Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ THANH TOÁN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.5 KB, 30 trang )

LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ THANH TOÁN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và vai trò dịch vụ thanh toán Ngân hàng Thương mại.
1.1.1. Khái niệm chung về dịch vụ thanh toán
“Dịch vụ thanh toán” là một khái niệm kết hợp giữa yếu tố chung là “Dịch vụ”
với yếu tố đặc thù là “Thanh tốn”. Vì vậy để hiểu dịch vụ thanh toán cần phải làm rõ
về Dịch vụ.
Dịch vụ là một hoạt động mà sản phẩm của nó là vơ hình. Nó giải quyết mối
quan hệ giữa người cung ứng với khách hàng hoặc với tài sản do khách hàng sở hữu mà
khơng có sự chuyển giao quyền sở hữu.
Dịch vụ là một hoạt động xã hội đã xảy ra trong mối quan hệ trực tiếp giữa
khách hàng và đại diện của tổ chức cung ứng
Còn theo ISO 8402: Dịch vụ là kết quả tạo ra do các hoạt động tiếp xúc trực tiếp
giữa người cung ứng và khách hàng và các hoạt động nội bộ của người cung ứng để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng.
Thanh toán (TT) là tổng thể các hoạt động thực hiện nghĩa vụ chi trả hoặc quyền
được chi trả hoặc cả hai trong q trình thực hiện các giao dịch có liên quan đến tiền tệ.
Cần phân biệt hai lĩnh vực thanh toán là Thanh toán Mậu dịch và Thanh toán Phi
mậu dịch. Thanh toán mậu dịch là hoạt động thanh tốn phát sinh từ quan hệ thương
mại. Nó thực hiện nghĩa vụ phải chi trả của người mua và quyền nhận chi trả của người
bán. Thanh toán phi mậu dịch là thực hiện chi trả mà không xuất phát từ quan hệ
thương mại. Ví dụ thanh tốn từ một cơ quan cấp trên cho cơ quan cấp dưới theo quan
hệ cấp phát, hay như thanh toán ngân sách nhà nước cho các địa phương, hay thanh
toán tiền trợ cấp...
Thanh toán có thể được thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Thanh toán
trực tiếp là việc thực hiện quyền và nghĩa vụ chi trả một cách trực tiếp giữa hai chủ thể
trong giao dịch tiền tệ mà ở đó khi thực hiện một nghĩa vụ chi trả thì ngay lập tức, đồng
thời thực hiện quyền được chi trả cho chủ thể khác. Thanh toán gián tiếp là hoạt động
thanh tốn được thực hiện thơng qua một hay nhiều bên thứ ba, chủ yếu là thông qua
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tiêu biểu là Ngân hàng thương mại.



1.1.2. Dịch vụ thanh toán ngân hàng
Dịch vụ thanh toán Ngân hàng là: Dịch vụ mà Ngân hàng Thương mại cung cấp
cho khách hàng để thực hiện quyền nhận chi trả hoặc/và nghĩa vụ phải chi trả trong các
giao dịch có liên quan đến tiền tệ, theo đó ngân hàng sẽ đại diện cho khách hàng thực
hiện nghĩa vụ chi trả thay; thực hiện quyền được chi trả; hoặc là trung gian chi trả cho
các chủ thể trong quan hệ kinh tế.
Những lợi ích của việc thanh tốn qua ngân hàng đối với cả ngân hàng và khách
hàng là rất rõ ràng. Cũng như thương mại đã chia sẻ những khó khăn và lợi nhuận với
nhà sản xuất, ngân hàng thương mại cũng đã chia sẻ những khó khăn, tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên trong các giao dịch phát sinh qua đó mang lại lợi nhuận cho bản
thân ngân hàng là cơ sở trước tiên cho sự tồn tại và phát triển ngày càng đa dạng của
các dịch vụ thanh tốn ngân hàng.
1.1.3. Q trình cung cấp dịch vụ thanh toán của NHTM.
Dịch vụ thanh toán của Ngân hàng thương mại cũng giống như sản phẩm hiện
vật của các doanh nghiệp sản xuất, chỉ được coi là hoàn thiện khi nó được khách hàng
sử dụng và trả tiền. Tức là, q trình cung cấp dịch vụ thanh tốn bắt đầu từ nhu cầu
khách hàng và kết thúc khi khách hàng tiếp nhận dịch vụ. Để thực hiện quá trình này
các Ngân hàng thương mại phải sử dụng một hay một số phương tiện thanh toán theo
một hay một số phương thức thanh toán nhất định
1.1.3.1.Các phương tiện thanh toán:
 Tiền mặt

Tiền là một phương tiện thanh toán cơ bản nhất. Nó ra đời là một tất yếu của sự
phát triển kinh tế xã hội của Nhân loại. “Tiền (Money) là bất cứ cái gì được chấp nhận
một cách rộng rãi cho việc chi trả đối với hàng hoá, dịch vụ hoặc là trả nợ”. Thuật ngữ
“tiền” theo định nghĩa này là sự mở rộng mà theo đó Séc, tiền gửi thanh tốn có thể
phát séc cũng được coi xem là tiền. Trong phạm vi nghiên cứu tiền được hiểu là tiền
mặt (Curency) bao gồm tiền giấy (Paper money) tiền kim loại (Coin) là những loại tiền
pháp định do Ngân hàng nhà nước phát hành và được Pháp luật đảm bảo cho khả năng

chi trả trong các giao dịch có liên quan đến tiền tệ.
Tiền mặt là một phương tiện trao đổi (Medium of Exchange) có ý nghĩa to lớn
đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Từ những hình thái giá trị ban đầu giản


đơn, nhu cầu trao đổi và sự phát triển của nền sản xuất hàng hố hình thái tiền đã ra đời.
Tiền ra đời đã mang ba chức năng cơ bản là Phương tiện trao đổi, Đơn vị đo lường, Cất
trữ trong đó phương tiện trao đổi nổi bật lên với sự tiện lợi trong các giao dịch của nền
kinh tế.
 Séc (cheque)

Theo Công ước Geneva năm 1931: “Séc là một lệnh trả tiền vô điều kiện do một
khách hàng của ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài
khoản của mình ở ngân hàng đó để trả cho người cầm séc hoặc cho người được chỉ định
trên séc”
Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) định nghĩa “Séc là một Hối phiếu hoặc một lệnh
ký phát cho ngân hàng hay một nhà ngân hàng có mục đích rút một số tiền gửi để chi
trả cho một người có tên trên đó hoặc theo lệnh của người này hoặc cho người cầm
phiếu và trả ngay khi yêu cầu”
Luật các công cụ chuyển nhượng của Việt nam: “Séc là một giấy tờ có giá do
người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trích một số tiền nhất
định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người hưởng”.
 Hối phiếu

Hối phiếu là một lệnh trả tiền vô điều kiện được lập bằng văn bản do một người
(gọi là người ký phát) gửi đến một người khác yêu cầu người này khi nhìn thấy hối
phiếu phải trả tiền ngay hoặc đến một ngày cụ thể hoặc đến một ngày có thể xác định
được trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho người có tên trên tờ phiếu hoặc
theo lệnh của người này hoặc cho người cầm phiếu”.

