã hội chủ
nghĩa được thành lập, quan hệ kinh tế giữa các nước Xã hội chủ nghĩa
được hình thành và phát triển thì quan hệ thanh toán ngày càng mở
rộng. Trong thời gian đầu, Liên xô là nước cung cấp hàng hoá chủ yếu
cho các nước Xã hội chủ nghĩa khác, cho nên việc thanh toán hàng hóa
mới chỉ là thanh toán Clearing tay đôi giữa Liên xô với từng nước Xã hội
chủ nghĩa. Sau một thời gian, nền kinh tế của các nước Xã hội chủ
nghĩa được phục hồi và dần dần phát triển thì quan hệ trao đổi hàng hoá
giữa các nước cũng được mở rộng, từ đó hình thành quan hệ thanh
toán Clearing tay đôi giữa các nước Xã hội chủ nghĩa với nhau.

Quá trình phát triển quan hệ thanh toán quốc tế giữa Việt Nam với
các nước Xã hội chủ nghĩa cũng bắt đầu từ chế độ thanh toán Clearing
hai bên (Việt nam với Liên Xô, Việt Nam với Tiệp Khắc...), tiếp đến là
chế độ thanh toán Clearing nhiều bên và thanh toán Clearing nhiều bên
bằng đồng Rup chuyển khoản qua Ngân hàng Hợp tác kinh tế quốc tế
(RCK).
Bước sang những năm 90, tình hình Thế giới có nhiều biến động
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị... Theo xu hướng mới, hệ thống các
nước Xã hội chủ nghĩa ngày càng giảm sút, tan rã..., cơ chế thanh toán
nhiều bên bằng RCK không còn phù hợp nữa vì vậy từ năm 1991, đồng
RCK đã bị loại bỏ khỏi Ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời
Ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế cũng được cải tổ lại thành một Ngân
hàng thương mại khu vực.
Trước những năm 1990, các nước Tư bản chủ nghĩa thiết lập cho
riêng mình một hệ thống thanh toán Tư bản chủ nghĩa song song với hệ
thống thanh toán của khối các nước Xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, quan hệ quốc tế đã và đang chuyển sang một thời kỳ
mới do những tác động mạnh mẽ của thành tựu khoa học kỹ thuật, cùng
với xu hướng tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế. Do sự giao lưu
hàng hoá không còn bị giới hạn bởi chế độ chính trị của mỗi quốc gia,
thị trường quốc tế ngày càng mở rộng, việc mua bán, trao đổi hàng hoá,
dịch vụ sử dụng hệ thống giá cả thống nhất vì vậy nội dung thanh toán
quốc tế của mỗi nước cũng đổi mới theo hướng sử dụng các điều kiện
thanh toán (phương thức, tiền tệ) thống nhất trên phạm vi toàn Thế giới,
không còn phân biệt màu sắc chính trị như trước đây.
1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
1.3.1 Phương thức chuyển tiền
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán, trong đó
khách hàng (người trả tiền) yêu cầu Ngân hàng của mình chuyển một số
tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm

nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu, hoặc
bằng điện (Telegaphic tranfer-T/T) hoặc bằng thư (Mail tranfer-M/T).
Hiện nay các ngân hàng sử dụng hình thức chuyển tiền bằng điện là
chủ yếu.
- Ưu điểm: Phương thức này có thủ tục đơn giản, dễ thực hiện,
phí thanh toán không cao nên thường được áp dụng trong những
trường hợp như:
thanh toán những lô hàng có giá trị nhỏ, hai bên mua bán tin
tưởng lẫn nhau hay thanh toán trong lĩnh vực phi mậu dịch và chi phí có
liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu như phí vận tải, tiền hoa hồng,
tiền bồi thường, chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền ra nước ngoài để đầu
tư.
- Nhược điểm: bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì phương thức
chuyển tiền còn có nhiều hạn chế như: không đảm bảo rằng người bán
sẽ thu được tiền hàng trong trường hợp thanh toán sau và không bảo
bảm cho người mua nhận được hàng như yêu cầu trong trường hợp
thanh toán trước.
1.3.2. Phương thức nhờ thu
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán mà người bán sau khi
giao hàng ký phát hối phiếu đòi tiền người mua, rồi đến Ngân hàng nhờ thu hộ
số tiền ghi trên hối phiếu đó.
Các bên tham gia vào phương thức này bao gồm các bên như
sau:
Người bán (người hưởng lợi).
Người mua (người trả tiền).
Ngân hàng bên bán: Ngân hàng nhận sự uỷ thác của người
hưởng lợi (người bán) để thực hiện nghiệp vụ uỷ thác thu.
Ngân hàng bên mua: là Ngân hàng phục vụ người mua.
Ngân hàng này thường là Ngân hàng đại lý của Ngân hàng bên bán và
ở nước của người mua.

