Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THỰC TRẠNG KINH DOANH THẺ TẠI TECHCOMBANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.58 KB, 24 trang )

THỰC TRẠNG KINH DOANH THẺ TẠI TECHCOMBANK
2.1 KHÁI QUÁT VỀ TECHCOMBANK:
2.1.1 Thành lập và hoạt động.
Ngày 27/9/1993, Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank – TCB)
chính thức đi vào hoạt động theo giấy phép hoạt động số 0040/NH-CP trong thời hạn là
20 năm. Trụ sở chính được đặt tại 24 Lý Thường Kiệt – Hoàn Kiếm – Hà Nội.
Sau một thời gian hoạt động hiệu quả và có nhiều đóng góp cho sự phát triển của kinh
tế nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho phép gia hạn lên 99 năm theo quyết
định số 330/QĐ-NH5 ngày 8/10/1997.
Techcombank có các hoạt động chính như sau:
-Nhận tiền gửi ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các tổ chức và cá nhân.
-Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn các tổ chức và cá nhân tuỳ theo tính chất
và khả năng nguồn vốn của ngân hang.
-Thực hiện các hoạt động kinh doanh ngoại hối, chiết khấu thương phiếu, tín phiếu
và các chứng từ có giá.
-Ngoài ra còn cung cấp các dịch vụ khác cho các khách hàng mà ngân hàng Nhà
nước cho phép.
* Vốn cổ phần
Cùng với sự phát triển của toàn hệ thống TechcomBank cả vể chiều rộng lẫn chiều
sâu, vốn điều lệ của ngân hang không ngừng tăng lên trong các năm. Trong những ngày
đầu đi vào hoạt động, vốn điều lệ của ngân hang chỉ là 20 tỷ thì đến cuối năm 2006 đã
đạt 1500 tỷ đồng, đã nằm trong nhóm 5 ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất về vốn
điều lệ.
*Thị trường hoạt động mục tiêu trong hoạt động của Techcombank.
Thị trường mục tiêu mà Techcombank hướng tới được chia theo những tiêu chí
khác nhau.
*Theo khu vực địa lí:
-Miền Bắc: Techcombank tập trung vào các tỉnh, thành phố Hà Nội, Nam Định, Hải
Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Tây, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Thái Bình.
Miền Trung: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Khánh Hoà , Huế.
Miền Nam: TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai, An


Giang, Cần Thơ, Kiên Giang.
* Nhóm sản phẩm tín dụng:
Tính dụng tiêu dung: ngân hàng tập trung tài trợ cho những nhu cầu về: sửa chữa,
mua nhà ở, phương tiện vận chuyển, du học, tư liệu tiêu dung.
Tín dụng hộ cá thể: Vốn lưu động, vốn cố định phục vụ kinh doanh, sản xuất nhỏ,
cá thể.
Tín dụng đầu tư cá nhân: Chứng khoán, cổ phần không niêm yết.
Tín dụng công ty: Vốn lưu động, cố định phục vụ sản xuất, kinh doanh, đầu tư.
*.Ngành nghề hoạt động:
Sản xuất, gia công hang xuất khẩu: giày dép, dệt may, thực phẩm chế biến, chế biến
nông sản, chế biến thuỷ sản, điện - điện tử, khoáng sản, thủ công mỹ nghệ.
-Kinh doanh nhập khẩu: máy móc thiết bị, xăng dầu, nguyên liệu, hoá chất, sản phẩm
điện tử, dược phẩm, phương tiện vận tải.
-Sản xuất: Thực phẩm đồ uống, sản xuất nhựa,vật liệu xây dựng, hoát chất, sản xuất
các sản phẩm từ cao su – hoa chất, sản xuất các sản phẩm thuỷ tinh gốm sứ, sản xuất
kinh loại, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị, sản xuất lắp ráp các sản phẩm, sản xuất
các sản phẩm gỗ, linh kiện điện tử, nội thất.
Kinh doanh: phân phối, thương mại, đại lí bán buôn, bán lẻ.
-Xây dựng cơ bản: Xây dựng các công trình dân dụng, khu đô thị - khu dân cư, công
trình công nghiệp, xây dựng công trình giao thông, cơ sở hạn tầng.
-Dịch vụ: dịch vụ vận tải, dịch vụ du lịch, khách sạn – nhà hang.
-Các hoạt động lien quan đến bất động sản: kinh doanh khu đô thị - khu dân cư, nhà
ở, kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp.
2.2. THỰC TRẠNG KINH DOANH THẺ TẠI TECHCOMBANK
2.2.1 Tình hình chung về thị trường thẻ Việt Nam:
Năm
Số lượng thẻ
phát hành
Ðõn vị: chiếc
Doanh số dùng thẻ tín

