Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CUNG ỨNG DỊCH VỤ HÀNG KHÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.96 KB, 46 trang )

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN CUNG ỨNG DỊCH VỤ HÀNG KHÔNG
2.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2.1.1. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2002 - 2007
2.1.1.1. Tình hình sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
Việt Nam được đánh giá có nhiều ưu thế trong sản xuất hàng dệt
may với một nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ. Hoạt động
sản xuất hàng dệt may và sản xuất hàng dệt may xuất khẩu của Việt
Nam đã tồn tại từ rất lâu và ngày càng phát triển, thu hút nhiều thành
phần kinh tế tham gia. Tới năm 2007, cả nước có khoảng 2000 doanh
nghiệp dệt may và sử dụng khoảng 2 triệu lao động, sản xuất 1,8 tỷ sản
phẩm dệt may, với 65% dành cho hoạt động xuất khẩu. Trong đó, số
lượng các doanh nghiệp dệt may tập trung chủ yếu là ở thành phố Hồ
Chí Minh với 1400 doanh nghiệp. Hiện nay, toàn ngành có năng lực sản
xuất khoảng 10.000 tấn xơ bông, đáp ứng khoảng 5% nhu cầu; 50 ngàn
tấn xơ sợi tổng hợp, đáp ứng 30% nhu cầu; 260 nghìn tấn xơ sợi ngắn
đáp ứng 60% nhu cầu. Về dệt, sản xuất được 150 ngàn tấn vải dệt kim
đáp ứng 60% nhu cầu; vải dệt thoi 680 triệu m
2
, đáp ứng 60% nhu cầu.
(Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Công thương). Ngành
công nghiệp dệt may trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nước bởi không chỉ phục vụ được nhu cầu thiết yếu của con người mà
còn giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội, có thế mạnh xuất khẩu,
góp phần tăng trưởng kinh tế.
Đặc điểm của hoạt động sản xuất hàng dệt may xuất khẩu Việt
Nam hiện nay chủ yếu là “Cắt và may” để làm công ăn lương. Hàng dệt
may Việt Nam xuất khẩu chủ yếu theo hình thức gia công xuất khẩu chỉ
một phần nhỏ là xuất khẩu trực tiếp. Gia công xuất khẩu hàng dệt may
là hình thức công ty nước ngoài đặt hàng số lượng, kiểu mẫu và cung
cấp nguyên phụ liệu còn các doanh nghiệp Việt Nam nhận gia công sẽ


sử dụng lao động thực hiện công việc cắt, may thành sản phẩm dệt may
hoàn chỉnh, đóng gói và giao hàng cho khách hàng nước ngoài tiêu thụ.
Các doanh nghiệp Việt Nam được trả tiền công lao động với mức giá chỉ
bằng 20 – 25% giá thành sản phẩm. Gia công xuất khẩu hàng dệt may
là một lĩnh vực tương đối dễ đầu tư, cần ít vốn, không đòi hỏi lao động
tay nghề cao và được nợ các loại thuế nên có rất nhiều các doanh
nghiệp tham gia song hoạt động sản xuất hàng dệt may lại phụ thuộc
nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Theo Trung Tâm thông tin thương
mại (Bộ Công thương), để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu toàn ngành
phải nhập khẩu khoảng 90% bông và 70% sợi mỗi năm. Cụ thể, năm
2007 mặt hàng bông của nước ta nhập khẩu tăng 17% về lượng và
22,4% về trị giá so với năm 2006, đạt 212 nghìn tấn với trị giá 268 triệu
USD. Trong đó, Mỹ là thị trường cung ứng bông lớn nhất của Việt Nam
trong năm 2007 đạt 63,9 nghìn tấn, trị giá 81 triệu USD. Tiếp theo là các
thị trường Ấn Độ cung ứng 32,777 nghìn tấn, trị giá 40,171 triệu USD;
thị trường Đài Loan cung ứng 15,439 nghìn tấn, trị giá 18,822 triệu USD.
(Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Công thương, website:
/>Bảng 2.1: Kim ngạch nhập khẩu bông của Việt Nam theo thị trường
năm 2007
Thị trường Lượng (tấn) Kim ngạch (triệu USD)
Mỹ 63.952 81,090
Ấn Độ 32.777 40,171
Đài Loan 15.439 18,822
Thụy Sĩ 14.044 18,410
Anh 6.291 8,081
Brazil 5.102 6,977
Singapore 3.481 4,535
Trung Quốc 3.430 3,776
Pháp 3.016 3,729
Hàn Quốc 2.328 3,568