Ngân hàng trung gian: Đứng ra làm trung gian thanh toán khi
Ngân hàng bên bán và Ngân hàng bên mua không có quan hệ đại lý với
nhau (Ngân hàng trung gian có thể có hoặc không).
Phương thức nhờ thu được phân thành hai loại: đó là phương
thức nhờ thu phiếu trơn và phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
1.3.2.1 Phương thức nhờ thu phiếu trơn
Đây là phương thức thanh toán mà người bán ký phát hối phiếu
nhờ Ngân hàng thu hộ số tiền bán hàng ghi trên hối phiếu từ người
mua, mà không gửi kèm theo bất cứ một chứng từ thương mại nào.
Cùng với việc gửi hàng hoá cho người mua, người bán gửi thẳng bộ
chứng từ cho người mua để người mua đi nhận hàng.
Phương thức này chỉ được áp dụng trong trường hợp:
- Người bán và người mua tin cậy lẫn nhau, hoặc có quan hệ liên
doanh với nhau dưới dạng công ty mẹ và công ty con hoặc giữa các chi
nhánh.
- Thanh toán các dịch vụ có liên quan tới xuất nhập khẩu hàng hoá
như tiền cước phí vận tải, bảo hiểm, phạt. Do đó thanh toán này không
cần thiết phải kèm theo chứng từ.
Phương thức này ít được sử dụng trong thanh toán quốc tế vì
không đảm bảo quyền lợi cho người bán và người mua do việc nhận
hàng và thanh toán hoàn toàn tách rời nhau.
1.3.2.2 Phương thức nhờ thu kèm chứng từ
Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức thanh toán trong đó người
bán sau khi giao hàng, ký phát hối phiếu và kèm theo với bộ chứng từ
gửi hàng hoá để nhờ Ngân hàng thu hộ tiền từ người mua. Với điều kiện
là Ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ cho người mua để đi nhận hàng sau
khi người mua trả tiền, hoặc ký chấp nhận thanh toán (trong trường hợp
bán chịu). Trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ, người bán uỷ thác
cho Ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn có nhiệm vụ khống chế chứng
từ hàng hoá đối với người mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ

thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. Với cách khống chế này,
quyền lợi người bán được đảm bảo hơn.
Những mặt còn hạn chế của phương thức này:
- Tuy đã khống chế được quyền định đoạt đối với hàng hoá của
người mua nhưng chưa khống chế được việc người mua có trả tiền hay
không. Người mua có thể chậm trễ hoặc không thanh toán bằng cách trì
hoãn việc nhận chứng từ hàng hoá hoặc không nhận hàng hoá nữa.
Việc thanh toán diễn ra chậm chạp.
Ngân hàng chỉ đóng vai trò là một trung gian thu tiền hộ, còn
không có trách nhiệm dến việc trả tiền của người mua.
Có hai loại nhờ thu kèm chứng từ:
+ D/P (Document again payment): có nghĩa Ngân hàng chỉ trao
chứng từ cho người mua khi người mua đã trả tiền.
+ D/A (Document again acceptance): có nghĩa Ngân hàng chỉ trao
chứng từ cho người mua khi người mua ký hối phiếu chấp nhận thanh
toán.
1.3.3. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Ngày nay trong thanh toán quốc tế, phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ là phương thức được sử dụng phổ biến nhất trong buôn
bán quốc tế và được coi là phương thức khá hiệu quả. Tuỳ theo thói
quen và thông lệ của từng nước mà Tín dụng chứng từ được gọi với
nhiều tên khác nhau: Letter of Credit, Credit, Document Credit... ở Việt
Nam, ngoài tên là Tín dụng chứng từ còn được gọi dưới nhiều tên khác
như Tín dụng thư, Thư tín dụng, L/C và thông dụng nhất là từ “ Tín dụng
chứng từ” (Document Letter of Credit) vì nó thể hiện đúng nhất ý nghĩa
tín dụng kèm chứng từ. Khi áp dụng phương thức thanh toán này, nó
đem lại sự bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia
trong quá trình mua bán. Cùng vớí sự tham gia của các ngân hàng trong
quá trình thanh toán, rủi ro được hạn chế và chia đều cho người mua và
người bán. Đây cũng chính là nội dung chính của đề tài nghiên cứu.

1.3.3.1. Khái niệm và đặc điểm thư tín dụng.
Theo định nghĩa trong UCP 600 (Quy tắc và thực hành thống nhất
tín dụng chứng từ, bản sửa đổi năm 1993, số xuất bản 600 do phòng
Thương mại quốc tế Paris phát hành), tín dụng chứng từ là bất cứ thỏa
thuận nào trong đó Ngân hàng phát hành hành động theo yêu cầu và chỉ
thị của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) hoặc nhân danh
chính bản thân mình để:
- Thanh toán cho, hoặc theo lệnh của phía thứ ba (người hưởng
lợi) hoặc chấp nhận và thanh toán hối phiếu do người hưởng lợi ký
phát,
hoặc
- Uỷ quyền cho Ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận và thanh toán
hối phiếu hoặc cho phép Ngân hàng khác chiết khấu chứng từ quy định
trong thư tín dụng với điều kiện chúng phù hợp với tất cả các điều
khoản và điều kiện của thư tín dụng.
Với vai trò là một phương thức thanh toán, tín dụng chứng từ có
lợi cho cả người mua và người bán. Người mua yêu cầu ngân hàng mở
một thư tín dụng trong đó ngân hàng cam kết sẽ trả tiền cho người bán
nếu họ xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ chứng tỏ rằng họ đã
giao hàng theo đúng yêu cầu của thư tín dụng. Như vậy, người bán tin
chắc sẽ nhận được tiền hàng đã xuất khi anh ta thực hiện nghĩa vụ của
mình là lập và xuất trình chứng từ đầy đủ, đúng hạn như đã quy định
trong Thư tín dụng tại ngân hàng được chỉ định. Còn đối với người mua
thì quyền lợi của anh ta cũng được đảm bảo chỉ trả tiền khi hàng hoá đã
được giao thể hiện qua bộ chứng từ mà người bán xuất trình theo L/C.
Ngân hàng không đơn thuần là một trung gian thu hộ mà là
người đại diện bên nhập khẩu, trực tiếp cam kết thanh toán tiền hàng
cho bên xuất khẩu. Đối với ngân hàng đây được coi là một khoản tín
dụng của ngân hàng đối với người mua vì nếu người mua không trả
được thì ngân hàng vẫn phải trả tiền cho người bán. Do đó ngân hàng

