Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRẢ LƯƠNG Ở CÔNG TY DỆT KIM THĂNG LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.19 KB, 25 trang )

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRẢ LƯƠNG Ở CÔNG TY DỆT KIM THĂNG LONG
I. Đặc điểm của Công ty Dệt kim Thăng Long
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Công ty Dệt kim Thăng Long là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Sở Công
nghiệp Hà Nội. Quá trình hình thành và phát triển của công ty có thể chia ra làm 5 thời
kỳ:
Thời kỳ từ năm 1959 đến năm 1975
Tháng 2 năm 1959, Xí nghiệp Dệt kim Cự Doanh được thành lập dựa trên cơ sở
công tư hợp doanh giữa Nhà nước với xưởng dệt Cự Doanh ở phố Hàng Quạt – Hà Nội
của nhà tư sản Trịnh Văn Căn.
Từ khi thành lập cho đến năm 1975, sản phẩm chủ yếu của xí nghiệp là áo may ô
và áo lót nam phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa và trang bị cho quân đội với sản
lượng từ 1 - 2 triệu chiếc / năm.
Thời kỳ từ năm 1976 đến tháng 6 năm 1982
Năm 1976, xí nghiệp bắt đầu tham gia sản xuất hàng xuất khẩu trong khuôn khổ
Nghị định thư với các nước XHCN như Liên Xô. Hungary, Tiệp … Sản lượng hàng năm
3 – 4 triệu chiếc, trong đó 60% là sản phẩm xuất khẩu, còn lại là tiêu dùng nội địa và
cung cấp cho quốc phòng.
Tuy nhiên thời gian này các doanh nghiệp không được phép xuất nhập khẩu
trực tiếp. Do đó, toàn bộ việc xuất khẩu của xí nghiệp lúc đó phải uỷ thác qua Tổng
công ty Xuất nhập khẩu hàng dệt Việt Nam (TEXTIMEX).
Thời kỳ từ tháng 7 năm 1982 đến tháng 11 năm 1986
Xí nghiệp ngày càng phát triển sản xuất nhưng lại hạn chế vì mặt bằng sản xuất
chật hẹp. Đứng trước tình hình đó, tháng 7 năm 1982, UBND thánh phố Hà Nội đã
quyết định sát nhập Xí nghiệp Dệt kim Cự Doanh với Xí nghiệp may mặc Hà Nội và đổi
tên thành Công ty Dệt kim Thăng Long như hiện nay.
Có thể nói đây là thời kỳ hoàng kim của Công ty Dệt kim Thăng Long. Sản lượng
hàng năm luôn duy trì ở mức 8 – 9 triệu chiếc, trong đó xuất khẩu sang Tiệp 6 triệu.
Liên Xô 1,5 triệu, còn lại là tiêu dùng nội địa.
Thời kỳ từ tháng 12 năm 1986 đến cuối năm 1991.
Đây là thời kỳ công ty điều chỉnh hoạt động của mình để thích ứng với cơ chế


mới. Khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước công ty đã gặp phải nhiều khó khăn như: nguyên vật liệu khan
hiếm phải nhâp ngoại, máy móc thiết bị đã cũ, cơ sở hạ tầng xuống cấp.Mặt khác, giữa
năm 1991, Liên Xô và hệ thống các nước XHCN tan rã, công ty mất đi thị trường truyền
thống. Do đó, hoạt động của công ty đòi hỏi phải có sự thay đổi, công ty phải làm chủ
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, tự sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Thời kỳ tữ năm 1992 đến nay
Công ty dần thích nghi với đòi hỏi mới của thị trường. Năm 1992, công ty được
cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp. Sản lượng hàng năm trên dưới 2 triệu chiếc. Giờ
đây, công ty đã mạnh dạn vững bước trên con đường kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường với những thử thách và thắng lợi mới.
1.2 Bộ máy quản lý của Công ty
Sơ đồ 1: Bộ máy quản lý của công ty
Giám đốc

PGĐ PGĐ
Kỹ thuật Đời sống
Sản xuất Hành chính

Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng
Kỹ thuật Kế hoạch Tài chính Tổ chức Bảo vệ
KCS Vật tư Kế toán Hành chính Dịch vụ


