Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Kiểm Sát Khám Nghiệm Hiện Trường Vụ Án Vi Phạm Quy Định Về Tham Gia Giao Thông Đường Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 89 trang )

TRƯƠNG HỒNG PHÚC

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG HỒNG PHÚC

NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

KHÓA IX/2018

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG HỒNG PHÚC

KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi – Trương Hồng Phúc - xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong Luận văn này là trung thực. Những kết luận khoa học của
Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trương Hồng Phúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................................ 8
Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN
TRƯỜNG VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ ............................................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận liên quan đến kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ....................................................... 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ ...................................................................... 16
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ
ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ VÀ

THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THỦ ĐỨC........................... 23
2.1. Quy định về kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ ........................................................................................... 23
2.2. Tổng quan về kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức ...................................... 34
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động kiểm sát việc
khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh .............................................. 48
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM
GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC.......... 62
3.1.Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến kiểm sát khám nghiệm hiện
trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ .................... 62
3.2. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành; phân công, bố trí cán bộ thực hiện hoạt
động kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ.................................................................................................. 67


3.3. Nâng cao nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ và kiện toàn đội ngũ Kiểm sát viên
tại Viện kiểm sát nhân dân địa phương đảm bảo yêu cầu công tác .......................... 69
3.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp; đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ
hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ............................................................................................ 74
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- BLHS


: Bộ luật hình sự

- BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
- CQĐT

: Cơ quan điều tra

- ĐTV

: Điều tra viên

- HTVA

: Hiện trường vụ án

- KNHT

: Khám nghiệm hiện trường

- KSV

: Kiểm sát viên

- Nxb

: Nhà xuất bản

- TGGTĐB : Tham gia giao thông đường bộ
- TP.HCM


: Thành phố Hồ Chí Minh

- TNGTĐB : Tai nạn giao thông đường bộ
- VAHS

: Vụ án hình sự

- VKS

: Viện kiểm sát

- VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
- Bảng 2.1:

Số vụ TNGT có dấu hiệu tội phạm Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM (Năm
2015 – Năm 2019);

- Bảng 2.2:

Số liệu về khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức,
TP.HCM (Năm 2015 – Năm 2019);

- Bảng 2.3:


Kết quả kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM (Năm
2015 – Năm 2019);


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm sát KNHT là hoạt động thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND các cấp
trong quá trình giải quyết VAHS, nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền trong KNHT. Hiệu quả của hoạt động này có ý nghĩa
quan trọng trong công tác giải quyết VAHS bởi thông qua hoạt động này VKSND sẽ
phát hiện những thiếu sót, vi phạm xảy ra trong khi tiến hành hoạt động điều tra tại
hiện trường để yêu cầu bổ sung, khắc phục, góp phần hạn chế oan, sai trong tố tụng
hình sự. Ý nghĩa quan trọng của hoạt động này càng được thể hiện rõ hơn trong thực
tiễn giải quyết các vụ án Vi phạm Quy định về TGGTĐB, một trong những loại án
xảy ra phổ biến ở nhiều địa phương trên cả nước. Bởi, với tính chất dễ bị xáo trộn của
hiện trường vụ án Vi phạm Quy định về TGGTĐB, những sai sót, hạn chế trong hoạt
động KNHT trước đó nếu không được phát hiện kịp thời sẽ rất khó khăn, thậm chí
không thể bổ sung, khắc phục được. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung, gây kéo dài thời gian giải quyết nhiều vụ án
Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng ở nhiều địa phương trên cả nước, trong đó
có quận Thủ Đức, TP.HCM.
Nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Bắc - TP.HCM, quận Thủ Đức có hệ thống
giao thông đường bộ khá đa dạng với nhiều tuyến đường quốc lộ, nội thị, phục vụ
nhu cầu đi lại, thông thương của nhân dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển mọi mặt
của địa phương. Bên cạnh những giá trị tích cực đó, thực tiễn 5 năm qua còn cho thấy,
Quận Thủ Đức là địa bàn có số vụ TNGT đường bộ khá nhiều, đáng chú ý là các vụ
TNGT đường bộ có hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng với khoảng 117 vụ/năm.
Những vụ TNGT này đều được tiếp nhận, giải quyết theo trình tự, thủ tục luật định

bằng nhiều hoạt động khác nhau, trong đó không thể thiếu hoạt động KNHT và hoạt
động kiểm sát KNHT của cơ quan có thẩm quyền. Thống kê cho thấy, trong 5 năm
qua, Cơ quan điều tra và Cảnh sát giao thông Công an quận Thủ Đức đã khám nghiệm
tổng số 585 hiện trường vụ TNGTĐB có hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng,

