Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.55 KB, 21 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Các khái niệm liên quan đến thanh khoản
1.1.1. Dự trữ thanh toán
1.1.1.1. Vốn khả dụng
Thanh khoản luôn đi kèm với việc sử dụng vốn khả dụng. Nhu cầu
thanh khoản là không như nhau tại mọi thời điểm, trong khi đó ngân
hàng luôn phải đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ chi trả cho khách hàng
một cách vô điều kiện. Muốn thế, ngân hàng phải có trong tay một lượng
vốn khả dụng nhất định. Vốn khả dụng được hiểu là lượng tài sản cơ
động mà ngân hàng có thể sử dụng ngay được. Thông thường vốn khả
dụng bao gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và
các tổ chức tín dụng khác, là những tài sản mà ngân hàng có thể sử
dụng bất kỳ lúc nào.
Như vậy, vốn khả dụng được coi là tài sản có tính “lỏng” nhất, và do
vậy, nó hầu như không hoặc có tính sinh lời rất ít. Ngân hàng phải luôn
tìm cách để tối thiểu hóa lượng vốn khả dụng dù quan trọng nhưng
không sinh lời này tại mỗi thời điểm, đủ để phục vụ nhu cầu thanh toán.
1.1.1.2. Dự trữ thanh toán
Là khoản dự trữ nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của ngân
hàng với khách hàng. Dự trữ thanh toán bao gồm vốn khả dụng và các
tài sản có tính thanh khoản khác.
Tài sản thanh khoản thường bao gồm:
- Các giấy tờ có giá có khả năng chuyển đổi thành tiền với chi phí
thấp, bao gồm tín phiếu Kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, trái
phiếu Chính phủ. Chúng có độ rủi ro bằng 0, được giao dịch trên thị
trường mở, được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận cầm cố, cho vay
chiết khấu.
- Trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước cũng
được đánh giá là có độ rủi ro thấp.
- Các khoản dự trữ ngoại tệ có khả năng chuyển đổi.


- Các tài sản có tính thanh khoản khác.
1.1.2. Thanh khoản
1.1.2.1. Thanh khoản của ngân hàng
Thanh khoản của ngân hàng được hiểu đơn giản là khả năng của
ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Một
ngân hàng có tính thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản
hoặc có khả năng mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp hoặc cả hai
sao cho phù hợp với nhu cầu thanh khoản.
Như vậy khi ngân hàng không đáp ứng kịp thời nghĩa vụ thanh toán
hoặc phải chịu tổn thất, chi phí cao để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán
này sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản. Thanh khoản là một nội dung quản lý
đặc biệt phức tạp trong công tác quản trị ngân hàng, khi mà dòng tiền
vào, dòng tiền ra phát sinh không lường trước được, thay đổi liên tục
hàng ngày, hàng giờ.
1.1.2.2. Tính thanh khoản của tài sản
Tính thanh khoản của mỗi tài sản là khả năng chuyển tài sản thành
tiền được đo bằng thời gian và chi phí. Thời gian và chi phí càng cao thì
tính thanh khoản càng giảm và ngược lại.
Trong kế toán tài sản lưu động chia làm năm loại và được sắp xếp
theo tính thanh khoản từ cao đến thấp như sau: tiền mặt,chứng khoán,
đầu tư ngắn hạn, khoản phải thu, ứng trước ngắn hạn, và hàng tồn kho.
Như vậy rõ ràng tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất, luôn luôn dùng
được trực tiếp để thanh toán, lưu thông, tích trữ; còn hàng tồn kho có
tính thanh khoản thấp nhất vì phải trải qua giai đoạn phân phối và tiêu
thụ chuyển thành khoản phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian
mới chuyển thành tiền mặt.
1.1.2.3. Tính thanh khoản của nguồn
Được đo bằng thời gian và chi phí cơ hội để mở rộng nguồn khi cần
thiết. Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản của nguồn càng
giảm.