Theo luật các công cụ chuyển nhượng năm 2006 của Việt Nam, Hối phiếu được
chia làm hai loại: Hối phiếu địi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu
người bị ký phát thanh tốn khơng điều kiện một số tiền nhất định khi có yêu cầu hoặc
vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng; Hối phiếu nhận nợ là
giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh tốn khơng điều kiện một số tiền
xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ
hưởng.
 Lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi


Là phương tiện thanh toán mà người trả tiền lập ra dưới dạng lệnh thanh toán
theo mẫu do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định, gửi cho tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh tốn nơi mình mở tài khoản u cầu tổ chức đó trích một số tiền nhất
định trên tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng.
 Ủy nhiệm thu

Uỷ nhiệm thu hoặc nhờ thu: là phương tiện thanh toán mà người thụ hưởng lập
lệnh thanh toán theo mẫu do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định, gửi cho tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh tốn uỷ thác thu hộ mình một số tiền nhất định.
 Thẻ thanh toán ngân hàng

Thẻ thanh toán là phương thức ghi sổ những số tiền cần thanh tốn thơng qua
máy đọc thẻ phối hợp với hệ thống mạng máy tính kết nối giữa Ngân hàng/ Tổ chức tài
chính với các điểm thanh tốn (Merchant). Nó cho phép thực hiện thanh tốn nhanh
chóng, thuận lợi và an toàn đối với các thành phần tham gia thanh tốn.
Khơng chỉ là một phương tiện thanh tốn, thẻ thanh tốn ngân hàng cịn được
xem là một cơng cụ tín dụng hiệu quả và phổ biến, theo đó “Thẻ ngân hàng là một cơng
cụ tín dụng do tổ chức tài chính phát hành và cấp cho khách hàng, trong đó dành quyền
cho khách hàng có thể dùng nó nhiều lần để rút tiền mặt cho mình hoặc ra lệnh rút tiền
trên tài khoản tại tổ chức phát hành để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị

chấp nhận thẻ”.
Với những đặc điểm riêng có, thẻ thanh tốn có những lợi điểm sau:
-

Tính tiện lợi: là một cơng cụ tài chính nhưng khơng phải là tiền, thẻ ngân hàng thay thế
cho tiền mặt thực hiện chức năng lưu thơng. Đặc biệt trọng lĩnh vực thanh tốn quốc tế,
nó giúp thanh toán tại bất cứ điểm nào trên thế giới một cách thuận tiện mà khơng cần
có tiền mặt, séc và không hề phụ thuộc vào quy mô số tiền mang theo.

-

Nhanh chóng và an tồn: Người sử dụng có thể tiếp cận với tài khoản ngân hàng bằng
cách tiếp cận hệ thống thanh toán, chuyển tiền điện tử, điển hình như ATM, thơng qua
hệ thống thanh tốn điện tử này, người dùng có thể thực hiện nhiều nghiệp vụ như rút
tiền mặt, chuyển khoản, nạp tiền vào tài khoản, tín dụng thẻ… điều đó giúp cho thẻ
thanh tốn trở thành một phương tiện thanh tốn nhanh chóng. Khơng chỉ có vậy, nhờ
kỹ thuật điện tử mã hố, bảo mật tiên tiến thông tin người dùng, thông tin tài khoản


được đảm bảo bí mật. Nhờ khơng phải mang tiền mặt theo người sử dụng thẻ có thể
đảm bao an toàn cho người dùng trước rủi ro mất mát.
 Thư tín dụng

Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được Ngân hàng mở theo yêu
cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng), theo đó Ngân
hàng thực hiện u cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín
dụng) để:
-

Trả tiền hoặc uỷ quyền cho Ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ

hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín
dụng; hoặc

-

Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc uỷ quyền cho Ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của người
thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất
trình phù hợp với các điều kiện thanh tốn của thư tín dụng.
1.1.3.2. Các phương thức thanh tốn cơ bản
Phương thức thanh tốn là tồn bộ q trình, cách thức thực hiện nghĩa vụ chi trả
hoặc quyền được chi trả thơng qua những phương tiện thanh tốn nhất định để hoàn
thành các giao dịch thương mại hoặc các giao dịch có liên quan đến tiền tệ khác. Trong
hoạt động thanh tốn trong nước cũng như quốc tế, có nhiều phương thức khác nhau.
VD: (1) Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remit Hand/Transfer); (2) Phương thức
thanh toán nhờ thu (Collection of Payment); (3) Phương thức thanh tốn tín dụng chứng
từ (Documentary Credit)... Mỗi phương thức sở đắc những ưu điểm nhưng cũng tồn tại
những nhược điểm. Tuỳ thuộc vào mức độ tin cậy giữa các bên trong giao dịch, tuỳ
thuộc vào tính chất và đặc thù của các giao dịch mà có thể lựa chọn các phương thức
khác nhau. Để lựa chọn một phương thức thanh tốn nào đó, người ta phải đối mặt với
sự đánh đổi giữa phí tổn thấp và an toàn. Một sự kết hợp giữa mức độ tin cậy và phí tổn
cho ta một phương thức. Có thể có những sự kết hợp như sau:
Bảng 1.1. Đặc điểm các phương thức thanh toán cơ bản
Sự tin cậy
Cao
Trung bình
Thấp

Phương thức
Ghi thu tự do: Bằng séc, chuyển
khoản, thương phiếu...

Nhờ thu
Tín dụng chứng từ

Phí tổn
Thấp
Trung bình
Cao


Các chủ thể có thể lựa chọn các phương thức thanh tốn khác nhau tuy nhiên có
thể thấy sự tham gia của các ngân hàng vào quá trình này là cần thiết và là sự phân tán
rủi ro cho các chủ thể. Bù lại các chủ thể giao dịch phải bù đắp cho ngân hàng mức phí
tương xứng.
1.1.3.3. Hệ thống thanh toán ngân hàng
Hệ thống thanh toán NH: Là hệ thống được tổ chức theo quy tắc, điều kiện và
tiêu chuẩn chung về thanh toán trên cơ sở thoả thuận hoặc quy định giữa tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh tốn chủ trì hệ thống và các thành viên trực tiếp nhằm thực hiện việc
chuyển giao và quyết toán các nghĩa vụ thanh toán giữa các thành viên.
Hệ thống thanh tốn là yếu tố vơ cùng quan trọng để tạo ra chất lượng dịch vụ
cho mỗi đơn vị thanh toán trong đó. Nó liên kết các Ngân hàng hoặc các đơn vị của nội
bộ một ngân hàng trong việc thực hiện thanh toán.
Hiện nay, ở Việt Nam đang tồn tại 5 kiểu hệ thống thanh toán:
Thứ nhất: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được thiết kế theo giải
pháp tập trung hoá tài khoản, mỗi ngân hàng thành viên chỉ mở và sử dụng một tài
khoản duy nhất tại Ngân hàng Nhà nước. Các giao dịch thanh toán được thực hiện qua
hệ thống bù trừ điện tử trực tiếp.
Thứ hai: Hệ thống chuyển tiền điện tử (CTĐT) liên ngân hàng do NHNN tự xây
dung và vận hành trước khi có hệ thống TTĐTLNH. Đây là hệ thống chuyển tiền điện
tử trong nội bộ NHNN, được thiết kế theo giải pháp tài khoản phân tán, nghĩa là mỗi
chi nhánh của các NHTM tham gia hệ thống này bắt buộc phải mở tài khoản thanh toán

tại chi nhánh NHTM cùng địa bàn.
Thứ ba: Hệ thống thanh toán bù trừ (TTBT) tại tỉnh, thành phố do chi nhánh
Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố chủ trì. Hệ thống này đang hoạt động ở hai cấp độ
kỹ thuật khác nhau. Một số tỉnh, thành phố thực hiện chuyển lệnh thanh toán bằng các
thiết bị điện tử (bù trừ điện tử), số tỉnh còn lại vẫn thực hiện bù trừ giấy theo phương
pháp thủ công, hai phiên giao dịch một ngày. Phần lớn các lệnh thanh toán được bù trừ
trong địa bàn. Những khoản thanh tốn ngồi địa bàn sẽ phải chuyển qua hệ thống
CTĐT để thực hiện (ba hệ thống nay do NHNN quản lý và điều hành).