1


trong đó có 60 vụ có quyết định khởi tố vụ án hình sự, tất cả đều là án Vi phạm quy
định về TGGTĐB. Việc KNHT các vụ, việc trên đều có sự tham gia kiểm sát KNHT
của VKSND quận Thủ Đức ngay từ ban đầu, đảm bảo hoạt động KNHT được thực
hiện một cách kịp thời, đầy đủ, chính xác, góp phần giải quyết hiệu quả các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB xảy ra trên địa bàn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, có lúc, có nơi hoạt động kiểm sát KNHT
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB vẫn còn những hạn chế nhất định, xuất phát
từ nhiều nguyên nhân khác nhau, cả về nhận thức lý luận, pháp lý cũng như điều kiện
đặc thù của địa phương, đòi hỏi cần có những giải pháp phù hợp để nâng cao hơn nữa
chất lượng, hiệu quả của hoạt động này, từ đó góp phần vào việc giải quyết hiệu quả
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB xảy ra trên thực tế.
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Kiểm sát khám nghiệm hiện
trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, từ thực tiễn quận
Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh” một cách hệ thống, cả về mặt lý luận và thực tiễn,
đề xuất những giải pháp hữu ích góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt
động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, xảy ra trên địa bàn
quận Thủ Đức, TP.HCM và tại các địa phương khác trên cả nước là đáp ứng được
yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vi phạm quy định về TGGTĐB là tội phạm xảy ra phổ biến ở hầu hết các địa
phương và hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án về tội phạm này được VKSND các
cấp, đặc biệt là các VKSND cấp huyện thường xuyên thực hiện do phân cấp về thẩm

quyền. Chính vì thế, đây là đề tài được quan tâm nghiên cứu ở nhiều công trình, bài
viết khoa học điển hình như:
- Sách chuyên khảo:
+ “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra” do Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Tư pháp phát hành vào năm 2008. Với
phạm vi nghiên cứu bao quát về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của VKSND các cấp, công trình này đã có

2


những nội dung phân tích, làm rõ vai trò quan trọng của hoạt động kiểm sát KNHT
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung. Hoạt động kiểm sát KNHT các vụ
án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng cũng như các loại án khác không được
nghiên cứu cụ thể.
+ “Sổ tay Kiểm sát viên hình sự -Tập 1”, được VKSNDTC phát hành năm
2006. Đây là một công trình nghiên cứu khoa học vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa
có ý nghĩa về mặt thực tiễn sâu sắc, là cẩm nang, là nguồn tài liệu có tác dụng tham
khảo trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự nói chung và các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói
riêng của Kiểm sát viên các cấp, trong đó bao gồm việc tiến hành hoạt động kiểm sát
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB. Ngoài những chỉ dẫn cách thức
tiến hành hoạt động kiểm sát HNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB một
cách khái quát, quyển sách này không phân tích, làm rõ kết quả, hạn chế của hoạt
động này trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự trong thực tiễn.
- Luận văn Luật học:
+ “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trong hoạt động kiểm
sát việc khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường bộ”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học của Bùi Thị Hồng Anh năm 2010. Luận văn đã nghiên cứu về mặt
lý luận và thực tiễn vai trò của VKSND trong hoạt động kiểm sát KNHT các vụ

TNGTĐB tại địa bàn thành phố Hà Nội, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường vai
trò của VKSND đối với hoạt động này trong thời gian tới.
+ “Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ
thực tiễn tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Tuyên, Học viện khoa
học xã hội năm 2018. Luận văn đã tập trung nghiên cứu công tác kiểm sát điều tra
các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của
VKSND ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 2013 đến năm 2017, đánh giá những kết quả đã đạt
được, nguyên nhân của những kết quả đã đạt được và những mặt còn tồn tại, hạn chế,
đề xuất giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
sát điều tra đối với loại tội phạm này ở tỉnh Lạng Sơn.

