Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

NHƯNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM ĐINH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.51 KB, 33 trang )

NHƯNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM ĐINH TÀI CHÍNH DỰ
ÁN ĐẦU TƯ
1.1. Dự án của doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập trong nền kinh tế, chúng đóng
một vai trò quan trọng trong việc hình thành và vận hành nền kinh tế. Ở Việt
Nam, theo Luật Doanh nghiệp: “ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo qui định
của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh – tức là thực
hiện một hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”.
Như vậy, cho dù với một quy mô lớn hay nhỏ, với một số vốn ít hay nhiều,
doanh nghiệp dù ở bất cứ trong lĩnh vực nào của nền kinh tế, không phân biệt
loại hình cũng đều hoạt động vì một mục tiêu cuối cùng đó là tối đa hoá giá trị
của doanh nghiệp.
Hướng tới mục tiêu đó, trong quá trình kinh doanh của mình, doanh nghiệp
phải thường xuyên thực hiện hoạt động đầu tư. Có thể nói, đầu tư là một hoạt
động chủ yếu, quyết định sự phát triển và khả năng tăng trưởng của doanh
nghiệp. Trong hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bỏ vốn dài hạn hình thành và bổ
sung những tài sản cần thiết để thực hiện những mục tiêu kinh doanh. Hoạt
động đầu tư này được thể hiện tập trung và rõ nét thông qua các dự án. Để có
thể đáp ứng mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, doanh nghiệp cần
có chiến lược trong việc tìm kiếm và lựa chọn các dự án. Nếu không có những ý
tưởng mới và dự án mới , doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại và phát triển, đặc
biệt là trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Hướng phát triển cho
những sản phẩm mới, kéo dài tuổi thọ của sản phẩm hay làm tăng khả năng thu
lợi của sản phẩm hiện có là những vấn đề các nhà quản lý tài chính luôn tìm
kiếm lời giải đáp.
Trong quá trình hình thành mới một doanh nghiệp thì hoạt động đầu tư
càng thể hiện rõ vị trí không thể thiếu của nó. Để hình thành, doanh nghiệp có
nhiều điều kiện, trong đó điều kiện quan trọng phải kể đến là về vốn đầu tư.


Nhờ có vốn đầu tư mà nhà xưởng, trang thiết bi máy móc được hình thành, tạo
cơ sở vật chất cho doanh nghiệp hoạt động. Mặt khác, vốn đầu tư còn được sử
dụng đề mua sắm nguyên vật liệu đầu vào, trả lương cho người lao động trong
chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên thực tế, tuỳ theo từng thời điểm và hoàn cảnh cụ thể cũng như tiềm
lực tài chính của mỗi doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể thực hiện những dự
án lớn như xây mới cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh, dự
án thay mới dây chuyền công nghệ, dự án nghiên cứu triển khai một loại sản
phẩm mới hay một dự án nhỏ hơn như trang bị thêm cho các nhân viên của
doanh nghiệp những phương tiện làm việc hiện đại v.v…Tuy vậy, cho dù là
quyết định đầu tư lớn hay nhỏ, với số vốn nhiều hay ít, ta cũng có thể chia hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp ra làm những loại sau :
Căn cứ theo cơ cấu tài sản đầu tư có các loại sau :
- Đầu tư tài sản cố định
Đây là các hoạt động đầu tư nhằm mua sắm, cải tạo, mở rộng tài sản cố
định của doanh nghiệp. Đầu tư tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng đầu tư của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất. Loại đầu
tư này bao gồm : đầu tư xây lắp, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, đầu tư tài
sản cố định khác. Các tài sản cố định được đầu tư có thể là tài sản cố định hữu
hình hoặc tài sản cố định vô hình.
- Đầu tư tài sản lưu động
Đây là khoản đầu tư nhằm hình thành các tài sản lưu động cần thiết để đảm
bảo cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành
bình thường. Nhu cầu đầu tư tài sản lưu động phụ thuộc vào đặc điểm của hoạt
động sản xuất kinh doanh, vào nhu cầu tăng trưởng của doanh nghiệp.
- Đầu tư tài sản tài chính
Các doanh nghiệp có thể đầu tư vào các tài sản tài chính như mua cổ phiếu,
trái phiếu hoặc tham gia góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác. Hoạt
động đầu tư tài chính ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu đầu tư và mang
lại nhiều lợi ích hơn cho các doanh nghiệp.