dụng quốc tế
Ðõn vị: triệu USD
Doanh số thanh toán
thẻ tín dụng quốc tế
Ðõn vị: triệu USD
1996 360 130
1997 460 100
1998 4.500 1,2 80
1999 2.500 1,1 70
2000 5.000 1,6 75
2001 15.000 2,5 90
2002 40.000 4,1 150
2003 230.000 40 300
2004 560.000 90 470
2005 1.250.000 130 600
T6/2006 3.500.000 320 900
2007 4.000.000 385 945
2008 4.300.000 410 1000
(Nguồn: www.vnba.org)
Từ năm 1993, thị trường thẻ NHVN mới xuất hiện những sản phẩm thẻ đầu tiên do
Vietcombank phát hành. Đến nay, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của thị
trường thẻ VN: 20 NHTM phát hành Thẻ nội địa, trong đó có 8 NHTM phát hành Thẻ Quốc
tế, số lượng thẻ phát hành trên 4 triệu thẻ (trong đó thẻ nội địa là 3,5 triệu thẻ và thẻ quốc tế
là 0,5 triệu thẻ); tổng số lượng máy ATM đến thời điểm này trong toàn hệ thống là 2.600
máy ATM, 22.000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS). Thị trường thẻ tăng trưởng bình
quân 300%/năm, với các sản phẩm ngày càng phong phú đa dạng.
Do điều kiện phát hành đơn giản, dễ sử dụng, phù hợp với thị trường VN nên
hoạt động phát hành thẻ nội địa phát triển mạnh trong thời gian qua. Vietcombank mở
đầu với việc phát hành thẻ Connect 24 và triển khai hệ thống VCB – ATM. Ngay lập
tức các ngân hàng khác cũng đưa ra những sản phẩm thẻ đầu tiên của mình như Cash

Card, tiếp theo là ATM Gold Card, ATM S – Card của Incombank, Thẻ Vạn dặm của
ngan ahngf Đầu tư và phát triển Việt Nam, Thẻ đa năng của ngân hàng Đông á, Thẻ
Fast Access của ngân hàng Kỹ thương, Sài gon Bank Card của ngân hang thương mại
cổ phần Sài Gòn Công thương, ACB e-Card, Citimard của ACB, Vib Values Card của
Ngân ahngf thương mại cổ phần Quốc tế, ATM Lucky của ngân hàng Phương
Đông,...Từ chức năng ban đầu của thẻ ATM chỉ cho phép rút tiền từ tài khoản tiền đồng,
xem số dư, chuyển khoản, in sao kê, connect 24 đến nay dần được trang bị thêm những
tiện ích như rút tiền từ tài khoản USD, thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại những đơn vị
chấp nhận thẻ, thanh toán tiền điện thoại, tiền nước, phí bảo hiểm, nạp tiền vào tài
khoản từ máy ATM...
Hệ thống ATM của các NH mỗi năm cũng tăng lên nhanh chóng. Thí dụ như
3 ngân hàng thương mại nàh nước là Incombank, BIDV, Agribank: Trong giai đoạn đầu
triển khai dịch vụ Thẻ (năm 2003), mỗi NH này chỉ có từ 25 – 30 máy ATM, nay đã
tăng gấp 12 lần so với số lượng máy ban đầu. Hiện nay, số máy ATM của Incombank là
342 máy; của BIDV là 400 máy, của Agribank là 202 máy; Liên minh VNBC do NH
Đông á đứng đầu có 350 máy; Liên minh của Vietcombank và 17 NH Cổ phần đã trang
bị được 750 máy ATM.
Sự bùng nổ của mạng lưới hệ thống ATM trong những năm qua đã góp phần
tác động đến doanh số sử dụng Thẻ nội địa của các NH tăng 300%/năm. Đây là dấu
hiệu đáng mừng đối với Ngành ngân hàng vì chứng tỏ dịch vụ thẻ đã đến gần hơn với
người dân và bước đầu tạo cho họ thói quen sử dụng Thẻ.
Bên cạnh các loại thẻ tín dụng quốc tế thông dụng như Visa, Mastercard do
Vietcombank, ACB, Eximbank đã phát hành, thời gian qua, trên thị trường thẻ VN
cũng đã xuất hiện thêm nhiều sản phẩm thẻ mới với nhiều hình thức mới như sản phẩm
thẻ VCB – Amex do Vietcombank phát hành; thẻ tín dụng quốc tế bằng đồng VN do
HSBC và ACB hợp tác phát hành; Thẻ ghi nợ quốc tế bằng đồng VN của ACB; các sản
phẩm thẻ tín dụng quốc tế do Sacombank, Incombank, VIBBank phát hành, lần đầu
tiên được đưa ra thị trường đã được nhiều khách hàng lựa chọn. Sắp tới thị trường có
thêm sản phẩm Visa và Mastercard được phát hành bởi MB, EAB và Agribank,
Techombank...