Thứ tư: Các hệ thống thanh toán điện tử của các NHTM. Các hệ thống này được
thiết lập khi các NHM chưa tổ chức được hệ thống Corbanking tập trung hoá tài khoản.
Cách thức thiết kế kỹ thuật, phương pháp hạch tốn và vận hành có khác nhau nhưng
nội dung thực hiện đều là chuyển các lệnh thanh toán trong nội bộ mỗi NHTM, từ chi
nhánh về Hội sở chính hoặc từ chi nhánh này đến chi nhánh khác.
Thứ năm: Hệ thống chuyển tiền quốc tế (S.W.I.F.T), thường gọi là hệ thống
thanh toán quốc tế. Đây mới chỉ đơn thuần là hệ thống chuyển tiền quốc tế, vì đến thời
điểm này, tại Việt nam chưa có hệ thống thanh quyết toán vốn (Settlement) cho hệ
thống chuyển tiền này.
Gần đây Ngân hàng Nhà nước vừa xây dung một hệ thống thanh toán thẻ liên
ngân hàng – Banknet, Tham gia vào hệ thống thanh tốn thẻ này các ngân hàng có thể
cung cấp cho khách hàng một sự tiện lợi. Khách hàng có thể thực hiện các giao dịch
thanh tốn thẻ từ bất cứ máy rút tiền tự động của bất cứ ngân hàng nào trong hệ thống.
Lợi ích của các ngân hàng là có thể tiết kiệm chi phí cho việc mở rộng mạng lưới ATM;
Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thanh toán thẻ; chia sẻ dữ liệu, thông tin
đảm bảo an ninh ngân hàng… Tuy nhiên các ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều
vấn đề về quản lý khách hàng và phân định trách nhiệm; vấn đề lỗ hổng thông tin và sự
tấn công của tội phạm cơng nghệ cao.
Hệ thống thanh tốn ra đời đầu tiên là hình thái các ngân hàng là đại lý của nhau
trong việc thực hiện. Khi nhu cầu của khách hàng càng phát triển, để đáp ứng yêu cầu

các ngân hàng buộc phải hình thành một mạng thanh tốn rộng khắp. Mặc dù vậy, nó
vẫn chỉ ở dạng thoả thuận giữa các ngân hàng trong việt chi trả mà không có một tổ
chức điều hành cụ thể. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng là địa điểm (place), thời gian,
sự tiện lợi cho khách hàng, tính an tồn cho các giao dịch thanh tốn và từ đó hệ thống
thanh tốn hồn thiện được hình thành với một tổ chức đứng ra làm người điều hành.
Người điều hành của hệ thống có thể là Trụ sở chính của một ngân hàng, Ngân hàng
trung ương hay tổ chức phi ngân hàng độc lập tiêu biểu là SWIFT. Với hệ thống hoàn
chỉnh như vậy, các ngân hàng có cơ sở để xây dựng các chỉ tiêu chất lượng sẽ được
phân tích trong các phần sau.
1.1.4. Vai trị của dịch vụ thanh tốn


 Đối với các doanh nghiệp.
Sự ra đời tất yếu của các dịch vụ thanh toán của NHTM đã thể hiện tầm quan
trọng, vai trị của dịch vụ thanh tốn đối với các chủ thể trong nền kinh tế:
-

Các chủ thể của các giao dịch không phải mất những điều kiện cần thiết để thực hiện
thanh tốn trực tiếp.

-

Khơng nhất thiết phải sử dụng tiền mặt vì vậy có thể giảm đi các chi phí khơng cần
thiết.

-

Tránh được nhiều rủi ro tài chính trong thanh tốn trực tiếp.

-


Các chủ thể kinh tế ở phạm vi địa lý xa nhau vẫn có thể đảm bảo được tính an tồn của
thanh tốn ngay cả khi khơng có đầy đủ thơng tin về đối tác của mình trong giao dịch.

 Đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng hiện đại ngày nay không chỉ tập trung vào các
dịch vụ truyền thống. Các dịch vụ hiện đại ngày càng được quan tâm và dần chiếm tỷ
trọng về thu nhập trong lĩnh vực ngân hàng. Ngày nay, Thanh toán là một chức năng
quan trong của ngân hàng thương mại, nó đang dần chiếm một vị trí quan trọng trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng cụ thể:
-

Mang lại mức doanh thu, lợi nhuận trong tổng doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng.
Thực tế cho thấy xu hướng ngày càng tăng về vai trị của dịch vụ thanh tốn.

-

Phát triển dịch vụ thanh toán trở thành chiến lược khách hàng, chiến lược thị trường của
các ngân hàng. Thông qua hệ thống dịch vụ thanh toán các ngân hàng xác lập được vị
thế của mình trên thị trường.

-

Là cơng cụ góp phân tạo sự an tồn trong kinh doanh ngân hàng: Đây là mảng nghiệp
vụ ít rủi ro hơn so với tín dụng truyền thống. Việc gia tăng hoạt động dịch vụ thanh tốn
giúp ngân hàng khơng bị phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực nhiều rủi ro khác nhu tín dụng
dài hạn.

-


Dịch vụ thanh tốn cịn là một phần khơng thể thiếu trong chiến lược cung ứng dịch vụ
chọn gói cho khách hàng. Là điều kiện để khách hàng có thể thoả mãn với đầy đủ các
dịch vụ đáp ứng mọi yêu cầu.

-

Là một lĩnh vực yêu cầu sự thay đổi và ứng dụng cơng nghệ hiện đại chính vì thế mà nó
là mơi trường để cho cơng nghệ ngân hàng phát triển làm tiền đề để hiện đại hoá ngân
hàng.


1.2. Các dịch vụ thanh toán chủ yếu của Ngân hàng Thương mại
Về cơ bản, nội hàm của khái niệm “dịch vụ thanh toán ngân hàng” đã được luận
chứng. Phần này tác giả xin làm rõ ngoại diện của Khái niệm bằng việc trình bày những
dịch vụ thanh tốn cơ bản của một ngân hàng thương mại:
1.2.1. Cung ứng các loại hình tài khoản tiền gửi thanh tốn
Sự ra đời của tài khoản tiền gửi thanh toán (Demand Deposit) đánh dấu một
bước phát triển quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tài khoản tiền gửi là
tài khoản thanh toán do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các Ngân hàng với
mục đích gửi, giữ tiền hoặc thực hiện các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng bằng các
phương tiện thanh toán. TKTG yêu cầu ngân hàng phải thanh toán ngay lập tức các chỉ
thị của khách hàng cho một cá nhân, tổ chức hoặc cho một bên thứ ba được chỉ rõ là
người hưởng thụ trong các chứng từ giao dịch. Do tính chất linh hoạt mà tài khoản tiền
gửi có nhiều tiện ích:
Về phía ngân hàng: Giúp thu hút được nhiều nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn
nhàn rỗi tạm thời phục vụ cho hoạt động chi trả kể cả là cho vay; Nhiều dịch vụ đi kèm
với nó ngày càng xuất hiện nhiều đem lại nguồn thu có xu hướng ngày càng tăng; Giúp
thuận tiện cho dịch vụ cơ bản khác của ngân hàng như tín dụng – thu lãi, gốc vay tự
động khi đến thời hạn từ TKTGTT...
Về phía khách hàng: Thuận tiện trong thanh tốn mà khơng dùng trực tiếp tiền

mặt; Xố đi những chi phí và bất tiện của việc giữ tiền; Có thể được hưởng lãi - đối với
loại hình tiền gửi hưởng lãi...
Có nhiều cách thức để phân loại các loại hình tiền gửi thanh tốn.
- Theo từng đối tượng khách hàng, tài khoản tiền gửi có thể mở theo các hình
thức sau đây:
(1) Tài khoản tiền gửi của tổ chức: là tài khoản mà chủ tài khoản là người đại
diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền của tổ chức mở tài khoản.
(2) Tài khoản tiền gửi của các đồng chủ tài khoản: là tài khoản có ít nhất hai
người trở lên cùng đứng tên mở tài khoản. Đồng chủ tài khoản có thể là cá nhân hoặc
người đại diện hợp pháp của Tổ chức.