Phân loại đầu tư theo cơ cấu tài sản đầu tư có thể giúp các nhà quản lý tài
chính xây dựng một kết cấu tài sản thích hợp nhằm đa dạng hoá đầu tư, tận
dụng được năng lực sản xuất và năng lực hoạt động, đồng thời nâng cao được
hiệu quả của hoạt động đầu tư.
Căn cứ theo tính chất dự án đầu tư :
-Dự án đầu tư mới: Là họat động đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm hình thành
các công trình mới. Thực chất trong đầu tư mới, cùng với việc hình thành các
công trình mới, đòi hỏi có bộ máy quản lý mới.
-Dự án đầu tư chiều sâu: Là họat động đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm cải
tạo, mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, dịch vụ;
trên cơ sở các công trình đã có sẵn. Thực chất trong đầu tư chiều sâu, tiến hành
việc cải tạo mở rộng và nâng cấp các công trình đã có sẵn, với bộ máy quản lý
đã hình thành từ trước khi đầu tư.
-Dự án đầu tư mở rộng: Là dự án nhằm tăng cường nâng lực sản xuất –
dịch vụ hiện có nhằm tiết kiệm và tận dụng có hiệu quả công suất thiết kế của
năng lực sản xuất đã có.
Căn cứ theo mục đích đầu tư, có thể phân loại đầu tư thành đầu tư tăng
năng lực sản xuất, đầu tư đổi mới sản phẩm, đầu tư đổi mới thiết bị, đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm v.v…Việc phân loại này có thể giúp cho các nhà
quản lý tài chính xác định hướng đầu tư và kiểm soát được tình hình đầu tư theo
những mục tiêu đã định.
Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp thực sự quan trọng và không thể thiếu
trong quá trình phát triển của mình, nhưng trước khi ra quyết định đầu tư, doanh
nghiệp không thể nào không xem xét đến những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới
hoạt động này. Nếu như không có sự đánh giá một cách kĩ lưỡng và toàn diện,
rất có thể hoạt động này sẽ trở nên phản tác dụng.
Tất cả các ý tưởng đầu tư cũng như những nhân tố ảnh hưởng, liên quan tới
quyết định đầu tư đều được thực hiện thông qua các dự án.
1.1.2. Dự án của doanh nghiệp

Dự án và đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là mối quan hệ
nhân quả. Đầu tư phát triển là nguồn gốc ra đời của dự án. Ngược lại việc xây
dựng và thực hiện các dự án sẽ kiểm nghiệm tính đứng đắn của quyết định đầu
tư. Dự án được xem xét dưới nhiều giác độ khác nhau. Theo thời gian, quan
niệm về dự án ngày càng phát triển, có người coi dự án là cách sử dụng các
nguồn lực vào các mục đích sản xuất nhất định; Ngân hàng thế giới (một tổ
chức tài chính quốc tế lớn nhất và có vai trò quan trọng trọng việc cung cấp
vốn, viện trợ kinh tế – kĩ thuật, thúc đẩy đầu tư vào các nước đang phát triển
thông qua các chương trình và dự án) đã xem dự án là tổng thể các chính sách,
hoạt động và chi phí có liên quan với nhau, được hoạch định nhằm đạt được
những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định. Cũng có người cho rằng :
dự án là tập hợp các đối tượng được hình thành và hoạt động theo một kế hoạch
cụ thể để đạt được mục tiêu nhất định trong một khoảng thời gian nhất định .
Với tư cách là người đầu tư, mối quan tâm hàng đầu và mục đích chủ yếu của
đầu tư là kiếm lời, đây là một quá trình tìm kiếm rất khó khăn, vất vả. Để đạt
được điều này, nhà đầu tư phải nghiên cứu chi tiết tất cả những vấn đề có liên
quan ảnh hưởng đến tính sinh lời của công việc đầu tư đó.
Tóm lại, một cách tổng quát nhất, dự án được hiểu là một tập hợp các
hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong
tương lai ý tưởng đã đặt ra với nguồn lực và thời gian xác định.
Dự án được hình thành và phát triển với nhiều giai đoạn riêng biệt nhưng
gắn kết chặt chẽ với nhau, thậm chí đan xen nhau theo một tiến trình lôgíc. Mặc
dù vậy, có thể nghiên cứu chúng một cách độc lập tương đối và trên các góc độ
khác nhau để hiểu chúng một cách hệ thống hơn và toàn diện hơn. Thông
thường một dự án bao gồm các giai đoạn sau: Xác định dự án; phân tích và lập
dự án; duyệt dự án; thực hiện dự án; nghiệm thu, tổng kết và giải thể.
Giai đoạn xác định dự án : Đây là giai đoạn hình thành ý tưởng đầu tư.
Trên cơ sở nghiên cứu thu thập thông tin về chiến lược phát triển kinh tế của cả
nước, của từng ngành hay từng lĩnh vực, đồng thời dựa trên những nghiên cứu
về thị trường trong hoặc ngoài nước, các ý tưởng đầu tư sẽ được đề xuất và lựa