Úc 2.047 2,843
Đức 1.515 1,570
Nhật Bản 1.223 1,585
Bỉ 1.217 1,541
Nam Phi 1.188 1,663
Italia 953 0,843
Thổ Nhĩ Kỳ 726 0,529
Canada 660 0,480
(Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Công thương)
Về mặt hàng sợi, năm 2007 Việt Nam nhập khẩu 425 nghìn tấn
tăng 25,4% so với năm 2006 và đạt trị giá 744 triệu USD tăng 36,8% so
với năm 2006. Trong đó, Đài Loan là thị trường cung cấp sợi lớn nhất
cho Việt Nam, chiếm 46,7% tổng lượng sợi nhập khẩu với trị giá
312,505 triệu USD và 198.692 tấn; đứng thứ hai là thị trường Thái Lan
với 98,490 triệu USD và 63.156 tấn. (Nguồn: Trung tâm thông tin thương
mại – Bộ Công thương)
Bảng 2.2. Kim ngạch nhập khẩu sợi của Việt Nam theo thị trường
năm 2007
Thị trường Lượng (tấn) Kim ngạch (triệu USD)
Đài Loan 198.692 312,505
Thái Lan 63.156 98,490
Trung Quốc 47.113 100,436
Hàn Quốc 31.198 73,504
Malaysia 33.376 52,317
Indonesia 24.710 42,741
Ấn Độ 7.197 14,142
Hồng Kông 6.811 13,499
Nhật Bản 3.226 11,878
Nam Phi 796 3,360
Singapore 1.061 2,740

Italia 333 1,695
Pháp 73 1,141
Mỹ 583 0,576
Đức 99 0,254
(Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Công thương)
Trong những năm gần đây, hoạt động sản xuất hàng dệt may xuất
khẩu đã có những bước phát triển mới. Bên cạnh những lợi thế vốn có
như nguồn lao động dồi dào, các doanh nghiệp đã chủ động hơn trong
việc tìm kiếm và tạo ra những sản phẩm có tính khác biệt nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh, tạo ra những lợi thế so sánh cho sản phẩm dệt
may Việt Nam trên thị trường thông qua việc đẩy mạnh áp dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất. Đó là các mặt hàng xơ sợi tổng hợp lần
đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam của Công ty Formosa Industrial
(Đồng Nai), các mặt hàng sợi CLC xuất khẩu của Công ty Cổ phần
Thiên Nam (Bình Dương), sợi lõi co dãn của Công ty Tainan Spinning
(Đồng Nai)... các loại vải thun 4 chiều và đa chức năng của Tổng Công
ty dệt Hà Nội, Công ty Lan Trần, Công ty Cổ phần Dệt may Thành Công
TPHCM... Sản phẩm Corel xuất khẩu châu Âu của Công ty Scavi, nhóm
sản phẩm cao cấp của công ty Tổng Công ty May Việt Tiến, May 10,
Công ty Cổ phần Sài Gòn 2... Đây được coi là sự chuyển biến mạnh mẽ
của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
2.1.1.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua là một trong những
ngành có đóng góp lớn và ổn định vào mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu
của cả nước. Dệt may trong những năm qua trở thành ngành xuất khẩu
lớn thứ 2 của Việt Nam với tốc độ tăng trung bình 26% mỗi năm. Cụ
thể, kim ngạch xuất khẩu dệt may liên tục tăng mạnh qua các năm. Năm
2001, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 1,9754 tỷ USD đã tăng lên
2,7327 tỷ USD năm 2002 (tăng 38,33% so với năm 2001) và đạt 3,609
tỷ USD năm 2003 (tăng 32,06% so với năm 2002). Giai đoạn 2004 –