(3) Tài khoản tiền gửi của cá nhân: Là tài khoản mà chủ tài khoản là một cá nhân
độc lập đứng tên mở tài khoản.Tiền gửi giao dịch tạo tiền đề cho sự ra đời nhiều dịch
vụ mới sau này và nó giúp cải thiện đáng kể hiệu quả của q trình thanh tốn.
- Theo tính chất của TKTG tiền gửi thanh tốn bao gồm tiền gửi khơng hưởng lãi
và tài khoản hưởng lãi. Mục đích của tài khoản tiền gửi thanh toán là phục vụ cho các
hoạt động thanh tốn của khách hàng, lãi xuất khơng phải là đặc trưng bản chất của nó.
Tuy nhiên trong cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng và giữa NH và các tổ chức tín
dụng khác đã làm xuất hiện một hình thức thu hút tiền gửi thanh toán của các NH bằng
cách trả lãi cho các khoản tiền gửi thanh toán kể các không kỳ hạn. Việc xuất hiện tài
khoản tiền gửi thanh tốn có hưởng lãi ban đầu cũng có nhiều tranh cãi. Từng có quan
điểm cho rằng trả lãi làm tằng rủi ro cho hoạt động ngân hàng. Nhìn vào thực tế có thể
thấy TK tiền gửi có hưởng lãi cũng có hàm chứa vấn đề. Xuất phát từ tính chất khơng
ổn định của tiền gửi thanh tốn cùng với lãi tiền gửi làm cho dự báo về khối lượng
nguồn vốn và nhu cầu chi trả trở lên khó đo lường. Thêm nữa là kỳ hạn tiềm năng của
tiền gửi thanh tốn cũng là ngắn nhất và khó dự báo nhất.
1.2.2. Dịch vụ thanh toán bằng Séc (Cheque, Check)
Định nghĩa: Công ước Genever định nghĩa về Séc là một lệnh trả tiền vô điều
kiện do một khách hàng của ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng phục vụ mình trích một

số tiền nhất định từ tài khoản của mình tại ngân hàng đó để trả cho người cầm Séc,
người được chỉ định trên Séc.
Tại Việt Nam, Séc là là phương tiện thanh tốn do người ký phát lập dưới hình
thức chứng từ theo mẫu in sẵn, lệnh cho người thực hiện thanh tốn trả khơng điều kiện
một số tiền nhất định cho người thụ hưởng. Trong đó "Người ký phát" là người lập và
ký tên trên séc để ra lệnh cho người thực hiện thanh tốn thay mặt mình trả số tiền ghi
trên séc; "Người thực hiện thanh toán" là tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nơi
người ký phát được sử dụng tài khoản thanh toán với một khoản tiền để ký phát séc
theo thoả thuận giữa người ký phát với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh tốn đó; "Người
được trả tiền" là người mà người ký phát chỉ định có quyền hưởng hoặc chuyển nhượng
quyền hưởng đối với số tiền ghi trên tờ séc; "Người thụ hưởng" là người cầm tờ séc mà
tờ séc đó: a) Có ghi tên người được trả tiền là chính mình; hoặc b) Không ghi tên người


được trả tiền hoặc ghi cụm từ "Trả cho người cầm séc"; hoặc c) Đã được chuyển
nhượng bằng ký hậu cho mình thơng qua dãy chữ ký chuyển nhượng liên tục.
Sơ đồ 1.1. Dịch vụ thanh toán bằng Séc của ngân hàng
Các quan hệ làm phát sinh thanh toán bằng séc
Ngân hàng đối tác ghi có TK
Nhận Séc từ đối tác KH
Nhận séc từ NH đại lý
Trích nợ TK TGTT của KH
Thanh toán (Tiền mặt, chuyển khoản)

NGÂN HÀNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ (1)
Khách hàng của Ngân hàng
Ngân hàng 2
Ngân hàng 3
..................
Đối tác của khách hàng

1
4
2
4’
3
3’

Cung ứng tài
khoản phát séc
và séc trắng

5

Thanh tốn bù
trừ

(Nguồn: Quy trình dịch vụ thanh tốn của Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt)
(1) Dịch vụ thanh toán bằng Séc bắt đầu bằng việc phát hành Séc trắng và tài khoản TGTT

cho khách hàng.


(2) Khách hàng của NH phát sinh các quan hệ giao dịch với đối tác (có thể là Quan hệ mậu

dịch hoặc Quan hệ phi mậu dịch) dẫn đến thanh toán bằng séc. Tại đây khách hàng của
NH ký phát séc chuyển tới đối tác của mình.
(3) Ngân háng nhận séc từ đối tác của khách hàng hoặc từ ngân hàng phục vụ đối tác khách

hàng (NH 2,3...).
(4) Ngân hàng trích nợ tài khoản KH, trả tiền mặt cho khách hàng, hoặc chuyển tiền tới NH


đại lý.
(5) NH có thể thực hiện thanh tốn bù trừ thơng tại Trung tâm thanh toán bù trừ.

1.2.3. Dịch vụ chuyển tiền trong nước và quốc tế (remittance, remise).
Chuyển tiền là dịch vụ theo đó ngân hàng nhận lệnh chi, uỷ nhiệm chi từ khách
hàng và tiến hành ghi có cho người ghi danh, theo chỉ thị hợp pháp của khách hàng trên
lệnh chi.
Sơ đồ 1.2.Quá trình cung ứng dịch vụ chuyền tiền của NHTM

NGÂN HÀNG THANH TOÁN
Khách hàng của Ngân hàng
Ngân hàng 2
Ngân hàng 3
..................
Đối tác của khách hàng
NH nhận lệnh, UNC...
TT liên ngân hàng
Các quan hệ giao dịch
Ngân hàng đối tác ghi có TK
Trích nợ TK TGTT của KH

2
1
3

4
5



(Nguồn: Quy trình dịch vụ thanh tốn của Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt)
(1) Dịch vụ chuyển tiền phát sinh từ quan hệ giao dịch của khách hàng với đối tác của họ.