3


Trong hai Luận văn trên, những nội dung nghiên cứu về kiểm sát KNHT các
vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB chưa thật sự sâu sắc và đầy đủ. Các quy định
pháp luật có liên quan về thẩm quyền, trình tự, thủ tục cũng như quy trình nghiệp vụ
của KSV khi tiến hành hoạt động này trên thực tế chưa được làm rõ.
- Bài viết khoa học:
+ “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường
trong các vụ tai nạn giao thông” của tác giả Tạ Thanh Bình được đăng trên Tạp chí
Kiểm sát số 13 (7/2011). Thông qua việc phân tích, làm rõ những hạn chế, vướng
mắc và nguyên nhân trong thực tiễn kiểm sát KNHT trong các vụ tai nạn giao thông
đường bộ, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
kiểm sát KNHT đối với các vụ tai nạn giao thông đường bộ nói chung, bao gồm cả
các vụ án hình sự và các vụ việc không có quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- “Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành khám nghiệm hiện trường các vụ
tai nạn giao thông đường bộ xảy ra vào ban đêm” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn
đăng trên Tạp chí Kiểm sát, Số 16/2017. Nội dung bài viết chia sẻ kinh nghiệm quý
báu khi tiến hành khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy

ra vào ban đêm mà không nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn
hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB.
Như vậy, có thể thấy rằng, kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB đã được quan tâm nghiên cứu với những phạm vi và mức độ khác nhau.
Tuy nhiên, hiện chưa có công trình, bài viết khoa học nào nghiên cứu khảo sát về thực
tiễn hoạt động kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn
quận Thủ Đức trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. Chính vì thế, Luận văn
này không trùng lặp với bất kỳ công trình, bài viết khoa học nào khác đã được công
bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ đặt ra khi nghiên cứu đề tài này là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như cơ sở pháp lý về hiện trường,
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB;
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và cơ sở pháp lý của công tác kiểm sát
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB;
- Khảo sát thực trạng, đánh giá hoạt động kiểm sát việc KNHT vụ án Vi phạm
Vi phạm quy định về TGGTĐB từ đó thấy được những ưu điểm, những mặt tích cực,
những vướng mắc, hạn chế để đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực trạng công tác kiểm sát

KNHT các vụ án về tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và thực trạng hoạt
động kiểm sát việc KNHT các vụ án về tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB (bao
gồm tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB quy định tại Điều 260 BLHS năm
2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS hiện hành) và tội phạm Vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại điều 202 Bộ
luật hình sự 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009) (Sau đây được gọi chung là tội
phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB.)
- Về không gian: Địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM.
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận triết học duy vật biện chứng Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, chính sách TTHS, về công tác kiểm sát được

5


thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả sử dụngcác phương pháp nghiên cứu
cụ thể như sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ quá trình
nghiên cứu đề thực hiện các nhiệm vụ và đạt được mụcđích nghiêncứu đề ra.
+ Phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình đối chiếu, so sánh số liệu
thực tiễn liên quan đến kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB để
đánh giá được tình hình có liên quan. Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng
để dối sánh quy định của pháp luật có liên quan đến kiểm sát KNHT với việc thực

hiện hoạt động này trên thực tế để nhận định, đánh giá những kết quả, hạn chế trong
kiểm sát KNHT các vụ án này ở phạm vi thời gian, không gian nghiên cứu.
+ Phương pháp thống kê được sử dụng nhằm thống kê số lượng các vụ TNGT,
số liệu khởi tố vụ án, khởi tố bị can, số liệu kiểm sát KNHT các vụ án này và các số
liệu khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp tổng kết thực tiễn được sử dụng nhằm làm rõ thực trạng áp
dụng, đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân trong kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên
địa bàn thuộc phạm vi nghiên cứu để đưa ra các giải pháp phù hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:Kết quả nghiên cứu của Luận văn này góp phần hoàn thiện
lý luận về kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB BPTG.
- Ý nghĩa thực tiễn:Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể giúp cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền tham khảo để vận dụng vào việc xây dựng, áp dụng pháp luật về
kiểm sát KNHT nói chung và kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB nói riêng, cũng như cân nhắc, thực hiện những giải pháp được đề cập trong
Luận văn để góp phần nâng cao hiệu quả kiểm sát KNHT trong các vụ án này. Ngoài
ra, Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học tập và nghiên
cứu về kiểm sát KNHT.

