LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUỸ LƯƠNG
I. BẢN CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA TIỀN LƯƠNG
1. Khái niệm về quỹ tiền lương.
Quỹ tiền lương là tổng số tiền mà doanh nghiệp dùng để trả cho người lao
động phù hợp với số lượng và chất lượng lao động trong phạm vi doanh
nghiệp mình phụ trách.
2. .Kết cấu quỹ tiền lương của doanh nghiệp.
Tiền lương được chia theo một số kết cấu sau:
2.1. Kết cấu 1:
Quỹ tiền lương được chia thành 2 bộ phận là bộ phận cơ bản và bộ phận biến
đổi.
-Bộ phận cơ bản gồm tiền lương cấp bậc công việc có nghĩa là mức tiền lương
do các thang bảng lương của từng ngành ,từng xí nghiệp quy định.Hệ thống
thang bảng lương này do Nhà nước ban hành hoặc do xí nghiệp ,các hợp tác xã
tự xây dựng trên cơ sử tham khảo thang bảng lương của Nhà nước quy định.
-Bộ phận biến đổi bao gồm các loại phụ cấp ,các loại tiền thưởng nằm cạnh
tiền lương cơ bản .
Quan hệ giữa hai bộ phận này từ 70-75
0
/
0
tiền lương cơ bản và từ 25-30
0
/
0
là
bộ phận tiền lương biến đổi.
2.2. Kết cấu 2.
Tiền lương thời kỳ báo cáo và tiền lương thời kỳ kế hoạch :tiền lương thời kỳ
báo cáo là những số liệu về tiền lương thực tế trong thời kỳ báo cáo; tiền
lương thời kỳ kế hoạch là những số liệu tính toán dự trữ để đảm bảo kế hoạch
sản xuất ,đảm bảo quỹ tiền lương để trả cho thời kỳ sắp tới. Những con số ở
đây đều là những con số dự kiến trước cho nên giữa kế hoạch và thực hiện sẽ
có những sai lệch .Tuy nhiên những con số này được tính toán dựa vào mẫu
căn cứ sau:
A- Nhiệm vụ sản xuất kì kế hoạch(giá trị tổng sản lượng,chủng loại sản phẩm
phải sản xuất).
B- Năng suất lao động của từng loại công nhân.
C- Tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất ,kế hoạch năng suất lao động,số
người làm việc ở thời kì đã qua (tham khảo để tính toán kỳkế hoạch.)
2.3. Kết cấu 3
Kết cấu chi tiết về các khoản mục thuộc thành phần quỹ tiền lương.Kết
cấu này có thể thay đổi một số khoản mục tuỳ theo từng nước từng ngành
từng doanh nghiệp không bắt buộc phải giống nhau.
3. Ý nghĩa của việc xây dựng và quản lí quỹ tiền lươngtrong điều kiện
hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay để tiền lương phát huy được tác dụng tích tực
của nó thì trước hết mỗi doanh nghiệp phải đảm bảo tiền lương của mình thực
hiện tốt chức năng thấp nhất và cũng là chức năng quan trọng của tiền lương
là đảm bảo đủ chi phí để tái sản xuất sức lao động ,tiền lương phải nuôi sống
được người lao động,duy trì sức lao động của họ.
Đối với các doanh nghiệp quỹ tiền lương là một yếu tố chi phí của sản
xuất . Còn đối với người cung ứng sức lao động quỹ tiền lương và tiền lương là
nguồn thu nhập chủ yếu . Mục đích của các nhà sản xuất là lợi nhuận còn mục
đích của người cung ứng sức lao động là tiền lương. Với ý nghĩa này tiền
lương không chỉ mang bản chất là chi phí mà nó đã trở thành phương tiện tạo
ra giá trị mới, hay nói đúng hơn là nguồn cung ứng sự sáng tạo sức sản xuất
năng lực của lao động trong quá trình sản sinh ra giá trị ra tăng.
Như vậy tiền lương là giá trị sức lao động ,là một yếu tố của chi phí sản
xuất. Do đó muốn tiết kiệm được chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm
thì các doanh nghiệp phải sử dụng quỹ tiền lương của mình có kế hoạch thông
qua phương pháp xây dựng và quản lý quỹ tiền lương.
Việc trả lương cho công nhân viên trong các doanh nghiệp là trả dần theo
từng tháng. Do đó phần tiền lương chưa sử dụng đến phải được sử dụng có
hiệu quả trong quá trình sản xuất. Muốn làm tốt vấn đề này thì các doanh
nghiệp phải lập kế hoạch quản lý nguồn vốn tạm thời này. Nêú công tác này
được thực hiện tốt sẽ dẫn đến sử dụng có hiệu quả đồng vốn, nâng cao hơn
nữa kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
Trong nền kinh tế thị trường mọi yếu tố sản xuất đều trở thành hàng hoá,
đã là hàng hoá thì có thể trao đổi được bằng tiền. Đồng tiền trở thành phương
tiện quan trọng nhất đối với người lao động. Do vậy khi người lao động đem
bán sức lao động của mình cho người sử dụng lao động để đảm bảo cuộc sống
thì tiền lương là mục đích, là sự cố gắng của họ. Trong doanh nghiệp tiền
lương đóng vai trò là đòn bẩy kinh tế, là yếu tố cơ bản quan trọng hàng đầu
trong việc khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người lao động, khi được
thoả mãn tiền lương một cách thích đáng người lao động tự thấy họ được trả
công xứng đáng do vậy họ hăng say lao động và ra sức phát huy sáng kiến cải
tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu , góp phần
giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi tiền lương đã trở thành
một yếu tố kích thích mạnh mẽ nó là động lực gắn chặt người lao động với
doanh nghiệp, khai thác hết khả năng tiềm ẩn của họ và đương nhiên cũng
làm cho người lao động quan tâm hơn đến kết quả lao động của mình làm ra.