Thông thường hai bên đi đến các phương thức thanh toán như: Phương thức chuyển
tiền, Chuyển khoản liên NH trong nước và quốc tế...
(2) Ngân hàng nhận lệnh chuyển tiền, uỷ nhiệm chi (UNC) từ khách hàng.
(3) NH kiểm tra điều kiện thanh toán, chứng từ và ghi nợ TK khách hàng, gửi báo nợ, giấy

báo đã thanh toán.
(4) NH cung ứng dịch vụ ra lệnh chuyển tiền cho ngân hàng đại lý trả tiền cho người

hưởng: Nếu chuyển tiền trong nước, việc ra lệnh chuyển tiền thực hiện thơng qua chủ
yếu là hệ thống thanh tốn nội bộ, liên ngân hàng, thanh toán bù trừ... Nếu chuyển tiền
quốc tế có thể sử dụng: Mạng thanh tốn SWIFT, tellex, thư báo...
(5) Ngân hàng cung ứng trả tiền cho người hưởng (thường chỉ trong nước); Ngân hàng đại

lý trả tiền cho người hưởng.
1.2.4. Thanh toán nhờ thu, uỷ nhiệm thu (collection of payment)
Nhờ thu, Uỷ nhiệm thu là một dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng theo
đó ngân hàng nhận sự uỷ nhiệm của khách hàng thu hộ số tiền cho khách hàng trên cơ
sở hối phiếu hoặc hoá đơn giao hàng. Khi khách hàng sử dụng dịch vụ nhờ thu sẽ có hai
trường hợp là Nhờ thu phiếu trơn, Nhờ thu chứng từ. Nhờ thu phiếu trơn là hình thức
nhờ thu mà ngân hàng chỉ nhận lệnh nhờ thu sau khi khách hàng đã chuyển hàng còn
chứng từ làm bằng chứng của việc giao hàng sẽ được chuyển tới cho người mua. Nhờ
thu chứng từ là khách hàng của NH lập bộ hồ sơ về hàng hoá và hối phiếu chuyển tới
ngân hàng, ngân hàng sẽ thông báo trực tiếp (trong nước) hoặc thông qua ngân hàng đại
lý thông báo cho người mua trả tiền. Khi việc trả tiền được thực hiện bộ chứng từ mới
được giao cho người mua để người mua lấy hàng.
Như vậy, dịch vụ này được cung cấp cho các bên có quan hệ mậu dịch. Nó có thể
áp dụng trong phạm vi trong nước hoặc quốc tế.



Ngân hàng cung cấp dịch vụ nhờ thu chỉ đóng vai trị là người trung gian thanh
tốn để hưởng hoa hồng trong đó có nhận giữ bộ chứng từ nhờ thu mà không bị giàng
buộc trách nhiệm phải kiểm tra chứng từ cũng như giấy nhờ thu có được người mua
chấp nhận thanh tốn hay khơng.
Tại Việt Nam, dịch vụ nhờ thu được khách hàng sử dụng nhiều chủ yếu cho những
khoản thanh toán phát sinh thường xuyên số lượng dự đoán được như thanh toán tiền
điện, tiền nước...


Sơ đồ 1.3.Quy trình cung cấp dịch vụ thanh tốn nhờ thu, ủy nhiệm thu
Quan hệ thương mại
(có thoả thuận sử dụng
TT bằng UNT)

NGÂN HÀNG THANH TOÁN
NGƯỜI MUA
NGƯỜI BÁN

NGÂN HÀNG THU HỘ
Người bán chuyển hàng, lập bộ chứng từ

1
2
Chuyển chứng từ cho NH thu hộ (CT tài chính, CT thương mại)
Kiểm tra tính hợp lệ của UNT, Khả năng TT của KH và thu tiền từ người mua

4


5

Chuyển tiền trả NH thu hộ

Mạng TT liên NH
Chuyển chứng từ cho NH phục vụ người mua hưởng hoa hồng.

3

(Nguồn: Quy trình dịch vụ thanh toán của Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt)
Trường hợp NH đóng vai trị là NH phục vụ người mua (NH thanh toán):
Bắt đầu bằng việc tiếp xúc khách hàng xác định nhu cầu của khách hàng có thể có
những tư vấn về việc sử dụng dịch vụ nhờ thu. Khi khách hàng chấp nhận quan hệ với
Ngân hàng NH mở/ hoặc không cần mở tài khoản thanh toán cho khách hàng. Dịch vụ
nhờ thu trong nước hiện nay ở Việt Nam bắt buộc khách hàng phải có tài khoản tiền gửi
thanh toán.


Việc kiểm tra tính hợp lệ của chứng từ là việc kiểm tra cách thức, quy cách lập,
tính đúng về bề mặt của chứng từ mà không được/phải kiểm tra tính khớp đúng của
chứng từ trên cơ sở hợp đồng thương mại hay các chứng từ liên quan khác. Với nhờ thu
trong nước, thanh toán phải được thực hiện khi thoả mãn hai điều kiện: (1) Bộ chứng từ
hợp lệ; (2) Giữa người bán và người mua có thoả thuận sử dụng phương thức UNT
thường được thể hiện rõ trên hợp đồng thương mại.
Khả năng thanh toán của người mua: Nếu người mua khơng đủ tiền để thanh tốn
NH thơng báo tới người mua (KH của mình) đồng thời thơng báo tới người hưởng
thông qua ngân hàng nhờ thu; Lưu chứng từ chờ khi người mua có đủ tiền/hoặc trả lại
người hưởng nếu có yêu cầu.
Với tư cách là NH thu hộ (NH phục vụ người bán): NH kiểm tra tính hợp lệ của
CT, đóng dấu ký tên lên UNT rồi chuyển đến NH thanh toán. Nếu việc thanh toán thực

hiện NH ghi có cho tài khoản người bán. Khơng thanh tốn NH phải thơng báo, trả
chứng từ cho người hưởng.
1.2.5. Dịch vụ thanh tốn tín dụng chứng từ.
Đây là một dịch vụ phổ biến trong hoạt động xuất nhập khẩu. Nó đảm bảo an tồn
cho các bên tham gia trên cơ sở uy tín của các ngân hàng. Tuy vậy dịch vụ này cũng
hồn tồn có thể cung ứng cho các khách hàng có quan hệ thương mại nội địa.
Là một dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng theo đó Ngân hàng (Issuing
Bank) đáp ứng những yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở TDT) phát hành một
Tín dụng thư trong đó cam kết/hay cho phép một nhờ thu khác (NH phục vụ người
nhập) chi trả hoặc chấp thuận những yêu cầu của người xuất khẩu theo đúng những
điều kiện, chứng từ thanh toán và các điều kiện thanh tốn phù hợp với thư tín dụng.
Mục đích của tín dụng chứng từ là để trả tiền cho người xuất khẩu chứ không phải
là để chuyển tiền. Người yêu cầu lại là người nhập khẩu còn người hưởng lại là người
xuất khẩu.


Sơ đồ 1.4.Q trình thực hiện thanh tốn

8

Xuất trình bộ
chứng từ và
nhận hàng
NGƯỜI NHẬP
KHẨU

NGƯỜI
VẬN
CHUYỂN


4
Chuyển hàng và
nhận vận đơn.

1
NH tiếp xúc KH
yêu cầu mở L/C

NGƯỜI XUẤT
KHẨU

7

5
3

NH Nhận
thu tiền và
giao bộ
chứng từ.

NGÂN HÀNG PHỤC
VỤ NGƯỜI NHẬP

Thơng
báo L/C

2

Phát hành tín dụng thư


3

NH nhận
bộ chứng
từ/ Thanh
toán.