Phân xưởng Phân xưởng Phân xưởng
Dệt Tẩy , Nhuộm Cắt , May
Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính.
Dựa vào sơ đồ trên ta thấy cơ cấu tổ chức của công ty Dệt kim Thăng Long là cơ
cấu trực tuyến – chức năng. Theo kiểu này, Giám đốc được sự giúp sức của hai phó
Giám đốc và các phòng chức năng. Tuy nhiên quyền quyết định thuộc về Giám đốc. Các

phòng chức năng có trách nhiệm tham mưu cho toàn bộ hệ thống trực tuyến, nhưng
không có quyền ra mệnh lệnh cho các phân xưởng. Còn các phân xưởng là các đơn vị
sản xuất cơ bản trong công ty, mỗi phân xưởng có từng nhiệm vụ riêng.
Ban giám đốc
Ban giám dốc gồm Giám đốc và hai phó giám đốc: PGĐ kỹ thuật sản xuất và PGĐ
đời sống hành chính:
Giám đốc có nhiệm vụ quản lý toàn diện, chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động
sản xuất, kỹ thuật, kinh doanh và đời sống của doanh nghiệp. Ngoài ra, Giám đốc trực
tiếp chỉ đạo phòng Kế hoạch – Vật tư và phòng Tài chính – Kế toán.
Phó giám đốc kỹ thuật sản xuất chỉ huy sản xuất và kỹ thuật, có trách nhiệm tổ
chức và chỉ huy quá trình sản xuất hàng ngày từ khâu chuẩn bị sản xuất đến bố trí,
điều khiển lao động … Phó giám đốc kỹ thuật sản xuất chỉ đạo phòng Kỹ thuật – KCS và
trực tiếp chỉ huy các phân xưởng.
Phó giám đốc đời sống hành chính có trách nhiệm thực hiện các mối quan hệ
pháp lý trong và ngoài Công ty, phụ trách các hoạt động hành chính và phúc lợi của
Công ty. Phó giám đốc đời sống hành chính chỉ đạo các phòng Tổ chức – Hành chính và
phòng Bảo vệ – Dịch vụ.
Các phòng chức năng
Phòng Kỹ thuật – KCS: Phòng có nhiệm vụ quản lý kỹ thuật và chất lượng sản
phẩm. Ngoài ra, phòng còn quản lý việc sử dụng điện, nước, thiết bị.
Phòng Kế hoạch – Vật tư: Phòng thực hiện công tác kế hoạch, công tac XNK,
công tác quản lý và cung ứng vật tư, nguyên phụ liệu, công tác kinh doanh thương mại.
Phòng Tài chính – Kế toán: Phòng có nhiệm vụ hạch toán các khoản chi phí
nguyên vật liệu, chi phí nhân công, tính giá thành sản phẩm…Theo dõi các khoản thu–
chi tài chính, lập báo cáo tài chính gửi Giám đốc, theo dõi quyết toán các hợp đồng
kinh tế với khách hàng.
Phòng Tổ chức – Hành chính: Phòng có nhiệm vụ tổ chức lao động tiền lương:
tuyển chọn lao động, xây dựng quy chế trả lương, thực hiện quan hệ lao động … Ngoài
ra, phòng còn thực hiện công tác hành chính quản trị như nhận chỉ thị giấm đốc
chuyển thành các văn bản quy định đến các phòng và các phân xưởng, quản lý văn thư,

lưu trữ tài liệu …
Phòng Bảo vệ – Dịch vụ: Phòng có nhiệm vụ bảo vệ tài sản của công ty, bảo
đảm an ninh trật tự trong công ty, … , vận chuyển và bốc dỡ, phục vụ kho tàng, chăm
sóc y tế …