phải xem xét khả năng thanh toán của người mua trước khi chấp nhận
mở thư tín dụng. Khi ngân hàng mở thư tín dụng cho người mua vay
một phần hoặc toàn bộ giá trị của thư tín dụng là ngân hàng đã thực
hiện một khoản tín dụng thực sự. Nhưng khi ngân hàng buộc nhà nhập
khẩu kí quỹ 100% trị giá của thư tín dụng thì lúc này ngân hàng không
cấp cho nhà nhập khẩu khoản tín dụng bằng tiền nào mà chỉ cho họ vay
uy tín của mình bằng cam kết thanh toán.
Điều đáng lưu ý nhất của phương thức tín dụng chứng từ
chính là tính độc lập của nó. Tuy được hình thành trên cơ sở hợp đồng
mua bán nhưng sau khi được mở, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp
đồng mua bán, các ngân hàng chỉ thực hiện thanh toán dựa trên căn cứ
vào bộ chứng từ mà không xem xét đến các yếu tố khác. Sự tồn tại của
bộ chứng từ này cũng như sự phù hợp của nó với các thời hạn tín dụng,
tạo nên cơ sở nền tảng của tín dụng kèm chứng từ, bởi vì ngân hàng
không cần nhìn thấy hàng hoá, mà chỉ xét các chứng từ. Tính độc lập
của L/C đã chi phối toàn bộ các khâu của quá trình thanh toán, quy định
toàn bộ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
1.3.3.2. Các bên tham gia
Trong phương thức tín dụng chứng từ truyền thống có sự tham gia
của:
- Người xin mở thư tín dụng (Applicant): là người mua, người
nhập khẩu hàng hoá.
- Người hưởng lợi thư tín dụng (Beneficiary): là người bán, người
xuất khẩu, hay bất cứ người nào khác được chỉ định.
- Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing bank): là Ngân hàng đại
diện cho người nhập khẩu, có thể cấp tín dụng cho ngời nhập khẩu. Khi
nhận được bộ chứng từ phù hợp, ngân hàng mở sẽ thay người mua trả
tiền cho người hưởng lợi.
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising bank): thường là
Ngân hàng đại lý của Ngân hàng mở thư tín dụng hoặc Ngân hàng bên

bán. Đây là Ngân hàng ở nước người bán.
Ngân hàng mở thư tín dụng
Người nhập khẩu
Ngân hàng thông báo tín dụng
Người xuất khẩu
(8) (7) (2)
(3)(5)(6)
(6) (5) (4)
(1)
- Ngân hàng xác nhận (Confirming bank), Ngân hàng chiết khấu
(Negotiating bank), Ngân hàng trả tiền (Reimbursing bank): các Ngân
hàng này có thể có hoặc không tùy thuộc vào yêu cầu của người mua
trong đơn xin mở thư tín dụng và sự uỷ nhiệm của Ngân hàng mở thư
tín dụng.
1.3.3.3. Quy trình thanh toán bằng tín dụng chứng từ
Tùy từng trường hợp cụ thể, tùy vào yêu cầu của người xin mở
thư tín dụng và tùy vào sự uỷ nhiệm của Ngân hàng mở thư tín dụng mà
trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có bao nhiêu Ngân
hàng tham gia, Ngân hàng nào là Ngân hàng thông báo, Ngân hàng trả
tiền, Ngân hàng chấp nhận hay Ngân hàng chiết khấu và với mỗi trường
hợp thì trình tự thực hiện của phương thức thanh toán tín dụng chứng
từ cũng lại khác nhau. Trong khuôn khổ của mục này, chuyên đề sẽ trình
bày trình tự thực hiện của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
khi có sự tham gia của hai Ngân hàng đó là Ngân hàng mở thư tín dụng
và Ngân hàng thông báo (là Ngân hàng đại lý của Ngân hàng mở thư tín
dụng ở nước người xuất khẩu), trong đó Ngân hàng mở thư tín dụng là
Ngân hàng trả tiền.
Sơ đồ thực hiện:


×