Khả năng huy động nguồn cũng góp phần tạo khả năng thanh toán
cho ngân hàng.
1.1.3. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản được hiểu là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân
hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá mức khả năng thanh
khoản dự kiến. Rủi ro thanh khoản ở mức cao làm cho ngân hàng phải
gia tăng chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản làm giảm thu nhập
ròng của ngân hàng. Ở mức cao hơn ngân hàng mất khả năng thanh
toán dẫn đến phá sản.
Rủi ro thanh khoản có thể đến từ hoạt động bên nợ hoặc bên có
hoặc từ hoạt động ngoại bảng của bảng cân đối tài sản.
Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản nợ có thể phát sinh bất cứ lúc
nào khi người gửi tiền rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn. Với một
lượng tiền gửi đọt ngột được rút ra lớn sẽ buộc ngân hàng phải đi vay
thêm để bổ sung hoặc bán bớt tài sản. Do cần gấp nên khi huy động thì
ngân hàng phải chịu lãi suất cao, hoặc bán gấp tài sản thì phải bán với
giá thấp so với giá trên thị trường và từ đó làm giảm thu nhập của ngân
hàng.
Rủi ro thanh khoản từ bên tài sản có chủ yếu phát sinh khi nhu cầu
vay tiền của khách hàng tăng đột ngột làm ngân hàng không đảm bảo
đủ tiền ngay lập tức theo yêu cầu của khách.
Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng: Sự phát triển mạnh
mẽ của các công cụ phái sinh khiến cho rủi ro thanh khoản đến từ hoạt
động ngoại bảng cũng ngày càng gia tăng. Khi mà các nghĩa vụ thanh
toán xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh toán các hợp đồng kỳ
hạn, hoán đổi hay quyền chọn đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh
khoản và ngân hàng có thể đối mặt với rủi ro thanh khoản.
1.1.4. Khe hở thanh khoản
Cung thanh khoản: là khả năng cung ứng tiền của ngân hàng nhằm
đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm việc bán tài sản

thanh khoản, khả năng huy động vốn mới và thu hồi các khoản cho vay
đến hạn.
Cầu thanh khoản: là nhu cầu thanh toán của khách hàng mà ngân
hàng có nghĩa vụ đáp ứng, bao gồm nhu cầu chi trả từ tài khoản tiền gửi
và nhu cầu vay của khách hàng.
Khe hở thanh khoản: là chêch lệch giữa cung và cầu thanh khoản
tại một thời điểm nhất định.
Khe hở thanh khoản chính là nguyên nhân gây nên rủi ro thanh
khoản, khi cung và cầu thanh khoản tại một thời điểm nào đó không cân
bằng:
- Khi cung thanh khoản > cầu thanh khoản: ngân hàng ở trạng thái
thặng dư vốn khả dụng. Trường hợp lượng vốn khả dụng lớn hơn mức
cần thiết, ngân hàng sẽ bị dư thừa, ứ đọng vốn và làm giảm hiệu quả
kinh doanh.
- Khi cung thanh khoản < cầu thanh khoản: ngân hàng ở trạng thái
thâm hụt vốn khả dụng, không đáp ứng được nhu cầu chi trả và phải tìm
kiếm nguồn thanh khoản bổ sung.
Với sự biến động của lãi suất hị trường trong tương lai, khe hở
thanh khoản sẽ ảnh hưởng đến thu nhập ròng từ lãi của ngân hàng, cụ
thể:
NII = GAP
L
* ∆I
Trong đó:
• NII : Thu nhập ròng từ lãi
• GAP
L
: Giá trị khe hở thanh khoản hay chênh lệch giữa cung thanh
khoản và cầu thanh khoản tại thời điểm tính
• ∆I : Sự thay đổi của lãi suất thị trường