Các phân xưởng sản xuất:
Phân xưởng dệt: tiếp nhận sợi để tiến hành sản xuất từ sợi ra các loại vải mộc
rồi giao cho phân xưởng tẩy nhuộm.
Phân xưởng tẩy nhuộm: tiến hành nấu, tẩy nhuộm và xử lý định hình vải mộc
rồi giao cho phân xưởng cắt, may. Từ năm 2000, phân xưởng tẩy nhuộm không còn
hoạt động do gây ô nhiễm môi trường.
Phân xưởng cắt, may: có nhiệm vụ cắt và may vải đã nhuộm thành các sản
phẩm, sau đó là và đóng gói theo đúng yêu cầu về chất lượng, kích cỡ, thời gian giao
hàng theo hợp đồng.
1.3 Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của Công ty
Công ty Dệt kim Thăng Long có chức năng chính là sản xuất kinh doanh các sản
phẩm dệt kim vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước, vừa xuất khẩu ra nước
ngoài.
Sản phẩm của Công ty sản xuất ra chủ yếu xuất khẩu ra nước ngoài theo những
đơn đặt hàng. Cũng có khi Công ty nhận may gia công, mẫu mã và nguyên phụ liệu
Công ty nhận của khách hàng mang về chỉ việc hoàn thành khâu cuối cùng tạo ra
thành phẩm giao lại cho khách hàng. Còn hàng nội địa của Công ty cũng có nhiều loại
với chất lượng, mẫu mã, màu sắc, kích cỡ như hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, khối lượng
sản phẩm tiêu thụ ở trong nước còn khiêm tốn.
Trong những năm gần đây, Công ty đã tiến hành chuyên môn và đa dạng hoá
sản phẩm. Bên cạnh những sản phẩm truyền thống như áo T–Shirt, Polo–Shirt …Công
ty đã dần dần đưa vào sản xuất một số loại quần áo thể thao, áo jacket, các loại hàng
dệt kim cao cấp …
Các sản phẩm chủ yếu của Công ty:
* Áo T – Shirt, Polo – Shirt, quần dài, quần áo lót là những mặt hàng xuất khẩu

của Công ty.
* Áo jacket không phải là mặt hàng được sản xuất thường xuyên và mặt hàng này
chủ yếu là nhận gia công.
* Quần áo thể thao là mặt hàng mới trong Công ty, được sản xuất theo đơn đặt
hàng, nó không phải là mặt hàng chủ yếu.
+ Ngoài ra, Công ty còn sản xuất theo đơn đặt hàng trong nước, có khi là nhận gia
công một số mặt hàng như: quần áo bơi, quần áo mưa, màn các loại
1.4 Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm
Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm
của Công ty Dệt kim Thăng Long
Sợi Guồng đảo sợi Dệt vải
Kho vải mộc Mạng sợi Kiểm tra vải dệt
Tẩy bằng hoá chất Giặt sạch Vắt bằng li tâm
Kiểm tra vải Cán nguội Sấy khô
Cán nóng Kho vải trắng Cắt quần áo
Kiểm tra t.phẩm May Kho bán t.phẩm
Là - đóng gói Kho thành phẩm Công ty
Nguồn: Phòng Kỹ thuật-KCS.
Qua sơ đồ trên ta thấy, việc sản xuất của công ty được tiến hành tại các phân
xưởng rất chặt chẽ và liên tục. Trước khi được chuyển vào kho thì bán thành phẩm,
thành phẩm đều được kiểm tra, giám sát khắt khe nhằm bảo đảm đúng tiêu chuẩn
đúng chất lượng, đúng số lượng và thời gian giao cho từng phân xưởng. Và trong quy
trình công nghệ sản xuất sản phẩm này không thể không nhắc tới hệ thống máy móc
thiết bị của Công ty .
Để đáp ứng nhu cầu sản xuất kịp thời cùng với việc nâng cao NSLĐ, chất lượng
sản phẩm thì máy móc đóng vai trò quan trọng trong dây chuyền sản xuất của Công ty
Dệt kim Thăng Long. Do đó, công ty đã chú trọng đầu tư máy móc thiết bị, dây chuyền
công nghệ để phục vụ cho sản xuất. Hiện nay trong Công ty số lượng máy móc hiện có
đều là những máy trung bình và khá hiện đai tương đối phù hợp với hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty.