6


7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung của Luận văn được trình bày bố cục trong ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về khám nghiệm hiện trường và kiểm sát
khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ;
Chương 2: Quy định về kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ và thực tiễn trên địa bàn quận Thủ Đức;

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm sát khám nghiệm
hiện trường vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn
quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

7


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Một số vấn đề lý luận liên quan đến kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ
án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ
1.1.1.1. Khái niệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
Tham gia giao thông đường bộ là hoạt động thuộc về nhu cầu của đa số người
dân. Việc tuân thủ các quy định về tham gia giao thông không chỉ là đòi hỏi của Nhà
nước đối với mỗi cá nhân nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội mà còn góp phần hạn
chế những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra về người và tài sản. Theo đó, hành vi vi
phạm pháp luật về tham gia giao thông đường bộ tùy theo tính chất, mức độ nguy
hiểm sẽ bị áp dụng các biện pháp xử lý tương ứng. Trong trường hợp, hành vi đó thỏa
mãn các yếu tố cấu thành của tội phạm được quy định trong BLHS thì việc xử lý hành
vi đó phải thực hiện theo các quy định về tố tụng hình sự và hình sự hiện hành, cụ thể
là tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS năm
2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS hiện hành). Tội phạm này trước đây
được quy định quy định tại điều 202 Bộ luật hình sự 1999, được sửa đổi, bổ sung năm
2009 và Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 với tên gọi là tội Vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Sự thay đổi tên tội danh từ tội “Vi phạm

quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” trong các BLHS trước đây
thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” trong BLHS hiện
hành là phù hợp với quy định của Luật giao thông đường bộ, đồng thời bao quát được
các loại chủ thể vi phạm quy định do Luật giao thông đường bộ điều chỉnh có thể trở
thành chủ thể của tội phạm này. Những chủ thể đó bao gồm: người điều khiển phương

8


tiện giao thông và những chủ thể TGGTĐB khác như: người sử dụng phương tiện
TGGTĐB; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ.
Tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB được hiểu là hành vi của người có
năng lực trách nhiệm hình sự, được thực hiện với lỗi vô ý, xâm phạm đến an toàn
giao thông và phải bị xử lý hình sự. Theo quy định của BLHS hiện hành, tội phạm Vi
phạm quy định về TGGTĐB có những yếu tố cấu thành cụ thể như sau:
- Khách thể của tội phạm này là an toàn công cộng trong lĩnh vực giao thông
đường bộ. Trật tự đó nhằm đảm bảo an toàn giao thông vận tải, đảm bảo cho hoạt
động vận tải đường bộ được thông suốt, được tiến hành bình thường, và bảo vệ an
toàn tính mạng, sức khỏe của công dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của các tổ chức
và tài sản của công dân.
- Mặt khách quan của tội phạm này bao gồm hành vi, hậu quả và mối quan hệ
nhân quả, cụ thể:
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ. Hành vi tham gia giao thông đường bộ bao gồm: Điều khiển,
sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; điều khiển, dẫn dắt súc vật; đi
bộ trên đường bộ. Hành vi đó vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
được quy định tại Luật giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn của các cơ
quan có thẩm quyền.
Hậu quả: Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác.
Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vi phạm quy định về TGGTĐB là nguyên nhân

gây ra thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác.
- Chủ thể của tội phạm này là người tham gia giao thông đường bộ, bao
gồm: người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ;
người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ (Khoản 22 Điều 3 Luật
Giao thông đường bộ năm 2008). Người đó có khả năng nhận thức, khả năng điều
khiển hành vi, từ đủ 16 tuổi trở lên.
- Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các yếu tố lỗi, động cơ, mục đích. Trong
đó, khi nghiên cứu về tội phạm quy định về TGGTĐB, yếu tố động cơ, mục đích

9


trong mặt chủ quan không được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Riêng yếu tố lỗi
của người phạm tội này được xác định là lỗi vô ý. Người phạm tội này có thể có lỗi
vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả. Nói cách khác, người phạm tội tuy thấy trước
hành vi vi phạm quy định về TGGTĐB của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; hoặc
người phạm tội không thấy trước hành vi vi phạm quy định về TGGTĐB của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước
hậu quả đó.
Những phân tích nêu trên cho thấy, tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB
là một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS có những đặc điểm riêng phân biệt
với vi phạm pháp luật và các tội phạm khác.
Hiện trường trong vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng và hiện
trường VAHS nói chung chưa được quy định cụ thể trong BLTTHS. Tuy nhiên, trong
khoa học điều tra hình sự - ngành khoa học liên quan chặt chẽ với tố tụng hình sự đã xác định khái niệm về “hiện trường” như sau: “Hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát
hiện vụ việc mang tính hình sự” [49, tr.56]. Nơi xảy ra vụ việc mang tính hình sự
được hiểu là không gian, địa điểm đã xảy ra hành vi của con người làm phương hại
đến khách thể được luật hình sự bảo vệ. Tại nơi đó tồn tại những dấu vết, vật chứng
quan trọng nếu được phát hiện, khai thác tốt sẽ là cơ sở để tái hiện toàn bộ vụ việc đã