Với nhiều tính năng hấp dẫn như “chi tiêu trước, trả tiền sau”, thời hạn miễn
lãi từ 15 đến 45 ngày, có thể thanh toán toàn bộ hay một phần khoản hạn mức khi đến
hạn thanh toán, không tính lãi nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ dư nợ vào trước ngày
thanh toán, phí thường niên thấp, mức phí phát hành, đồng thời sự tác động tích cực của
các chương trình xúc tiến mở rộng thị phần mà các NHVN và các tổ chức Thẻ quốc tế
đang thực hiện, theo dự báo Hội thẻ NHVN, thời gian tới sẽ có sự đột biến cả về số
lượng và đối tượng khách hàng dùng thẻ quốc tế để thanh toán.
Nhằm tối ưu hóa các công dụng của thẻ, nhiều NH cũng đã đưa ra các sản
phẩm thẻ liên kết, thẻ đa năng. Thẻ đa năng vừa là thẻ ghi nợ, cũng vừa là thẻ tín dụng,
giúp khách hàng có thể thuận tiện hơn trong thanh toán, còn NH tiết kiệm được chi phí
phát hành thẻ. Đây thực sự là một bước đột phá trong công nghệ thanh toán. Hiện nay,
ở Việt Nam đã có EAB và Saigonbank phát hành loại thẻ này.
Sự cạnh tranh sôi động giữa các NH về phát triển sản phẩm, dịch vụ mới đã
tạo cơ hội tốt cho người sử dụng thẻ có nhiều sự lựa chọn mới và có điều kiện tiếp cận
phương tiện thanh toán hiện đại, với các tính năng tiện lợi nhất, ăn việc thanh toán hóa
đơn bằng thẻ ATM của VCB, gửi tiết kiệm bằng thẻ của EAB, thanh toán phí bảo hiểm
của VCB hay thanh toán taxi của ACB.
Những tiện ích mà các dịch vụ thẻ mang lại đã góp phần từng bước phá vỡ
thói quen ưa sử dụng tiền mặt của người dân, nâng cao khả năng quản lý tiền tệ của NN
cũng như góp phần hữu ích vào việc tạo dựng nền móng cho sự hình thành một nền
thương mại điện tử còn non trẻ của nước ta.
Để phát triển hoạt động thanh toán thẻ đòi hỏi các NHTM phải có một công
nghệ thanh toán hiện đại, nhanh chóng và an toàn. Vì vậy đòi hỏi vốn đầu tư khá lớn và
cần có sự đầu tư đồng bộ mà không phải ngân ahngf nào cũng dễ dàng thực hiện được.
Chính vì vậy mà việc liên kết của các ngân hang thương mại nhỏ với những ngân hàng
đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thẻ là điều kiện rất tốt để phát triển hệ thống
thanh toán thẻ ở Việt Nam, các ngân hàng sẽ tận dụng được công nghệ và hệ thống
ATM sẵn có, việc phát triển hoạt động ATM sẽ nhanh chóng và giảm thiểu được chi phí
cho các ngân hàng được lợi từ hệ thống khách hàng đối tác, ngược lại ngân hàng đối tác
sẽ tận dụng được công nghệ và hệ thống máy ATM sẵn có. Sự liên kết giữa các ngân