2006, mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng song có xu
hướng tăng chậm lại, năm 2004 đạt 4,3856 tỷ USD lên 4,8384 tỷ USD
năm 2005 (tăng 10,32% so với năm 2004) và đạt 5,834 tỷ USD năm
2006 (tăng 20,57% so với năm 2005). (Nguồn: Tổng cục thống kê: Xuất
nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi mới 1986 – 2005 và Trung
tâm Thông tin thương mại – Bộ Công thương)
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
giai đoạn 2001 – 4/2008
Năm
Kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may
(tỷ USD)
Tốc độ tăng
(%)
Tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng
hóa (tỷ USD)
Tỷ trọng xuất
khẩu hàng
dệt may (%)
2001 1,9754 - 15,029 13,14
2002 2,7327 38,33 16,706 16,35
2003 3,609 32,06 20,176 17,88
2004 4,3856 21.52 26,503 16,54
2005 4,8384 10,32 32,44 14,91
2006 5,834 20,57 39,605 14,73
2007 7,78 31,02 48,0 16,2
4/2008 2,545 - 18,4 -
Hình 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
giai đoạn 2001 – 4/2008

Đơn vị: Triệu USD
(Nguồn: Tổng cục thống kê: Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi mới
1986 – 2005 và Trung tâm Thông tin thương mại – Bộ Công thương)
Bước sang năm 2007, với những thách thức đặt ra khi Việt Nam gia
nhập WTO, ngành dệt may được đánh giá là ngành sẽ gặp phải rất
nhiều khó khăn. Với những nỗ lực từ phía nhà nước và các doanh
nghiệp, ngành dệt may đã từng bước vượt qua khó khăn đạt được mức
tăng trưởng cao và trở thành mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn
nhất. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2007 đạt 7,78 tỷ USD
tăng 31,02% so với năm 2006 và chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Tính tới tháng 4/2008, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt
2,545 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2007. Với những thành tích
đạt được, hàng dệt may Việt Nam hiện ngày càng được củng cố trên thị
trường thế giới, đưa Việt Nam đứng trong danh sách 10 quốc gia và
vùng lãnh thổ có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới chỉ
sau Trung Quốc, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Mexixo, Hồng Kông,
Bangladesh và xấp xỉ bằng Indoneisia và Mỹ.
2.1.2.3. Chủng loại sản phẩm xuất khẩu
Các sản phẩm dệt may xuất khẩu của nước ta nhìn chung khá đa
dạng về chủng loại và phù hợp với nhu cầu của thị trường. Các sản
phẩm xuất khẩu chủ yếu là : áo jacket, quần, áo sơ mi, áo thun, áo
khoác, quần short, quần áo trẻ em, quần áo thể thao, váy, quần áo sợi
acrylic, áo len, quần jean, áo nỉ, bít tất, găng tay… Trong đó, mặt hàng
áo thun là mặt hàng có giá trị kim ngạch cao nhất năm 2007 đạt 1,535 tỷ
USD tăng 62,41% so với năm 2006 và chiếm 19,74% tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may của toàn ngành. Đứng thứ hai là mặt hàng
quần dài đạt 1.3551 tỷ USD tăng 27% so với năm 2006, chiếm 17,37%
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Tiếp theo là mặt hàng áo
Jacket đạt 1,120 tỷ USD tăng 28,76% so với năm 2006 và chiếm 14,4%
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Ngoài các mặt hàng xuất khẩu