xảy ra. Nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự được hiểu là không gian, địa điểm
phát hiện những dấu vết, vật chứng, tử thi… phản ánh có vụ việc mang tính hình sự
đã xảy ra. Dấu vết, vật chứng, thông tin tài liệu tồn tại ở nơi này phản ánh các đối
tượng vật chất tham gia trong quá trình xảy ra vụ việc nên có ý nghĩa đối với hoạt
động điều tra.
Ngoài ra, khoa học điều tra hình sự cũng xác định rõ: “Vụ việc mang tính hình
sự là khái niệm dùng để chỉ những vụ việc mà khi xảy ra đã xâm phạm đến những
khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Do đó, vụ việc mang tính hình sự xảy ra bao
hàm cả những vụ án, những vụ tai nạn, những vụ tệ nạn xã hội” [49, tr.223]. Nói cách
khác, trong vụ việc mang tính hình sự có thể có hoặc không có tội phạm xảy ra.

10


Như vậy, theo lý luận khoa học điều tra hình sự, hiện trường là nơi xảy ra, nơi
phát hiện những vụ việc xâm phạm đến những khách thể được Luật hình sự bảo vệ
mà chưa xác định được là có có tội phạm xảy ra trong vụ việc đó hay không. Tùy
từng trường hợp, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ
án hình sự đối với vụ việc đó thông qua việc phát hiện, thu giữ, đánh giá những dấu
vết, phản ánh tại hiện trường. Lý luận này phù hợp với trình tự tố tụng hình sự, đặc
biệt là trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi
tố và giai đoạn điều tra VAHS.
Dựa vào khái niệm hiện trường trong khoa học điều tra hình sự và trình tự tố
tụng giải quyết VAHS, có thể nhận thức được rằng: Hiện trường VAHS là nơi xảy ra,
nơi phát hiện vụ án hình sự. Theo đó, hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB
được hiểu là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB.
Tương tự như các sự việc, hiện tượng khách quan khác, một hành vi phạm tội
Vi phạm quy định về TGGTĐB xảy ra sẽ tạo ra sự tác động lẫn nhau giữa các đối
tượng vật chất tồn tại trong không gian, địa điểm cụ thể, làm xuất hiện những dạng
phản ánh vật chất mà khoa học điều tra gọi là dấu vết hình sự. Những dấu vết hình sự

đó có đặc điểm là: “xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, thể hiện đặc điểm của
chúng trên các vật chất khác, tồn tại ở dạng vật thể và các chất cụ thể, biến đổi vật
chất vốn có. Dù hình thức tồn tại nào, phản ánh vậy chất cũng có thể được con người
tri giác trực tiếp như cầm cắm, sờ, mó, cân, đong , đo, đếm, quan sát hình dạng, kích
thước, màu sắc...”[49, tr.223]. Do đó, để điều tra, làm rõ tội phạm và người phạm tội
Vi phạm quy định về TGGTĐB, cơ quan và người có thẩm quyền không thể không
tiến hành các hoạt động điều tra tại hiện trường bởi mọi vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB đều có hiện trường và tại hiện trường của vụ án luôn tồn tại những phản
ánh vật chất có liên quan trực tiếp đến tội phạm và người phạm tội, đó là những dấu
vết hình sự.
Thực tiễn cho thấy, tại hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB
thường xuất hiện các dấu vết hình sự như: Dấu vết phanh, dấu vết máu, dấu vết vân
lốp xe, các loại dấu vết khác như: mảnh vỡ, bùn đất, sơn, kính, gỉ sắt, chất lỏng, hàng