Trong thời kỳ hiện nay Nhà nước ta đang thực hiện xoá bỏ bao cấp đối
với các đơn vị sản xuất kinh doanh. Các đơn vị này phải tự sản xuất kinh doanh
tự hạch toán lỗ lãi để đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Do vậy việc xây dựng
và quản lý quỹ lương cho các đơn vị có vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân để có thể kết hợp giữa phát triển toàn bộ nền kinh tế với đảm
bảo hao phí sức lao động cho người lao động.
Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường, quá trình sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp luôn chịu sự tác động của các quy luật cạnh tranh, quy
luật giá trị. Cơ chế thị trường rất khắc nghiệt, nó sẵn sàng đào thải những
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không hiệu quả. Trong điều kiện đó chất lượng
sản phẩm và giá cả là những yếu tố quan trọng giúp cho sự đứng vững và phát
triển của doanh nghiệp.
Để công nhân luôn gắn bó với doanh nghiệp, phát huy hết khả năng sáng
tạo, tinh thần trách nhiệm trong sản xuất,luôn tìm cách cải tiến mẫu mã chất
lượng sản phẩm.Để làm được điều đó,các doanh nghiệp phải có một phương
pháp quản lý có hiệu quả. Trong công tác quản lý thì vấn đề quản lý quỹ tiền
lương của doanh nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng .Việc trả lương cho
người lao động theo hình thức nào để kích thích họ trong sản xuất là điều
được người sử dụng lao động quan tâm.
II. TIỀN LƯƠNG LÀ BỘ PHẬN CHÍNH CỦA QUỸ LƯƠNG
1. Khái niệm về tiền lương.
Tiền lương hay tiền công là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh mối quan
hệ về kinh tế trong việc trả lương ,trả công cho người lao động.Tiền lương phụ
thuộc vào kết quả của lao động, những mối quan hệ sản xuất mà trước hết là
quan hệ về tư liệu sản xuất quyết định . Tiền lương là vấn đề quan trọng trong
các hoạt động kinh tế. Nó quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng đến quá trình tái sản
xuất xã hội, đặc biệt là tái sản xuất.
Trong xã hội tư bản thì tiền công hay tiền lương chính là sự thể hiện giá cả
của sức lao động , nhưng thực chất thì nhà tư bản trả cho người công nhân
tiền công nhỏ hơn giá trị sức lao động anh ta bỏ ra và nhà tư bản cướp không
giá trị thặng dư đó . Tiền lương dưới chế độ chủ nghĩa xã hội là một phần của
thu nhập quốc dân, điều đó có nghĩa là ở tầm vĩ mô chỉ được phép phân phối
cho tiêu dùng trong phạm vi thu nhập quốc dân sản xuất . Tốc độ tăng tiền
lương bình quân không được cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động bình
quân. Trong một giai đoạn đặc biệt ngắn , nguyên tắc này có thể bị vi phạm,
nhưng trong một thời gian dài đó là quy luật thép cho cả tầm kinh tế vĩ mô.
Tiền lương là bộ phận của thu nhập quốc dân, được nhà nước phân phối cho
người lao động, vì thế nó chịu ảnh hưởng của hàng loạt các nhân tố : Trình
độ phát triển sản xuất , quan hệ tích luỹ và tiêu dùng trong từng thời kỳ và
chính sách của Nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế chính trị và xã
hội trong thời kỳ đó .Trên đây ta thấy vai trò của Nhà nước đối với vấn đề tổ
chức và quản lý tiền lương cho người lao động đã thay thế vai trò của thị
trường và Nhà nước dưới chủ nghĩa tư bản . Vì từ trước đến nay ta quan
niệm rằng dưới chủ nghĩa xã hội, ở nước ta sức lao động không còn là hàng
hoá. Nhà nước đã căn cứ vào điều kiện của đất nước trong từng thời kỳ và các
yêu cầu về tái sản xuất sức lao động cho người lao động (độ phức tạp của lao
động và sức tiêu hao lao động) cũng như các chính sách mục tiêu kinh tế
trong từng thời kỳ cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, chiến lược về cơ cấu
ngành nghề, để xây dựng chính sách tiền lương chung cho toàn bộ nền kinh tế
từ các đơn vị hành chính sự nghiệp đến các đơn vị sản xuất kinh doanh .
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay , sức
lao động trở thành hàng hoá vì tồn tại các điều kiện mang tính chất tiền đề để
sức lao động trở thành hàng hoá đó là sự tách rời giữa quyền sở hữu và sử
dụng tư liệu sản xuất , người lao động có quyền tự do làm chủ sức lao động
của mình . Trong các thành phần kinh tế tư nhân cũng như Nhà nước giám
đốc , công nhân, người làm thuê đều là người bán sức lao động và được trả
công .
Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay thực chất của tiền lương
được nhìn nhận từ nhiều khâu của quá trình tái sản xuất:
Sức lao động là yếu tố quyết định trong các yếu tố cơ bản của quá trình tái
sản xuất nên tiền công là giá cả của sức lao động và là phạm trù của sản xuất
yêu cầu phải tính đúng, tính đủ trước khi thực hiện quá trình lao động và sản
xuất
Sức lao động là hàng hóa nên tiền lương là phạm trù của trao đổi, nó đòi
hỏi phải ngang giá với các tư liệu sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất sức
lao động.