Như vậy để nâng cao thu nhập ròng từ lãi khi có sự biến động của
lãi suất, khi dự đoán lãi suất tăng thì ngân hàng nên duy trì khe hở thanh
khoản dương và ngược lại, khi dự đoán lãi suất thị trường giảm ngân
hàng sẽ duy trì khe hở âm.
1.2. Nội dung quản lý thanh khoản
1.2.1. Xác định mục tiêu của quản lý thanh khoản
Trước hết mục tiêu quản lý thanh khoản của ngân hàng được xác
định là nhằm đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng
với mức chi phí thấp nhất. Mặc khác, bài toán giữa chỉ tiêu sinh lời và an
toàn luôn luôn được đặt ra cho các nhà quản lý. Thanh khoản và lợi
nhuận của ngân hàng là hai tiêu chí trái ngược nhau, có tính chất đánh
đổi. Muốn duy trì một tỷ lệ an toàn thanh khoản cao đồng nghĩa với việc
ngân hàng sẽ nắm giữ các tài sản thanh khoản nhưng ít sinh lợi hoặc
hầu như không sinh lời. Và ngược lại, nếu theo đuổi mục đích lợi nhuận,
ngân hàng sẽ muốn nắm giữ những tài sản sinh lợi cao, kỳ hạn dài
nhưng thanh khoản kém dẫn tới nguy cơ về rủi ro thanh khoản. Nhà
quản lý ngân hàng sẽ cần phải cân đối hợp lý giữa hai mục tiêu này để
phù hợp với mục tiêu, chiến lược hoạt động trong từng thời kỳ của ngân
hàng.
Như vậy, ngân hàng quản lý thanh khoản để:
* Đảm báo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng với chi phí thấp
nhất, hợp lý nhất.
* Dự đoán nguy cơ rủi ro thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra.
1.2.2. Xác định cung cầu thanh khoản
1.2.2.1. Xác định cung thanh khoản
a. Cung thanh khoản phát sinh từ Tài sản Có
Tiền mặt: Tiền mặt của ngân hàng được đánh giá là một trong
những khoản mục mang tính lỏng (tính thanh khoản) cao nhất, toàn bộ
số dư tiền mặt được coi là nguồn cung thanh khoản nhanh chóng và ít
chi phí nhất.

Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước: là khoản mục mang tính lỏng
không kém gì tiền mặt.
Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng: Do các tổ chức tín dụng được
coi là những đối tác có độ tín nhiệm cao nên khả năng thanh toán gần
như là chắc chắn. Đối với một số giao dịch có thỏa thuận được rút trước
hạn thì tính thanh khoản cũng gần như tiền gửi thanh toán.
Các khoản cho vay các tổ chức tín dụng được hoàn trả: khoản
mục này tính thanh khoản cũng tương đương như tiền gửi tại các tổ
chức tín dung tuy nhiên trong xếp loại thứ tự ưu tiên trong thanh toán thì
tiền vay nằm sau tiền gửi.
Các khoản cho vay các tổ chức kinh tế, các nhân được hoàn
trả: khoản mục này không được đánh giá cao về tính thanh khoản, trong
báo cáo khe hở thanh khoản khoản mục này chỉ được lấy ở mức
khoảng 70% số dự kiến phát sinh.
Các khoản đầu tư chứng khoán đến hạn: chứng khoán ngân
hàng nắm giữ hiện nay thường có độ an toàn cao như Trái phiếu Chính
phủ, Tín phiếu Kho Bạc Nhà Nước, trái phiếu công trình…Do vậy tính
thanh khoản cũng được đánh giá tương đối cao, ở mức khoảng 90-95%
Ngoài ra còn một số Tài sản Có khác đến hạn như các khoản phải
thu, các khoản tạm ứng…
b. Cung thanh khoản phát sinh từ Tài sản Nợ
Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, cá nhân: khả năng
tăng cung thanh khoản từ huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, cá
nhân là thanh khoản trong dài hạn và thể hiện ở chính sách, kế hoạch
huy động của ngân hàng. Đây cũng là một trong những chỉ số quan
trọng đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng và được coi là
nguồn thanh khoản mang tính ổn định nhất, là nền tảng lợi nhuận của
ngân hàng.
Phát hành giấy tờ có giá: tương tự như trên, phát hành giấy tờ có
giá cũng là biện pháp tăng cung thanh khoản. Tuy nhiên các đợt phát