Bảng 1: Một số máy móc thiết bị chủ yếu của Công ty
STT Tên máy Nước sản xuất Số lượng Năm sử dụng
1 Máy Multipique dệt kép
2 Máy Multi Singer dệt đơn Đức 30 1982
3 Máy khâu các loại Đức 40 1984
4 Máy sấy ( 6579 & 6568 ) Đức 20 1987
5 Máy tẩy – nhuộm – kiềm Đức 25 1989
6 Mờy cán Tiệp 20 1989
7 Máy khâu các loại Đức 210 1990
8 Máy dập cúc Hàn Quốc 5 1992
9 Máy cắt vòng Tiệp 20 1992
10 Máy cắt thẳng Nhật 20 1993
11 Máy xén Suraba Liên Xô 50 1995
12 Máy đính cúc Đức 16 1996
13 Máy cắt di động Đức 15 1999
14 Máy đảo sợi Tiệp 5 2000
Nguồn: Phòng Kỹ thuật – KCS
1.5 Cơ cấu và đặc điểm của đội ngũ lao động
Lực lượng lao động của Công ty được xem xét theo quy mô và cơ cấu, thông qua
đó chất lượng lao động được phản ánh.
Bảng 2: Số lượng và cơ cấu CBCNV của Công ty
STT Chức danh Số lượng %
1 Công nhân sản xuất 359 84,5
2 Cán bộ quản lý : 66 15,5
+ Cán bộ kỹ thuật
+ Cán bộ quản lý kinh tế
+ Cán bộ quản lý hành chính
17
29
20

4
6,8
4,7
Tổng số 425 100
Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính.
Theo số liệu năm 2002 thì số lượng CBCNV của Công ty là 425 người, trong đó
cán bộ quản lý là 66 người (15,5%), còn công nhân trực tiếp sản xuất là 359 người
(84,5%). Thực tế công nhân trực tiếp sản xuất là 341 người (359 – 18) bởi vì 18 công
nhân tẩy nhuộm tạm thời làm công việc khác do phân xưởng Tẩy, nhuộm tạm ngừng
hoạt động.
Bảng 3 : Tuổi và giới tính của CBCNV trong Công ty .
Số nam Số nữ Tổng %
Dưới 25 tuổi 15 92 107 25
Từ 25 – 34 tuổi 22 104 126 30
Từ 35 – 44 tuổi 34 128 162 38
Trên 45 tuổi 11 19 30 7
Tổng 82 343 425
% 19 81 100
Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính
Do đặc điểm về sản phẩm của Công ty là hàng may mặc, sản phẩm sản xuất nhìn
chung không đòi hỏi mức độ nặng nhọc cao mà chủ yếu đòi hỏi tính cần cù và khéo léo.
Do vậy lao động nữ của công ty chiếm tỷ lệ cao. Trong số 425 CBCNV của Công ty thì số
lao động nữ là 343 người (81%), số lao động nam là 82 người (19%). Số lao động nữ
cao nên hàng năm số ngày nghỉ thai sản, nghỉ con ốm … tương đối nhiều. Điều này làm
ảnh hưởng không tốt tới quá trình lao động, gây khó khăn cho việc bố trí lao động.
Lực lượng lao động trong Công ty là lao động trẻ. Điều này có ưu điểm là công
nhân có sức khoẻ để đảm nhận công việc, có sự nhanh nhẹn, sáng tạo trong công việc …
Nhưng lao động trẻ cũng đồng nghĩa với sự hạn chế về kinh nghiệm làm việc, đòi hỏi
chi phí đào tạo cao và họ cũng hay rời bỏ Công ty …
Bảng 4: Trình độ của cán bộ quản lý

ĐH – CĐ TC Sơ cấp Tổng %
Cán bộ kỹ thuật 11 5 1 17 25,7
Cán bộ quản lý kinh tế 18 10 1 29 44
Cán bộ quản lý hành chính 2 3 15 20 30,3
Tổng 31 18 17 66
% 47 27,3 25,7 100
Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính
Qua bẩng trên ta thấy trong bộ phận cán bộ quản lý của Công ty thì tỉ lệ số cán
bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và cán bộ quản lý hành chính phù hợp với hoạt
động sản xuất kinh doanh của Công ty. Số người có trình độ ĐH – CĐ là 31 người
(47%), 18 người có trình độ trung cấp (27,3%), còn lại là trình độ sơ cấp chiếm 17
người ( 25,7%) . Hơn nữa họ lại là những người có thâm niên công tác lâu năm. Vì thế
họ có đủ kinh nghiệm và năng lực giúp Công ty đứng vững và không ngừng phát triển.
Bảng 5: Số lượng và bậc thợ của công nhân trực tiếp sản xuất
B2 B3 B4 B5 B6 Tổng
Công nhân dệt - - - 3 12 15
Công nhân cát may 148 17 26 47 88 326
Tổng 148 17 26 50 100 341
Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính
Cấp bậc công việc BQ: 4

×