chọn một cách thận trọng.
Giai đoạn phân tích và lập dự án :Đây là giai đoạn nghiên cứu chi tiết ý
tưởng đầu tư đã được đề xuất và lựa chọn trên mọi phương diện : thị trường, kĩ
thuật, kinh tế – xã hội, tài chính, tổ chức quản lý. Những nội dung trên được thể
hiện trong nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi dự án.
Trong giai đoạn nghiên cứu khả thi, cần luận giải rõ : Những căn cứ về sự
cần thiết phải đầu tư; lựa chọn hình thức đàu tư; chương trình sản xuất và các
yếu tố cần thiết; địa điểm cụ thể phù hợp với quy hoạch xây dựng; phương án
giải phóng mặt bằng; phương án kỹ thuật, công nghệ; phương án kiến trúc, xây
dựng, thiết kế; tổng vốn, các nguồn vốn và nhu cầu theo tiến độ, phương án
hoàn trả nợ; phương án quản lý lao động, tổ chức nhân sự vận hành dự án; thời
gian khởi công và hoàn thành; các căn cứ pháp lý để tiến hành thực hiện và lập
dự án; ảnh hưởng và tác động của dự án tới môi trường tự nhiên, môi trường
kinh tế- xã hội…
Sau khi phân tích dự án và lập dự án, vấn đề quan trọng tiếp theo là khâu
thẩm định dự án. Đây là giai đoạn một lần nữa những luận chứng đưa ra trong
khi lập dự án được kiểm tra và rà soát lại một cách kỹ lưỡng từ đó làm cơ sở
đưa ra những quyết định phê duyệt dự án của các cơ quan có thẩm quyền.
Giai đoạn duyệt dự án : Đây là giai đoạn quyết định dự án có được chấp
nhận hay không được chấp nhận. Tham gia duyệt dự án là một hội đồng gồm
các thành viên liên quan như các cơ quan nhà nước, các tổ chức tài chính và các
thành phần khác. Mục đích của giai đoạn này là xác minh lại những kết luận
được tổng hợp từ các giai đoạn truớc để đưa ra quyết định cuối cùng. Nếu dự án
được khẳng định là hiệu quả với mức chấp nhận được và khả thi thì hội đồng sẽ
thông qua dự án và quyết định đầu tư. Thực chất giai đoạn này cũng mang tính
chất thẩm định song ở giai đoạn cơ bản.
Giai đoạn 1
Nghiên cứu cơ hội đầu tư( hình thành ý tưởng đầu tư, bản giới thiệu cơ hội đầu
tư, tìm đối tác đầu tư)
Giai đoạn 2

Nghiên cứu tiền khả thi( dự kiến quy mô vốn, thị trường, kỹ thuật, công nghệ,
môi trường, tài chính, quản lý, nhân lực...)
Giai đoạn 3
Nghiên cứu khả thi ( hồ sơ thẩm định, hồ sơ phê duyệt)

Giai đoạn thực hiện dự án :Dự án được triển khai thực hiện khi bắt đầu
giải ngân. Giai đoạn này bao gồm một số công đoạn : thi công xây dựng công
trình, vận hành bước đầu dự án, dự án được sử dụng hết công suất và kết thúc
dự án. Mặc dù giai đoạn thực hiện dự án được tiến hành trên cơ sở các giai đoạn
chuẩn bị và phân tích, thẩm định thận trọng, song những khó khăn, rủi ro vẫn
thường xảy ra. Do vậy, các nhà quản lý dự án phải giám sát chặt chẽ quá trình
thực hiện dự án để xử lý linh hoạt các vấn đề nảy sinh.
Giai đoạn 1
Xây dựng công trình dự án( chuẩn bị xây dựng, thiết kế chi tiết, xây lắp, nghiệm
thu đưa vào họat động)
Giai đoạn 2
Dự án họat động( chương trình sản xuất, công suất sử dụng, giá tri còn lại vào
năm cuối của dự án)
Giai đoạn nghiệm thu, tổng kết và giải thể : Giai đoạn này được tiến
hành sau khi thực hiện dự án. Mục tiêu của giai đoạn nghiệm thu, tổng kết và
giải thể là đánh giá một cách toàn diện những thành công và thất bại từ khi xác
định, phân tích và lập dự án đến khi kết thúc thực hiện dự án; đặc biệt cần phân
tích rõ các nguyên nhân thất bại để có các giải pháp khắc phục hữu hiệu khi
quản lý các dự án tương tự khác trong tương lai.
Giai đoạn 1
Đánh giá dự án sau khi thực hiện (thành công, thất bại, nguyên nhân)
Giai đoạn 2
Thanh lý, phát triển dự án mới