hàng có một ý nghĩa hết sức to lớn và là mốc quan trọng trong lịch sử phát triển thị
trường thẻ Việt Nam bởi lẽ nó tạo ra một cộng đồng đông đảo các ngân hàng tham gia
hoạt động thanh toán, phát hành thẻ, mở rộng đối tượng khách hàng sử dụng thẻ cũng
như mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ, tạo nền tảng xây dựng chuẩn mực chung về kỹ
thuật để từ đó tạo ra tiện ích có giá trị ngày một cao cho người tiêu dùng, tiết kiệm chi
phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Trong thời gian đầu hình thành thị trường thẻ tại Việt Nam, hệ thống thẻ thanh
toán mang tính cục bộ. Thẻ do ngân hàng nào phát hành thì chỉ có thể sử dụng ở máy
ATM của ngân hàng đó mà thôi. Nhưng trong giai đoạn 5 năm trở lại đây, tại Việt Nam
đã hình thành liên minh thẻ cho phép hệ thống thánh toán thẻ của các ngân hàng trong
cùng liên minh được kết nối với nhau. Hiện nay có 3 liên minh thẻ lớn:
Liên minh thứ nhất: Gồm Agribank, ICB, BIDV, ACB, EAB, Sacombank, SCB
và công ty điện toán và truyền số liệu VDC. Liên minh này hoạt động theo hình thức
công ty cổ phần và có tên BankNetVN.
Liên minh thử hai: Ngân hàng Đông Á và Sài Gòn Bank hoạt động the hình
thức hợp tác song phương giữa các ngân hàng.
Liên minh thứ ba: Là liên minh hoạt động sớm nhát và tỏ ra có hiệu quả nhất
gồm tới 18 ngân hàng do VCB đứng đầu. Liên minh này tồn tại theo tính chất hiệp hội,
liên kết cùng phát triển.
Như vậy, sau 12 năm hoạt động, thị trường thẻ của Việt Nam đã có những bước
khởi sắc rõ rệt. Doanh số thẻ tăng nhanh qua các năm, số lượng thẻ phát hành cũng gia
tăng mạnh và thu hút được ngàu càng nhiều ngân hàng tham gia vào thị trường, đặc biệt
sự ra đời của thẻ tín dụng nội địa đã đánh dấu một bước tiến quan trọng đối với sự phát
triển của thị trường thẻ Việt Nam. Tuy nhiên doanh số thanh toán thẻ mới chủ yếu thu
từ thẻ quốc tế, với đối tượng khách hàng chủ yếu là doanh nhân và khách du lịch nước
ngoài. Do đó, thị trường thẻ nội địa vẫn được coi là một thị trường tiềm năng còn nhiều
ẩn chứa nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với tất cả các ngân hàng.
Việc ra đời 3 liên minh thẻ, kết nối giữa các mạng lưới của các ngân hàng là liên
minh giữa Vietcombank với 17 ngân hang thương mại cổ phần, Công ty chuyển mạch
tài chính quốc gia (Banknet), Hệ thống VNBC là xu thế tất yếu để các ngân hàng cùng

tồn tại và phát triển, báo hiệu một hệ thống thẻ lớn mạnh sẽ được kết nối trong toàn
quốc nhằm tạo cho khách hàng có mạng lưới rộng, có thể thanh toán được mọi lúc,
mọi nơi. Mối liên kết này sẽ tạo sức mạnh cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài
khi hội nhập ngày càng đến gần.
2.2.2 Thực trạng kinh doanh thẻ của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương
Việt Nam:
Thị trường thẻ Việt Nam đang trong giai đoạn sôi động với sự tham gia của rất
nhiều các ngân hàng trong nước và cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Techcombank bắt đầu gia nhập thị trường thẻ năm 2003. Do tham gia vào thị trường thẻ
tương đối muộn nên Techcombank có thể học tập được rất nhiều kinh nghiệm của các
ngân hàng đi trước, để áp dụng vào thực tiễn kinh doanh của mình để có thể tận dụng
được tốt nhất các cơ hội có được, cũng như biết cách phòng tránh các rủi ro có thể xảy
ra trong quá trình hoạt động kinh doanh thẻ, đặc biệt là Techcombank có cơ hội ứng
dụng các công nghệ tiên tiến hiện đại. Tuy nhiên do gia nhập thị trường muộn, nên thị
phần mà Techcombank hiện đang nắm giữ là còn khá là nhỏ bé: Tính đến thời điểm
hiện tại số thẻ Techcombank phát hành ra đạt 320.000 thẻ, chiếm khoảng 4 % tổng số
thẻ của toàn thị trường. Hiện tại sản phẩm thẻ đầu tiên của Techcombank: Thẻ ghi nợ
nội địa F@st Access, sau đó có thêm F@st Access-I và năm 2007 mới có thêm thẻ
thanh toán quốc tế Techcombank Visa Debit. Vì gia nhập thị trường muộn và ban đầu
chỉ có thẻ ghi nợ - loại thẻ được các ngân hàng đi trước phát hành trước đó và đã có chỗ
đứng trên thị trường lâu rồi – nên Techcombank phải chịu cạnh tranh với rất nhiều các
ngân hàng khác như VCB, ACB, ICB, EAB, Sacombank … trong đó VCB vẫn luôn là
ngân hàng đứng đầu về thị trường thẻ ghi nợ.
2.2.2.1 Các sản phẩm thẻ của Techcombank:
*.F@stAcess