chính, kim ngạch của các mặt hàng quần short, váy, quần áo trẻ em,
quần áo ngủ, găng tăy, khăn, quần jean, áo nỉ, bít tất có tốc độ tăng
trưởng cao từ 47,3% - 175,56%. Đặc biệt năm 2007, hàng dệt may Việt
Nam bắt đầu xuất khẩu mặt hàng quần áo y tế bước đầu đạt 13,426
triệu USD chiếm 0,17% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may.
(Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Công thương)
Bảng 2.4: Kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam
năm 2007
Mặt hàng
Kim ngạch xuất
khẩu năm 2006
(triệu USD)
Kim ngạch xuất
khẩu năm 2007
(triệu USD)
Tốc độ tăng trưởng
năm 2007 so với
năm 2006
(%)
Áo thun 945,47 1535,52 62,41
Quần dài 1063,97 1351,29 27,0
Áo Jacket 870,36 1120,69 28,76
Áo sơ mi 417,13 465,21 11,52
Áo khoác 289,50 368,24 27,20
Quần short 214,00 354,99 47,30
Váy 197,06 321,21 63,0
Quần áo trẻ em 131,83 259,92 97,16
Quần áo ngủ 40,72 69,46 70,56
Găng tay 28,98 60,05 107,17
Khăn 12,44 33,80 171,59

Quần Jean 11,34 31,25 175,56
Áo nỉ 16,62 26,24 57,90
Bít tất 7,52 14,89 97,98
(Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Công thương)
Hình 2.2: Cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam qua các năm
Năm 2006
Năm 2007
(Nguồn:Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Công thương)
2.1.1.4. Cơ cấu thị trường xuất khẩu
Hàng dệt may Việt Nam hiện có mặt tại hơn 100 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới, trong đó phần lớn là xuất khẩu sang các thị trường lớn
“khó tính” như Mỹ, EU, Nhật Bản. Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng dệt
may lớn nhất của Việt Nam hiện nay chiếm trên 50% thị phần hàng dệt
may xuất khẩu với kim ngạch tăng trưởng mạnh từ mức 1034,5 triệu
USD năm 2002 lên 1998 triệu USD năm 2003 tăng 93,13% so với năm
2002; năm 2004 đạt 2474,4 triệu USD tăng 23,84% so với năm 2003.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ tăng nhẹ đạt
2602 triệu USD tăng 5,15% so với năm 2004. Năm 2007, kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ gặp khó khăn trong những
tháng đầu năm, liên tiếp nhiều đơn đặt hàng bị hủy bỏ do Mỹ áp dụng
cơ chế giám sát đối với hàng dệt may Việt Nam song với những giải
pháp hợp lý xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ năm này đạt kết quả cao
với kim ngạch 4470 tỷ USD tăng 46,84% so với năm 2006.(Nguồn: Trích
Bảng 2.5)
Bảng 2.5: Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang một số
thị trường
Đơn vị: Triệu USD
Năm Mỹ EU Nhật Bản Đài Loan
2002 1034,5 546 484,9 208,8
2003 1998 537,1 474 171,4