NGÂN HÀNG PHỤC
VỤ NGƯỜI XUẤT

Xác nhận L/C

6 Chuyển bộ CT để thanh
tốn bồi hồn

(Nguồn: Quy trình dịch vụ thanh toán của Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt)
Những vấn đề cơ bản đối với NH phục vụ người xuất khẩu:
Tại bước (2) trong quá trình, NH phục vụ người xuất (gọi tắt là NHX) phải tiếp
nhận L/C, kiểm tra tính xác thực của L/C. Điều quan trọng là làm thế nào để kiểm tra
được tính xác thực. Vấn đề này hết sức quan trọng. Nó ảnh hưởng đến vấn đề chất
lượng thanh toán: L/C nhận được dưới dạng thư, điện có mã khố hoặc chữ ký uỷ
quyền từ ngân hàng đại lý. Các loại điện giao dịch có mã hoặc thư có chữ ký uỷ quyền
từ ngân hàng đại lý nước ngồi thường là:(1) Thư tín dụng/Sửa đổi thư tín dụng LC; (2)
Thư/điện địi hồn trả thanh tốn theo LC; (3) Thư/điện từ chối bộ chứng từ thanh toán;
(4) Thư/điện thông báo kỳ hạn nợ và số tiền nhận nợ; (5) Lệnh chỉ dẫn thanh toán/sửa
đổi chỉ dẫn thanh toán.
Điện đến bằng telex: điện đã qua bộ phận Mật mã có dấu “Mã khố đã được kiểm
tra đúng” - “Test correct” được đóng dấu và có chữ ký cán bộ phụ trách công tác Mật
mã.



Điện đến bằng SWIFT: Bức điện nhận được hoàn chỉnh, đầy đủ, khơng có những
ghi chú về mã khố SWIFT như Authentication failure, unauthenticated, old key hoặc
những chú giải có nghĩa tương tự.
Đối với thư phải có xác nhận của cán bộ Bộ phận Mật mã bằng cụm “Chữ ký uỷ
quyền hợp lệ và có hiệu lực”.
Tại bước (5) nhận bộ chứng từ và thanh toán: trước khi thanh toán tiền cho người
xuất khẩu, NHX phải kiểm tra tính xác thực bề mặt của chứng từ. Việc kiểm tra này
thực hiện theo quy định của UCP với những nguyên tắc cơ bản: (1) Các chứng từ thể
hiện trên bề mặt của chúng mâu thuẫn với nhau sẽ được coi như không phù hợp với các
điều khoản và điều kiện của LC. (2) Ngân hàng không kiểm tra chứng từ không quy
định trong LC. Nếu nhận được chứng từ như vậy, ngân hàng sẽ trả lại cho người xuất
trình hoặc chuyển tiếp mà khơng chịu trách nhiệm gì. (3) Ngân hàng phát hành, ngân
hàng xác nhận (nếu có), hoặc ngân hàng được chỉ định hành động thay mặt họ, mỗi
ngân hàng như vậy sẽ có một thời gian hợp lý, nhưng không vượt quá 7 ngày làm việc
của ngân hàng kể từ ngày nhận chứng từ, để kiểm tra chứng từ và quyết định có chấp
nhận hay từ chối bộ chứng từ và thơng báo cho bên xuất trình chứng từ về quyết định
của mình. (4) Nếu LC có quy định điều kiện mà khơng quy định chứng từ phải xuất
trình thì ngân hàng sẽ bỏ qua điều kiện đó.
Chứng từ bất đồng: Bất đồng ở đây có nghĩa là sự không khớp đúng bề mặt của
bất cứ một chứng từ nào trong bộ chứng từ được nêu trong L/C so với nội dung của L/C
theo những nguyên tắc của những quy tắc chung như UCP, ULB,...
Nếu các bất đồng có thể sửa chữa được thì đề nghị khách hàng tự chỉnh ngay. Nếu
các bất đồng không thể sửa chữa được, NH tiến hành thông báo cho NH phát hành. Nếu
NH phát hành chấp nhận những bất đồng thì các hoạt động được tiếp tục. Nếu NH phát
không chấp nhận bất đồng thì phải thơng báo ngay cho khách hàng chờ chỉ thị của
khách hàng.
Giữa khách hàng và NH phục vụ người xuất cũng thể có trường hợp NH phát hiện
những bất đồng nhưng khách hàng không đồng ý với những bất đồng đó. Khi đó NH

phải bảo lưu ý kiến của khách hàng theo đó khách hàng chịu mọi vấn đề với những bất
đồng đó.


1.2.6. Dịch vụ thanh toán thẻ
Cung dịch vụ thanh toán bằng thẻ ngân hàng bắt đầu bằng việc phát hành thẻ
thanh toán. Tuỳ thuộc theo quy định của từng quốc gia, từng ngân hàng, điều kiện và
thủ tục được cung ứng thẻ thanh toán là khác nhau, đặc biệt là đối với những hình thức
thẻ tín dụng. Khi điều kiện để cung ứng thẻ được đáp ứng, Ngân hàng sẽ mở một tài
khoản (Có thể là tài khoản thanh tốn – Demand Deposit Account hoặc tài khoản tín
dụng hoặc hình thái kết hợp). Đồng thời, phát hành một thẻ điện tử giúp khách hàng để
điều hành, quản lý tài khoản của mình.
Chủ thể tham gia quá trình cung ứng dịch vụ thanh toán thẻ:
Các chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng dịch vụ:
(1) Ngân hàng phát hành thẻ: là ngân hàng cung ứng dịch vụ, cung cấp tài khoản
và phát hành thẻ;
(2) Khách hàng là người đề nghị và được đáp ứng và được sử dụng thẻ thanh toán
ngân hàng theo những quy chuẩn, quy định về việc sử dụng và hạn mức thanh toán nhất
định. Về mặt lý thuyết, khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán thẻ có thể là cá nhân,
cũng có thể là tổ chức. Tuy nhiên, hiện nay thẻ thanh toán được sử dụng chủ yếu bởi
các cá nhân.
(3) Ngân hàng thanh toán thẻ: là những ngân hàng tham gia vào quá trình thanh
toán nhưng chỉ với tư cách là người trung gian thanh toán giữa người sử dụng thẻ và
ngân hàng phát hành thẻ. Ngân hàng thanh toán thẻ được hưởng hoa hồng, cung cấp các
dịch vụ đại lý cho ngân hàng phát hành.
(4) Người chấp nhận thẻ: là người hưởng giá trị thanh tốn trong q trình thanh
tốn. Người chấp nhận thẻ là người bán hàng, dịch vụ, là người nhận tiền, ngân hàng
thanh toán, ngân hàng đại lý.
(5) Trung tâm thanh toán bù trừ là tổ chức giữ quyền trung tâm trong hệ thống
thanh tốn thẻ, TTTT Bù trừ có thể do Ngân hàng mẹ, Ngân hàng Nhà nước, Ngân

hàng, Tổ chức tài chính quốc tế chủ trì. Trung tâm này sẽ là người cung ứng các dịch vụ
về viễn thông, thông tin; ban hành các quy định chung cho hoạt động thanh toán, bù trừ,
phát hành các dịch vụ thẻ mới; tiến hành bù trừ giữa các thành viên tham gia hệ thống.
Sơ đồ 1.5. Quá trình cung ứng dịch vụ thanh toán thẻ


2

Hành vi mua của Chủ thẻ
làm phát sinh chấp nhận thẻ

CHỦ THẺ

NGƯỜI CHẤP
NHẬN THẺ

1

3

Phát hành thẻ
(Kiểm sóat yếu
tố an tồn)