Kể từ ngày 15/12/2003, Techcombank chính thức phát hành thẻ thanh toán
F@stAccess theo công văn số 0565/NHNN và số 00621/NHNN của Ngân hàng nhà
nước thành phố Hà Nội. Thẻ F@stAccess là loại thẻ thanh toán được sử dụng trong
lãnh thổ Việt Nam dựa vào số tiền có trên tài khoản của khách hàng mở tại

Techcombank. Đây là loại thẻ trong nước duy nhất hiện nay có được các chức năng:
Rút tiền và thanh toán (tính năng thông thường của thẻ), tính năng tiết kiệm trong thẻ
F@stSaving và tính năng ứng trước tài khoản thanh toán thông qua sản phẩm
F@stAdvance. Đặc biệt để tạo thuận tiện cho khách hàng trong việc sử dụng thẻ, thẻ
F@st Access chia ra làm ba hạng chính: Chuẩn, Vàng và Đặc biệt.
*F@stAccess-i
Vào tháng 02/2006, ngân hang đã cho ra mắt thẻ F@staccess-i. Đây là một loại thẻ ghi
nợ nội địa phát hành nhanh với nhiều tính năng ưu đãi dành cho khách hàng. Điểm đặc
biệt của loại thẻ này là khách hàng đăng ký phát hành thẻ sẽ không mất thời gian chờ
đợi (sau 4 ngày làm việc như loại thẻ F@stAccess) mà nhận được thẻ ngay lập tức.
Ngân hang Techcombank sẽ ghi lại dữ liệu về khách hàng căn cứ trên đơn đăng ký
định danh thẻ cho khách hàng khai và nộp lại cho ngân hàng. Trong vòng khoảng 3
tiếng kể từ khi ngân hàng nhận được Đơn đăng ký dịnh danh thẻ của khách hàng, thẻ sẽ
được kích hoạt để khách hàng sử dụng. Như vậy, so với F@stAccess, các thủ tục phát
hành F@stAccess-i đơn giản hơn nhiều. Sự đơn giản này nhằm hướng tới mục tiêu:Tạo
sự thoải mái thuận tiện cho khách hàng khi đến với dịch vụ thẻ của Techcombank.
c.F@stAccess Visa Debit
Tháng 12/2006, Techcombank đã cho ra đời thẻ thanh toán F@stAccess Visa debit.
Đây là thẻ thanh toán quốc tế mang nhãn hiệu Visa do Techcombank phát hành dựa trên
cơ sở tiền gửi của khách hàng mở tại Techcombank.
Techcombank Visa - Phong cách thời đại mới đã và đang trở thành chiếc thẻ được
yêu thích của rất nhiều Khách hàng. Thẻ Techcombank Visa hoạt động theo các chuẩn
mực quốc tế của Visa, được kết nối trực tiếp với tài khoản thanh toán của khách hàng,
sử dụng tại hơn 1 triệu ATM, thanh toán qua internet và hơn 24 triệu điểm thanh toán
chấp nhận thẻ Visa ở Việt Nam và thế giới. Riêng tại Việt Nam có 10.000 điểm bán
hàng và hơn 1500 máy ATM chấp nhận thẻ Visa, Techcombank Visa còn được chấp
nhận thanh toán trên rất nhiều trang thương mại điện tử. Tại Việt Nam, Khách hàng đã
có thể thanh toán bằng thẻ Techcombank Visa trên trang bán vé máy bay trực tuyến của
Pacific Airlines (www.pacificairlines.com.vn), trang web www.chodientu.com.vn. Trong thời
gian tới, Techcombank sẽ tiếp tục liên kết với nhiều đối tác khác khác để tăng tiện ích

cho khách hang và đem lại sự thuận tiện hơn cho khách hàng trong thanh toán khi
mua bán qua mạng.
Ngoài ra khách hàng có thể chi tiêu vượt quá số tiền trên tài khoản với dịch vụ ứng
trước tài khoản cá nhân F@stAdvance nếu đăng ký , tự động tiết kiệm với dịch vụ
F@stSaving, không những thế thời gian phát hành thẻ chỉ có 5 ngày làm việc.
*Techcombank Visa Credit
Ngày 7/3/2008, Techcombank công bố chính thức ra mắt thẻ tín dụng mang tên
Techcombank Visa Credit. Khách hàng sử dụng thẻ Techcombank Visa Credit có thể
thanh toán các hóa đơn hàng hóa và dịch vụ tại hàng triệu đại lý chấp nhận thẻ của Visa
tại Việt Nam và trên thế giới.
Thẻ Techcombank Visa Credit hoạt động theo nguyên lý “chi tiêu trước, trả tiền
sau”, trong đó hạn mức chi tiêu tối đa của khách hàng đối với thẻ thường là 70 triệu

×