11


hoá, vật liệu, vết cày xước trên đường... Thông thường, dấu vết hình sự nói chung
xuất hiện ở nơi diễn ra hành vi của chủ thể tác động, bao gồm: Địa điểm chuân bị tội
phạm, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội và địa điểm che dấu tội phạm. Riêng đối
với dấu vết hình sự của tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB thì chỉ tồn tại ở nơi
tội phạm được thực hiện hoặc nơi che giấu tội phạm (nơi phát hiện tội phạm) bởi tội
phạm này không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Mỗi dấu vết hình sự đều chứa đựng những lượng thông tin nhất định phản ánh
diễn biến, bản chất của vụ án. Do đó, việc phát hiện, thu thập, đánh giá dấu vết hình
sự thông qua hoạt động điều tra tại hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB
để phục vụ điều tra, làm rõ bản chất vụ việc là điều hết sức cần thiết.
1.1.1.2. Đặc điểm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
Với bản chất là là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ án Vi phạm quy định về

TGGTĐB, hiện trường trong các vụ án này có những đặc điểm sau:
- Hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là khoảng không gian, địa
điểm cụ thể, nơi đã diễn ra hành vi phạm tội Vi phạm quy định về TGGTĐB hoặc là
khoảng không gian, địa điểm cụ thể nơi đã phát hiện vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB.
Hiện trường nơi diễn ra hành vi phạm tội Vi phạm quy định về TGGTĐB là
khoảng không gian, địa điểm cụ thể trực tiếp diễn ra hành vi phạm tội và chịu sự tác
động của các đối tượng vật chất khác liên quan đến vụ án đó. Khoảng không gian, địa
điểm đó nằm trên trục đường giao thông đường bộ, có thể là đường quốc lộ, đường
tỉnh lộ, đường liên huyện hoặc liên xã…
Hiện trường nơi phát hiện vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là khoảng
không gian, địa điểm nơi phát hiện dấu vết, vật chứng, tử thi… phản ánh vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB đã xảy ra. Hiện trường đó có thể là nơi người phạm tội
thực hiện các hành vi che giấu tội phạm (che giấu tử thi, phương tiện giao thông của
người bị hại...), thường xảy ra trong trường hợp vụ án không có người làm chứng.

12


- Hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB chứa đựng hệ thống những
dấu vết, vật chứng liên quan đến vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB. Hệ thống dấu
vết, vật chứng này phản ánh đối tượng TGGTĐB và sự tác động của các đối tượng
này vào nhau và vào hiện trường.
- Hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB thường không nguyên vẹn
do các hoạt động cứu chữa người, tài sản và tác động của các yếu tố thời tiết, sự lưu
thông của người, động vật, các phương tiện giao thông khác...Vì thế, việc phát hiện,
lưu giữ dấu vết tại hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB gặp rất nhiều
khó khăn.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm khám nghiệm hiện trường vụ án vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ

1.1.2.1. Khái niệm khám nghiệm hiện trường vụ án vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ
Mối quan hệ giữa dấu vết hình sự và hiện trường vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB như đã phân tích cho thấy rằng: KNHT là hoạt động điều tra quan trọng
được tiến hành trong tất cả các vụ án có hiện trường, đặc biệt là các vụ án Vi phạm
quy định về TGGTĐB. Các nghiên cứu về KNHT đều chỉ ra rằng: Bản chất của hoạt
động KNHT là một hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự, do chủ thể có thẩm quyền
tiến hành nhằm nghiên cứu, ghi nhận, mô tả hiện trường; phát hiện, thu thập, đánh
giá các dấu vết, vật chứng, các tin tức, tài liệu liên quan tại hiện trường phục vụ cho
điều tra, xử lý tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB.
Thống nhất với nhận thức về KNHT nêu trên, kết hợp với những hiểu biết về
hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, tác giả cho rằng KNHT vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB được hiểu như sau:
Khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là hoạt động
điều tra hình sự do chủ thể có thẩm quyền tiến hành trong quá trình giải quyết các
vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, nhằm nghiên cứu, ghi nhận, mô tả hiện trường;
phát hiện, thu thập, đánh giá các dấu vết, vật chứng, các tin tức, tài liệu có liên quan
tại hiện trường, phục vụ cho việc khởi tố, điều tra tội phạm và người phạm tội.

13


1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động khám nghiệm hiện trường vụ án vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ
Là hoạt động điều tra được thực hiện trong quá trình giải quyết các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB, KNHT có những đặc điểm sau đây:
- Khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là hoạt động
điều tra được thực hiện trên cơ sở quy định chung của BLTTHS và các văn bản quy
pháp phạm luật có liên quan về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động
KNHT nói chung.