Chấp nhận thẻ và cung ứng
dịch vụ

8
Chủ thể thực
hiện nghĩa vụ

với NHPHT

NGÂN
HÀNG PHÁT
HÀNH THẺ

Ghi Nợ cho
NH phát hành
thẻ và Báo nợ

7b

4

5

Truyền dữ
liệu về
khoản thanh
tóan

Ghi chú cho
NCNT và
ghi nợ Tạm
ứng TTT
Truyền dữ
liệu về trung
tâm bù trừ 6

TRUNG

TÂM
THANH
TỐN BÙ
TRỪ

NGÂN
HÀNG
THANH
TỐN THẺ

7a

Ghi chú và
thơng báo cho
NHTTT

(Nguồn: Quy trình dịch vụ thanh tốn của Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt)
Bước 1: Ngân hàng phát hành thẻ thanh tốn xem xét đề nghị, tính hợp pháp của
người u cầu, kiểm sốt các yếu tố an tồn đối với hoạt động thanh toán. Yêu cầu chất
lượng tại giai đoạn này là Yếu tố an toàn, hợp pháp của chủ thể đăng ký. Khi các yêu
cầu phát hành thẻ được kiểm soát, tiền phát hành thẻ trên cơ sở mở tài khoản tiền gửi
thanh toán hoặc thực hiện cho vay tín dụng.
Bước 2: Chủ thể có tiến hành mua hàng hố, dịch vụ trong đó thoả thuận sử dụng
phương thức thanh toán bằng thẻ thanh toán. Trong giai đoạn này, chất lượng của dịch
vụ thanh tốn khơng xuất hiện trực tiếp. Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ thanh toán của
ngân hàng lại ảnh hưởng lớn tới quyết định của người bán, người chấp nhận thẻ. Nếu
chất lượng tốt việc mua hàng theo hình thức thanh tốn bằng thẻ sẽ dễ dàng hơn. Đặc


biệt nếu việc thanh toán bằng thẻ của Ngân hàng đã từng có sự cố rủi ro dù là rất nhỏ

quyết định chấp nhận thẻ có thể khơng thực hiện được.
Bước 3: Người chấp nhận thẻ kiểm tra tính hợp pháp của thẻ, kiểm tra hạn mức
thanh toán… và tiến hành chấp nhận thẻ bằng các phương tiện điện tử. Các phương tiện
hỗ trợ cập nhật dữ liệu, hoặc in hoá đơn… ghi nhận việc thanh toán bằng thẻ của chủ
thể. Chất lượng thanh toán trong giai đoạn này thể hiện ở tính thanh khoản – hạn mức
thanh tốn, tính an tồn và bảo mật thơng tin, tiện ích của thẻ.
Bước 4: Chuyển dữ liệu điện tử hoặc giấy tới ngân hàng thanh tốn. Ngân hàng
thanh tốn khơng nhất thiết phải là ngân hàng trung gian mà nếu là ngân hàng phát hành
thẻ thì việc thanh tốn cịn tiện lợi hơn. Các ngân hàng theo luật, quy tắc chung đưa ra
một thời gian chuyển dữ liệu tới ngân hàng thanh tốn. Bảo mật, an tồn và thời gian là
tiêu chí quan trọng để xem xét chất lượng của dịch vụ. Việc truyền dữ liệu bằng chứng
từ sẽ mất nhiều thời gian và bị gián đoạn và thêm nữa là những rủi ro chứng từ. Thay
vào đó các ngân hàng cung ứng hệ thống chuyển dữ lêịu điện tử giúp cho đơn vị chấp
nhận thẻ có thể tiến hành một cách nhanh chóng.
Bước 5: Thanh tốn cho người chấp nhận thẻ. Khi kiểm tra dữ liệu hợp lệ, hợp
pháp Ngân hàng thanh toán tiến hành thanh toán cho Người chấp nhận thẻ nằng cách
ghi có cho người chấp nhận thẻ và ghi nợ khoản tạm ứng thanh toán cho ngân hàng phát
hành thẻ. Kiểm soát chứng từ, dữ liệu điện tử chính xác và an tồn là điều kiện đảm bảo
chất lượng thanh toán.
Bước 6: Ngân hàng thanh toán chuyển dữ liệu về trung tâm thanh toán bù trừ để
thực hiện bù trừ với ngân hàng phát hành thẻ.
Bước 7: Trung tâm thanh toán bù trừ của hệ thống thanh toán thẻ tiến hành bù trừ
giữa ngân hàng thanh toán và ngân hàng phát hành thẻ. Trung tâm này sẽ ghi có cho
ngân hàng thanh tốn đồng thời ghi nợ cho ngân hàng phát hành thẻ.
Bước 8: Chủ thể trong một thời hạn nhất định phải thực hiện các nghĩa vụ với
ngân hàng phát hành. Chủ thẻ trả vay trong trường hợp là thẻ tín dụng hoặc nộp tiền
vào tài khoản. Việc nộp tiền vào tài khoản phải được thực hiện từ đầu nếu khơng phải là
thẻ tín dụng.



1.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng dịch vụ và chất lượng dịch vụ thanh toán
ngân hàng
1.3.1. Khả năng thanh khoản
Khả năng thanh khoản là vấn đề hết sức căn bản trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng nói chung và hoạt động thanh tốn nói riêng. Vấn đề đối với bất cứ một ngân hàng
nào là phải duy trì một mức thanh khoản hợp lý trên cơ sở cân nhắc nhu cầu thanh tốn
(chi trả) và chi phí của khoản dự trữ. Một mức dự trữ tiền mặt, các tài sản có tính thanh
khoản cao sẽ đáp ứng tốt khả năng chi trả thường xuyên và bất thường tuy nhiên nó
cũng địi hỏi một chi phí cao. Đơi khi gánh nặng chi phí đi kèm với khả năng thanh
khoản cao.
Khơng chỉ phục vụ cho các dịch vụ thanh tốn của khách hàng, ngân hàng có
nhiều nhu cầu địi hỏi khả năng thanh toán hợp lý. Xác định nhu cầu thanh khoản là
bước đầu tiên trong chức năng quản lý tính thanh khoản của ngân hàng. Bước tiếp theo
là việc xác định nguồn cung. Cung và cầu thanh khoản được khái quát như sau:
Bảng 1.2. Cung cầu thanh khoản
Cung vốn thanh khoản
Tiền gửi không kỳ hạn trên các tài -

Cầu thanh khoản
Khách hàng rút tiền từ tài khoản tiền

khoản vãng lai.

gửi bao gồm: thời hạn và không thời

-

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.

hạn.


-

Doanh thu từ hoạt động dịch vụ -

Chuyển tiền phục vụ các hoạt động

thanh toán.

thanh toán của khách hàng.

-

-

Thanh toán nợ của khách hàng

-

Bán tài sản ngân hàng

-

Tiền vay từ thị trường tiền tệ

-

Các khoản chi hoạt động dịch vụ
thanh toán.


-

Các khoản vay phi tiền gửi, vay vốn
khác.

-

Chi phí cho các hoạt động kinh
doanh khác.

-

Thanh tốn cổ tức (nếu có)