Mặc dù, trong một dự án tồn tại rất nhiều giai đoạn cũng như một khối

lượng công việc rất lớn và phức tạp nhưng một nội dung quan trọng nhất của dự
án là phân tích tài chính dự án.
1.2 Thẩm định tài chính dự án
1.2.1. Khái niệm thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính dự án là quá trình tập hợp thông tin từ đó luận giải
một cách có khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án nhằm đánh
giá hiệu quả tài chính của dự án cũng như những rủi ro tài chính có thể xảy ra.
Trong công tác lập dự án, phân tích tài chính đóng góp một vai trò quan
trọng và có một ý nghĩa nhất định. Thông qua phân tích tài chính dự án, các nhà
phân tích có thể :
Cho chủ đầu tư và người đọc dự án có được một bức tranh tổng thể về tình
hình tài chính của dự án, không chỉ đơn thuần là một kì sản xuất kinh doanh mà
là khoảng thời gian dài từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc dự án.
Phân tích tài chính có thể đưa ra được những phương án tài chính khác
nhau làm cơ sở cho chủ đầu tư hay nhà tài trợ lựa chọn phương án thích hợp và
tối ưu nhất.
Phân tích tài chính với vai trò rà soát lại tất cả các nguồn lực đầu tư cho dự
án từ đó có thể phát hiện ra những chỗ còn chưa hợp lý trong dự án để đề xuất
cách khắc phục.
Phân tích tài chính làm nền tảng cơ sở để đưa ra được các chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả tài chính dự án, từ đó có thể đánh giá chính xác về tính khả thi của dự
án.
Một bản phân tích tài chính tốt có thể thuyết phục được các nhà tài trợ bỏ
vốn đầu tư vào dự án.
1.2.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án
Để đảm bảo tính chính xác, thuyết phục và khoa học, trong một dự án cho
dù lớn hay nhỏ, phân tích tài chính cũng bao gồm một số nội dung chính sau :
1.2.2.1. Dự toán vốn đầu tư và nguồn tài trợ
Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
Trong rất nhiều nhân tố đóng góp vào việc tối đa hoá giá trị doanh nghiệp,

người ta tin rằng một trong những nhân tố quan trọng nhất là các dự án mà
doanh nghiệp thực hiện. Những dự án này nếu được triển khai tốt và mang lại
hiệu quả cao thì sẽ làm cho giá trị doanh nghiệp không ngừng tăng lên.
Nếu như ta xem xét giá trị doanh nghiệp là một hàm của các quyết định
đầu tư, quyết định tài trợ và quyết định hoạt động thì giá trị của doanh nghiệp
được xác định bằng cách :
Giá trị DN = Giá trị Vốn chủ sở hữu + Giá trị nợ
Tuy nhiên, muốn cho các dự án được thực hiện thì cần phải có vốn đầu tư
(được hình thành từ các nguồn khác nhau).
Vốn đầu tư của dự án là tổng số tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài
sản cố định và tài sản lưu động cần thiết. Những tài sản này sẽ được sử dụng
trong việc tạo ra doanh thu, chi phí, thu nhập suốt vòng đời hữu ích của dự án.
Như vậy, trong bước lập dự toán cho dự án người phân tích dự tính được tổng
mức đầu tư vào tài sản cố định (thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu
tư) và tài sản lưu động; các nguồn này được hình thành từ nguồn vốn chủ hay
nguồn nợ của dự án. Việc xác định chi tiết đơn giá từng hàng mục tài sản sẽ làm
cơ sở để dự toán một tổng mức đầu tư chính xác.
Tuy nhiên vốn trong một dự án thường được sử dụng và hoàn trả trong một
thời gian dài, hơn nữa, đối với những dự án lớn, cơ cấu vốn và khái toán chi tiêu
rất phức tạp. Nếu như không có quá trình phân tích kỹ lưỡng để đưa ra một
mức vốn đầu tư tối ưu, rất có thể dự án sẽ không đạt được hiệu quả về mặt tài
chính. Vì thế, khi ra quyết định đầu tư, doanh nghiệp hay chủ dự án cần phải
cân nhắc kỹ lưỡng các căn cứ lập dự toán như : chính sách kinh tế; thị trường và
cạnh tranh; chi phí tài chính; tiến bộ khoa học kĩ thuật và cuối cùng là khả năng
tài chính của doanh nghiệp để có thể dự toán được một tổng mức đầu tư tối ưu.
1.2.2.2. Xác định dòng tiền của dự án
Dòng tiền của dự án được hiểu là các khoản chi và thu được kỳ vọng xuất
hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kì của dự án. Nếu ta lấy
toàn bộ khoản tiền thu được trừ đi khoản tiền đã chi ra thì khoảng chênh lệch
này đuợc định nghĩa là dòng tiền của dự án tại các mốc thời gian khác nhau

(thường là từng năm). Dòng tiền của dự án có thể dương và cũng có thể âm.
Do tiền có giá trị thời gian nên chúng ta không thể đem so sánh dòng tiền
phát sinh ở các thời điểm khác nhau với nhau mà phải qui chúng về một mốc
thời gian để so sánh bằng cách sử dụng lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên, dòng tiền

×