Hoạt động KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nhằm phát hiện,
thu thập, nghiên cứu đánh giá các dấu vết, vật chứng cũng như những thông tin vật
chất khác có trên hiện trường, phục vụ cho công tác điều tra, khám phá vụ án và phát
hiện xử lý người phạm tội Vi phạm quy định về TGGTĐB. Thông qua dấu vết, vật
chứng để lại ở hiện trường, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tiến hành mã hóa thông tin
để xác định rõ: đối tượng đã vi phạm quy định nào về TGGTĐB, mức độ lỗi của các
bên (lỗi trực tiếp, hỗn hợp lỗi), nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội.
Các chứng cứ thu được từ dấu vết, vật chứng thu được tại hiện trường là một trong
những cơ sở quan trọng để quyết định việc Khởi tố vụ án hình sự Vi phạm quy định
về TGGTĐB, làm rõ tội phạm và người phạm tội. Những sai sót trong hoạt động
KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB thường rất khó khắc phục, vì tính đặc
thù của hiện trường các vụ án này rất dễ bị biến đổi, tác động bởi nhiều yếu tố khách
quan khác nhau. Những dấu vết, vật chứng bị bỏ sót, không thu thập được sẽ bị mất
mát hoặc biến dạng, phân hủy khó hoặc không thể phục hồi được, dẫn đến việc lập
kế hoạch điều tra, định hướng điều tra thiếu chuẩn xác, gây khó khăn cho hoạt động
điều tra tội phạm.
- Hoạt động KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB được tiến hành bởi
những chủ thể có thẩm quyền và có thể có sự tham dự của các chủ thể khác. Mỗi chủ
thể đó có vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn riêng, cụ thể như sau:
+ Chủ thể tham gia KNHT bao gồm: Người chủ trì, lực lượng cán bộ chuyên
môn, KSV, người chứng kiến và người tham dự (nếu cần thiết), cụ thể:

14


Người chủ trì KNHT là người có chức danh tư pháp (Điều tra viên) được cơ
quan có thẩm quyền (CQĐT) phân công, có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, điều hành
việc KNHT, chịu trách nhiệm chính về hoạt động KNHT.
Lực lượng cán bộ chuyên môn bao gồm: Cán bộ Kỹ thuật hình sự, Cảnh sát
giao thông… Những chủ thể này trực tiếp tiến hành các thao tác chuyên môn, nghiệp

vụ để phát hiện, thu thập các dấu vết, vật chứng tại hiện trường, phát hiện, thu thập
dấu vết, vật chứng; chụp ảnh hiện trường; vẽ sơ đồ hiện trường; lập biên bản khám
nghiệm hiện trường...
KSV của VKSND có thẩm quyền thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các chủ thể nêu trên trong quá trình KNHT.
Người chứng kiến việc KNHT là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động KNHT, có trách nhiệm xác nhận
nội dung, kết quả công việc mà người có thẩm quyền đã tiến hành trong khi mình có
mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. Sự có mặt của
người chứng kiến trong khi KNHT là bắt buộc.
+ Chủ thể tham dự KNHT có thể là nhà chuyên môn, người phiên dịch, người
có liên quan đến vụ án như bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng. Những
người này tham dự việc khám nghiệm khi Cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy cần
thiết. Sự có mặt của những người này không phải là yêu cầu bắt buộc để đảm bảo tính
hợp pháp cho hoạt động KNHT.
Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của từng chủ thể tham gia KNHT được điều chỉnh
bởi BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến KNHT, trong đó
bao gồm các văn bản hướng dẫn về quy trình chuyên môn, nghiệp vụ trong KNHT
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB do các cơ quan hữu quan ban hành.
- Kết quả của hoạt động KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là
Biên bản KNHT.
Biên bản KNHT là tài liệu pháp lý, ghi nhận tình hình thực tế khách quan ở
hiện trường và kết quả KNHT bằng hình thức mô tả. Nội dung biên bản KNHT phải
đầy đủ, chính xác, khách quan và toàn diện, phù hợp với các tài liệu khác như sơ đồ