hành thường phục vụ cho mục tiêu nhất định ntrong thời hạn nhất định,
lãi suất có thể cao hơn tiền gửi tiết kiềm nên khoản mục này có thể tăng
cung thanh khoản một cách linh động hơn.
Vay cầm cố, vay chiết khấu Ngân hàng nhà nước: Nguồn tái cấp
vốn từ Ngân hàng Nhà nước được coi là sự hỗ trợ thanh khoản cuối
cùng của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trên thực tế, các ngân hàng
thương mại thường xuyên sử dụng nguồn này để bổ sung nguồn vốn
kinh doanh cũng như hỗ trợ thanh khoản qua sử dụng hạn mức chiết
khấu, vay cầm cố giấy tờ có giá do đây là nguồn vốn có chi phí thấp,
quy mô lớn.
Nhận tiền gửi Kho bạc Nhà nước, nhận tiền gửi, vay các Tổ
chức tín dụng khác: Đây cũng là nguồn cung thanh khoản dồi dào vì
có chi phí thấp và quy mô lớn, nhưng với nguồn này ngân hàng không
chủ động được mà phụ thuộc vào khả năng của đối tác và khả năng huy
động của chính ngân hàng.
c. Cung thanh khoản phát sinh từ khoản mục ngoại bảng:
Thị trường tài chính ngày nay ngày càng được phát triển và mở
rộng, các sản phẩm phái sinh và dịch vụ trở nên đa dạng và linh hoạt
hơn. Do đó, sử dụng các sản phẩm này cũng là công cụ giúp ngân hàng
gia tăng lợi nhuận và tăng cung thanh khoản khi cần. Các sản phẩm
phái sinh thông dụng hiện nay như là : Hợp đồng repo, mua bán kỳ hạn
trong giao dịch kinh doanh ngoại tệ, quyền chọn trong giao dịch ngoại
tệ, các hối phiếu của bộ chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu đã được
ngân hàng nước ngoài chấp nhận...
1.2.2.2. Xác định cầu thanh khoản
a. Cầu thanh khoản phát sinh từ Tài sản Nợ
Nhu cầu rút tiền gửi của Kho bạc Nhà nước: theo quy định hiện
nay, tiền gửi Kho bạc Nhà nước được thực hiện như ở tiền gửi thanh
toán, do vậy với nhu cầu rút tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, yêu cầu
một lượng thanh khoản cao và khối lượng lớn.

Nhu cầu rút tiền gửi của các tổ chức tín dụng: tương tự tiền gửi
của Kho bạc Nhà nước, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi đến hạn của các
tổ chức tín dụng có khối lượng lớn, kỳ hạn ngắn nên yêu cầu thanh
khoản thường cao và lớn.
Vay Ngân hàng Nhà nước đến hạn: Theo quy định hiện nay các
khoản vay tái cấp vốn Ngân hàng Nhà nước cho mục tiêu thanh khoản
không được gia hạn, quay vòng do vậy yêu cầu thanh khoản cho khoản
mục này cũng thường ở mức cao.
Vay tổ chức tín dụng khác đến hạn: đây cũng lã khoản mục có
yêu cầu thanh khoản cao, tuy nhiên do phụ thuộc vào khả năng thanh
khoản của đối tác nên nên vẫn còn khả năng quay vòng, gia hạn.
Nhận vốn cho vay đồng tài trợ đến hạn: vốn cho vay đồng tài trợ là
các khoản vốn các ngân hàng đồng thời góp vốn cho ngân hàng đầu
mối để cho vay theo một dự án, chương trình nhất định, do vậy yêu cầu
thanh khoản đối với khoản mục này cũng tương đối cao.
Nhu cầu rút tiền gửi không kỳ hạn của dân cư và tổ chức kinh
tế: là khoản mục có tính thay đổi cao tùy thuộc vào từng thời kỳ và khó
lường trước hết được. Do đó, ngân hàng cần chú ý để bảo đảm cho nhu
cầu thanh khoản này thường xuyên. Theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước tại quyết định 457/QĐ-NHNN thì tỷ lệ dự trữ thanh khoản cho
khoản mục này tối thiểu ở mức 15% cho ngày làm việc tiếp theo.

×