Như vậy, nhu cầu thanh khoản của hoạt động dịch vụ thanh toán đến từ: Các
khoản rút tiền gửi, các khoản chuyển tiền của khách hàng, các khoản chi cho hoạt động


cung ứng. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra công thức xác định chỉ tiêu “trạng thái thanh
khoản ròng - NLP”
NLP = (Lượng tiền gửi + Doanh thu bán dịch vụ + thanh toán nợ của khách hàng
+ Vay nợ trên thị trường) – (Tiền rút ra gồm tiền chuyển khoản + Quy mơ vay được
chấp nhận + Thanh tốn nợ của ngân hàng + Chi hoạt động + Thanh toán cổ tức)
Nhu cầu và cung thanh khoản phục vụ hoạt dịch vụ thanh tốn khơng tách rời
cung cầu chung của tồn ngân hàng. Việc quản lý tính thanh khoản xoay quanh hai nội
dung:
+ Rất hiếm và gần như không thể tồn tại trạng thái cầu và cung thanh khoản là
trùng khớp và do đó ngân hàng ln phải đối mặt với sự thặng dư hoặc thâm hụt vốn
thanh khoản.
+ Giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời có sự đánh đổi. Với giả định

các yếu tố khác không đổi, nếu ngân hàng càng tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu
thanh tốn thì khả năng sinh lợi dự kiến càng thấp.
Có rất nhiều lý do khiến ngân hàng luôn phải đối mặt với các vấn đề thanh khoản
trong đó phải kể đến những lý do sau đây:
Thứ nhất, ngân hàng huy động lượng lớn từ các nguồn ngắn hạn để tài trợ cho các
khoản tín dụng dài hạn. Đó là nguyên nhân mất cân bằng về kỳ hạn giữa vốn và tài sản.
Thứ hai, Tính nhạy cảm với lãi suất. Sự thay đổi lãi sất sẽ dẫn đến sự thay đổi quy
mô khoản tiền gửi, tiền vay theo đó nó làm thay đổi giá trị tài sản mà ngân hàng nắm
giữ. Như vậy, lãi suất làm thay đổi cả nhu cầu và cung thanh khoản. Hơn nữa, chi phí
vốn của ngân hàng cũng sẽ thay đổi làm thay đổi quyết định về trạng thái thanh khoản
ròng.
Thứ ba, Là yếu tố đặc trưng của hoạt động cung ứng dịch vụ thanh tốn. Ngân
hàng ln nắm giữ những khoản tiền gửi vơ thời hạn như tiền gửi thanh tốn, séc bảo
chi... do đó các u cầu thanh tốn của khách hàng là tức thời.


1.3.2. Tính bảo mật, an tồn (độ tin cậy) trong giao dịch thanh tốn
Bảo mật là u cầu khơng thể thiếu trong bất cứ một dịch vụ ngân hàng nào. Trong
lĩnh vực thanh toán ngân hàng, bảo mật được biểu hiện chủ yếu trên giác độ bảo mật
thông tin của các giao dịch thanh tốn.
Bảo mật thơng tin giao dịch thanh toán đối với ngân hàng được xem như là bí mật
kinh doanh. Cũng giống như bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh thông thường thông
tin về giao dịch cần được đảm bảo. Mặt khác, bí mật thơng tin khách hàng là nghĩa vụ
của ngân hàng. Nếu pháp luật không có quy định về đảm bảo bí mật thơng tin khách
hàng thì các ngân hàng vẫn phải xem bí mật thông tin là một yếu tố của chất lượng và
phải được đảm bảo.
Bí mật thơng tin được thể hiện ở các khía cạnh:
- An tồn dữ liệu và hệ thống thơng tin đối ngoại.
- Bí mật trong hệ thống thơng tin nội bộ bao gồm việc xử lý giao dịch, lưu trữ
thơng tin, người xử lý giao dịch.

- An tồn về quyền hưởng, đảm bảo thực hiện nghĩa vụ chi trả trong giao dịch
thanh tốn.
Việc ứng dụng cơng nghệ ngân hàng mới, một mặt tạo ra những lợi thế kinh
doanh, bên cạnh đó nó vẫn cịn tồn tại những kẽ hở cho những tội phạm ngân hàng. Các
lĩnh vực cần được bảo mật và an tồn: hệ thống thanh tốn thẻ; hệ thống thanh toán
điện tử liên ngân hàng; hệ thống Internet Banking. Để có được hệ thống dịch vụ thanh
tốn chất lượng với mục tiêu an tồn, bảo mật, các ngân hàng cần xem xét nghiêm túc
các vấn đề sau:
An toàn và bảo mật ngay từ nhận thức: Giữa các ngân hàng, giữa ngân hàng và
khách hàng luôn luôn có sự giao dịch với nhau những thơng tin nhạy cảm. Bởi giữa các
tổ chức thường có sự khơng tương thích với nhau cả về chính sách và hệ thống an ninh
do đó sự linh hoạt của dạng và chính sách an tồn cần phải được thảo luận nghiêm túc.
Thơng tin giao dịch được thực hiện trên cơ sở những bản ghi giấy sẽ có sự giới hạn về
việc sao chép bằng tay. Việc xuất hiện công nghệ sao chép là nguy cơ rị rỉ thơng tin
đơn giản nhất. Xử lý giao dịch cuối ngày, đóng gói dữ liệu và truyền đi giữa các chi
nhánh cũng là công đoạn tiềm ẩn những vấn đề an toàn. Mặc dù hệ thống kiểm soát an
ninh của các ngân hàng được đánh giá là rất nghiêm ngặt nhưng thực tế thì trong mơi


trường kinh doanh ngày nay việc rị rỉ thơng tin vẫn sảy ra. Đối với các nhà quản lý
ngân hàng, an ninh hệ thống cần được ý thức một cách nghiêm túc đặc biệt là đối với
các dịch vụ dựa trên trình duyệt Web và hệ thống thanh tốn điện tử khác.
1.3.3. Chi phí chất lượng - Giá cả dịch vụ
Trong môi trường cạnh tranh hiện nay, các ngân hàng, các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh tốn khơng thể giữ được thế chủ động trong việc áp đặt mức phí dịch vụ (giá
cả) đối với các doanh nghiệp. Dưới áp lực cạnh tranh, giá cả trở thành một trong những
cơng cụ hữu hiệu dành khách hàng. Mức phí dịch vụ thanh tốn khơng tách rời khỏi
phạm trù chất lượng. Nó góp phần tạo nên chất lượng tổng thể mà các ngân hàng theo
đuổi. Việc xây dựng mức phí, chính sách phí trở thành một vấn đề trọng tâm của chiến
lược phát triển dịch vụ của các ngân hàng. Việc cạnh tranh thông qua giá, mặc dù không

phải là điều các ngân hàng mong muốn tuy nhiên một thực tế là ngồi những gói dịch
vụ tổng hợp với nhiều yếu tố thì mức phí dịch vụ ln được quan tâm trên phạm vi thị
trường quốc tế.
Mức phí và chi phí cho các dịch vụ thanh toán phổ biến hiện nay có thể thấy bao
gồm: Quản lý tài khoản thanh tốn; phí cung ứng các phương tiện thanh tốn; phí
chuyển tiền bao gồm cả điện phí; chuyển phát thơng tin và chứng từ; phát hành, sửa đổi,
bổ sung các lệnh thanh tốn; cung ứng thơng tin về tài khoản và sao kê dữ liệu; chuyển
tiền...
Việc xây dựng một chiến lược giá cho các dịch vụ thanh toán ngân hàng hiện nay
cần quan tâm nghiên cứu một số xu hướng:
- Công khai hố mức phí dịch vụ: Khơng kể đến những quy định về việc niêm yết
cơng khai phí dịch vụ, các ngân hàng có xu hướng cơng bố mức phí dịch vụ và thậm chí
khơng ngân ngại thừa nhận một mức phí cao hơn so với đối thủ. Khi giá cả khơng cịn
là một cơng cụ cạnh tranh hữu ích nữa thì việc cơng bố mức phí đơi khi lại chứng tỏ
cho khách hàng thấy sự sẵn sàng cung cấp một dịch vụ với chất lượng cao.
- Phân biệt giá: Phân biệt giá là chiến lược được các doanh nghiệp sản xuất chú ý
và ứng dụng từ lâu. Trong lĩnh vực dịch vụ thanh tốn việc phân biệt giá khơng rõ ràng.
Các ngân hàng thường xây dựng một mức phí đặc biệt ưu đãi cho những khách hàng
quan trọng, thiết lập quan hệ lâu dài. Việc phân biệt giá cũng thể hiện rõ ở việc mức phí


×