2004 2474,4 760 531 200,5
2005 2602 882,8 603,9 191
2006 3044 1243 627 181
2007 4470 1449 703 -
(Nguồn: Tổng cục thống kê: Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi mới
1986 – 2005 và Trung tâm Thông tin thương mại – Bộ Công thương)
EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ hai của Việt Nam.
Đây là thị trường luôn được coi là truyền thống và tiềm năng của hàng
dệt may xuất khẩu Việt Nam, có nhu cầu hàng dệt may đa dạng, từ sản
phẩm cấp thấp đến chất lượng cao, nên rất phù hợp với năng lực sản
xuất nhiều thành phần của Việt Nam. Trong những năm gần đây, xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đều duy trì mức tăng trưởng
khá. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu vào EU chỉ đạt 546 triệu USD và
giảm xuống còn 537,1 triệu USD vào năm 2003. Năm 2006 là năm đánh
dấu sự tăng trưởng và phát triển của hàng dệt may Việt Nam tại thị
trường EU với kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, đạt 1,243 tỷ USD
tăng 40,8% so với năm 2005. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may sang EU đạt 1449 triệu USD tăng 16,57% so với năm 2006. Hàng
dệt may Việt Nam xuất khẩu vào hầu hết các nước thành viên của Liên
minh Châu Âu (EU) từ các thành viên cũ như Đức, Anh, Pháp… tới các
thành viên mới Séc, Áo, BaLan, Hungary.. trong đó Đức là thị trường
nhập khẩu lớn nhất trong khối. Điều này đã cho thấy, sự tăng trưởng
của hàng dệt may Việt Nam là trên toàn bộ thị trường EU mà không tập
trung vào một số thị trường đồng thời cũng khẳng định năng lực cạnh
tranh của hàng dệt may Việt Nam tại EU.
Nhật Bản là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ ba của Việt
Nam. Đây là một thị trường có nhiều quy định trong hoạt động nhập
khẩu hàng hóa đặc biệt là quy định về xuất xứ sản phẩm. Hàng dệt may
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản khá ổn định tăng từ mức
484,9 triệu USD năm 2001 lên 627 triệu USD năm 2006 và đạt 703 triệu

USD năm 2007 tăng 12,12% so với năm 2006.( Nguồn: Trích bảng số
liệu 2.5)
Hình 2.3: Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
năm 2002- 2007
Năm 2002 Năm 2007
(Nguồn: Tổng hợp, tính toán Trung tâm thông tin thương mại – Bộ
Công thương)
Năm 2007 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của ngành dệt may Việt
Nam. Lần đầu tiên, dệt may trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất vượt
mức xuất khẩu dầu thô. Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu hàng dệt may
lớn nhất của Việt Nam đạt 4,47 tỷ USD chiếm 57,45% tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may, tiếp đó là EU chiếm 18,62%, Nhật Bản chiếm
9,03% và các thị trường khác là 14,9%. Điều này cho thấy, Mỹ vẫn là thị
trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất và tiềm năng của Việt Nam
trong thời gian tới.
2.1.2. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2.1.2.1. Những kết quả đạt được
- Dệt may trở thành một ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn với tốc
độ tăng trưởng khá nhanh bình quân 26%/năm, chiếm từ 13 -17% tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước. Các doanh nghiệp gia
công xuất khẩu hàng dệt may đã có đóng góp rất lớn cho kim ngạch
xuất khẩu của cả nước, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động và
góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ. Năm 2007, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ
của hàng dệt may Việt Nam khi đứng đầu danh sách các mặt hàng xuất
khẩu đạt kim ngạch lớn nhất. Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may
lớn nhất thế giới và cũng là thị trường xuất khẩu số 1 của hàng dệt may
Việt Nam chiếm từ 50 – 60% tỷ trọng thị trường xuất khẩu, có ảnh
hưởng chi phối rất lớn tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, xuất khẩu hàng dệt