15


hiện trường, bản ảnh hiện trường, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu thu được tại
hiện trường. Biên bản KNHT được coi nguồn là chứng cứ chỉ khi được xác lập theo

trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
- Các chứng cứ thu được từ hoạt động KNHT có thể giúp nhận định có hay
không dấu hiệu tội phạm, làm cơ sở ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án và
căn cứ để chứng minh tội phạm cho quá trình điều tra sau này.
Với bản chất cùng những đặc điểm nêu trên, có thể khẳng định rằng KNHT là
một trong những hoạt động điều tra quan trọng trong quá trình giải quyết từng vụ án.
Từ những phân tích nêu trên, có thể khẳng định rằng: Hoạt động KNHT là
xuất phát điểm của mọi hoạt động điều tra, khám phá vụ án sau này. Với ý nghĩa đó,
Luật Tố tụng hình sự quy định trách nhiệm của CQĐT phải thông báo trước cho VKS
biết về việc khám nghiệm và trách nhiệm của KSV là phải có mặt tại nơi khám nghiệm
để kiểm sát việc KNHT nói chung và hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB nói riêng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.2.1. Khái niệm kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, với nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần
bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, VKSND thực hiện
hai chức năng Hiến định là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Mặc dù đây là hai chức năng riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ mật thiết và thống
nhất với nhau, cụ thể như sau:
Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện từ khi

16



giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS. Trong khi đó, kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt
động của VKSND nhằm kiểm tra, giám sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp ở các lĩnh vực khác nhau, nhằm
đảm bảo hoạt động tư pháp được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ,
chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải
được phát hiện nhằm khắc phục và xử lý nghiêm minh. Trong lĩnh vực hình sự, VKS
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân từ khi tiếp nhận tin
báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
cho đến khi thi hành án hình sự
Có thể thấy rằng, kết quả giải quyết VAHS phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng,
hiệu quả của các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền,
đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Mọi hành vi, quyết định tố
tụng trái pháp luật, không được thực hiện, ban hành một cách thận trọng, kịp thời đều
có thể dẫn đến khả năng gây oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Nói cách khác, kết quả của các
hành vi, quyết định tố tụng chính là những điều kiện cho thực hành quyền công tố có
hiệu quả và ngược lại. Do đó, nếu hoạt động kiểm sát không kịp thời phát hiện những
vi phạm, thiếu sót trong hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
để kịp thời khắc phục thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát. Chính vì thế, trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự, Viện kiểm sát không thể tách rời hoạt động thực hành quyền công tố với hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách
độc lập mà hai chức năng đó phải thực hiện song trùng và có sự tác động tương hỗ
lẫn nhau, nhằm đảm bảo việc giải quyết VAHS được tiến hành một cách kịp thời,
đúng pháp luật. Điều này phù hợp với quy định tại Điều 20 BLTTHS, đó là: “Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi
hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải
được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,


17


thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.”.
Những nhận thức về kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố
cũng như mối quan hệ giữa hai chức năng, hoạt động của Viên kiểm sát nêu trên là
yếu tố quan trọng giúp nghiên cứu một cách sâu sắc hơn về bản chất hoạt động kiểm
sát KNHT nói chung và kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ nói riêng. Theo đó, với vai trò là hoạt động điều tra được có quan,
người có thẩm quyền tiến hành trong quá trình giải quyết VAHS có hiện trường. Hoạt
động KNHT được kiểm sát bởi VKSND các cấp theo thẩm quyền. Hoạt động này
nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, góp phần đảm
bảo cho hoạt động KNHT được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ,
chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình KNHT phải được
phát hiện nhằm khắc phục và xử lý nghiêm minh. Hoạt động kiểm sát KNHT được
quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 201 BLTTHS hiện hành.
Từ nhận thức chung về hoạt động kiểm sát KNHT, có thể hiểu khái quát về
kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB như sau:
Kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là hoạt động của VKSND
các cấp theo thẩm quyền nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, trong
đó VKSND sử dụng những quyền năng do pháp luật quy định để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động KNHT các vụ
án Vi phạm quy định về TGGTĐB nhằm đảm bảo cho hoạt động KNHT được tiến
hành một cách kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật;
những vi phạm pháp luật trong quá trình KNHT được phát hiện nhằm khắc phục và
xử lý nghiêm minh.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Là một hoạt động nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong
quá trình giải quyết các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, kiểm sát KNHT các
vụ án này có những đặc điểm sau:

18


×