may có nhiều thuận lợi vì được bãi bỏ chế độ hạn ngạch. Tuy nhiên tại
thị trường Mỹ, Việt Nam bị áp đặt cơ chế giám sát ngặt nghèo khiến cho
hoạt động xuất khẩu hàng dệt may những tháng đầu năm 2007 gặp
nhiều khó khăn. Với những hướng đi hợp lý, Hiệp hội dệt may Việt Nam
và các doanh nghiệp đã tiến hành kiểm soát chặt lượng hàng, không để
hàng ồ ạt vào Mỹ nhất là những cat nhạy cảm đồng thời hướng sản
xuất xuất khẩu ở thị trường này vào những cat khó làm giá trị tăng cao.
Do đó, hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong năm qua đã
mang lại những kết quả lớn cho nền kinh tế Việt Nam đặc biệt là tại thị
trường Mỹ.
- Chất lượng sản phẩm dệt may xuất khẩu ngày càng nâng cao.
Hàng dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công xuất khẩu theo mẫu mã,
chủng loại sản phẩm do bên đặt gia công yêu cầu và nhận phí gia công
thông qua lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ. Vì vậy,
chất lượng của sản phẩm dệt may chủ yếu được đánh giá thông qua
nguyên vật liệu, phụ kiện cho ngành dệt may, mẫu mã và chất lượng
nguồn lao động. Trong những năm gần đây bên cạnh việc tìm kiếm, lựa
chọn nguồn nguyên liệu nhập khẩu đạt chất lượng cao phục vụ cho hoạt
động sản xuất xuất khẩu hàng dệt may, Hiệp hội dệt may Việt Nam và
các doanh nghiệp dệt may đã chủ động tăng dần tỷ lệ nội địa hóa trong
sản phẩm dệt may xuất khẩu, tức tăng dần việc sử dụng nguồn nguyên
liệu trong nước phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng dệt may. Nếu như
năm 2003, tỷ lệ nội địa hóa mới đạt khoảng 30% thì năm 2007 đã đạt
40%, đặc biệt là khâu sản xuất vải và phụ liệu.(Nguồn: Hiệp hội dệt may
Việt Nam,www.vietnamtextile.org.vn) Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
cũng bắt đầu đi sâu vào thiết kế sản phẩm dệt may để tăng giá trị gia
công xuất khẩu đồng thời từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm
chuyển dần từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
- Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may ngày càng chủ động
và tích cực mở rộng và phát triển thị trường nâng cao thị phần hàng dệt

may Việt Nam trên thế giới. Bên cạnh việc khai thác các thị trường lớn
và truyền thống (Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU), các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng dệt may đã ngày càng tìm kiếm, mở rộng thêm các thị trường mới
tiềm năng đồng thời đã có nhiều cố gắng trong việc đa dạng hóa thị
trường nên kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng cao, phần lớn các thị
trường đều tăng trưởng trong đó các thị trường có mức tăng trưởng cao
như: Thổ Nhĩ Kỳ (tăng trên 500%), Nam Phi (tăng 400%), Achentina
(tăng 60%), Canada (tăng 35%)….(Nguồn: Tạp chí công nghiệp Việt
Nam tháng 1/2008)
- Hoạt động xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường được quan
tâm và phát triển hơn trước, Hiệp hội dệt may Việt Nam đóng vai trò
quan trọng trong việc quảng bá sản phẩm dệt may Việt Nam ra thị
trường thế giới, tổ chức triển lãm hội chợ quốc tế trong và ngoài nước
nhằm tìm kiếm đối tác kinh doanh, nhanh chóng thu thập, cung cấp
thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa….
2.1.2.2. Những mặt hạn chế
- Công nghiệp phụ trợ của ngành dệt may Việt Nam hiện quá yếu.
Lâu nay Việt Nam vẫn chưa chủ động được nguồn cung cấp với giá cả
hợp lý, ổn định và sẵn có để phục vụ sản xuất và gia công xuất khẩu.
Ngành dệt may hiện phải nhập khẩu hầu hết nguyên phụ liệu cho sản
xuất: nhập khẩu bông là 90%, xơ sợi tổng hợp nhập gần 100%, hóa
chất thuốc nhuộm và máy móc thiết bị nhập gần 100%, vải 70%, sợi trên
50%, phụ liệu may khoảng 50% từ Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Không,
chỉ có một lượng nhỏ là nguyên liệu trong nước song chi phí khá cao tác
động lớn tới khả nảng cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu. Mặc
dù, trong những năm gần đây Việt Nam đã tăng dần tỷ lệ nội địa hóa
trong hoạt động sản xuất xuất khẩu hàng dệt may để tăng giá trị nhưng
thực tế cho thấy Việt Nam đang khó khăn lớn trong vấn đề này khi
ngành trồng bông và dệt hiện nay không được tái đầu tư nhiều do lợi
nhuận xuất khẩu hàng dệt may không cao.(Nguồn: Trung tâm thông tin

thương mại – Bộ Công thương)

×