Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bai thu hoach hs 9 Tranh chap ve ky luat lao đong sa thai Tran Thi Thu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.18 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn

:

Kỹ năng cơ bản của luật sư trong việc
giải quyết các vụ án dân sự
LS.DS 09

Mã số hồ sơ :
Diễn lần
:
Ngày diễn
:
Giáo viên hướng dẫn:

Họ và tên
SBD
Lớp
Nhóm

:
:
:
:

Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 20


HỒ SƠ 09
1


TRANH CHẤP VỀ XỬ LÝ KỶ LUẬT LAO ĐỘNG THEO HÌNH THỨC SA THẢI
Mã số: LS.DS 09/B3.TH4– DA4/LĐ

I.

NGHIÊN CỨU HỒ SƠ

1. Tóm tắt nội dung vụ việc
Ngày 17/7/2006, Bà Trần Thị Thu là nhân viên làm tại công ty TNHH YD Việt Nam
(công ty YD). Ngày 17/10/2008, Bà Trần Thị Thu và Công ty TNHH YD tiếp tục ký hợp
đồng lao động là không xác định thời hạn, trình độ chuyên môn là kế toán, chức danh kế
toán trưởng. Hợp đồng có hiệu lực từ ngày ký và các Phụ lục Hợp đồng ký năm 2010,
năm 2011, năm 2012, năm 2013, năm 2015, năm 2016 (đều với nội dung thay đổi mức
lương cơ bản).
Ngày 09/06/2015, bà Thu nghỉ thai sản. Sau khi nghỉ thai sản theo luật định, ngày
09/12/2015 bà Thu quay trở lại Công ty YD để tiếp tục làm việc theo Hợp đồng lao động
nhưng Công ty YD đã tạm dừng công việc của bà Thu và gửi đến bà Thu Thông báo số
05/2015/TB ngày 05/12/2015 với nội dung: mời bà thu đến Công ty vào ngày 15/12/2015
để làm rõ sai phạm kế toán.
Ngày 20/12/2015, Công ty YD tiếp tục gửi đến bà Thu Thông báo số 07/2015/TB (do ông
TGĐ SHUHEI ký, đóng dấu Công ty) với nội dung: mời lao động Thu đến công ty vào
lúc 9h ngày 25/12/2015 để tham gia họp đội đồng kỷ luật lao động.
Ngày 25/12/2015, cuộc họp hội đồng diễn ra với sự tham dự của Giám đốc Shuhei, quản
lý Takasugi, người phiên dịch, công đoàn Công y YD và bà Thu. Cuộc họp được ghi nhận
tại Biên bản họp hội đồng kỷ luật đề ngày 25/12/2015, có đầy đủ chữ ký của thành phần
tham dự cuộc họp. Tại thời điểm này, bà Thu vẫn chưa được nhận vào Công ty để tiếp tục

làm việc.
Ngày 30/12/2015, bà Thu nhận được Thông báo của Công ty YD: mời bà Thu quay lại
làm việc tại Công ty vào ngày 05/1/2016. Ngày 05/1/2016, bà Thu nhận được Quyết định
số S008-14/QĐ đề ngày 30/12/2015 về việc bố trí bà Thu từ kế toán tại văn phòng sang
kế toán phụ trách quản lý kho rác từ ngày 05/01/2016.
Không chấp nhận Quyết định từ Công ty AD, diện của bà Thu là Công ty luật K đã gửi
đến Công ty YD văn bả đề nghị giải quyết quyền lợi của bà Thu theo quy định pháp luật
nhưng không được phía Công ty YD hồi đáp. Công văn số 01/2016/CV-K “về việc đề
2


nghị giải quyết quyền lợi cho bà Trần Thị Thu” đề ngày 09/1/2016; Công văn số
04/2016/CV-K “về việc đề nghị giải quyết quyền lợi cho bà Trần Thị Thu (lần 2)” đề ngày
09/1/2016; Công văn số 10/2016/CV-K “về việc đề nghị giải quyết quyền lợi cho bà Trần
Thị Thu (lần 3)” đề ngày 03/3/2016.
Ngày 12/3/2016, Công ty luật K đã làm công văn số 12/2016/CV-K Đề nghị hòa giải
tranh chấp cá nhân gửi đến Sở lao động – Thương binh – Xã hội thành phố Hải Phòng; Sở
lao động – Thương binh – Xã hội huyện AD, thành phố Hải Phòng để giải quyết sự việc
trên. Sự việc vẫn chưa được giải quyết.
Ngày 27/3/2016, Công ty Luật K tiếp tục gửi công văn số 20/2016/CV-K về việc đề nghị
phố hợp hòa giải tranh chấp lao động cá nhân đế Sở lao động và Thương Binh xã hội
thành phố Hải Phòng; Phòng quản lý lao động thuộc BQL khu kinh tế Hải Phòng; Công
đoàn khu kinh tế thành phố Hải Phòng.
Ngày 01/4/2016, Ban quản lý khu kinh tế Hải Phòng đã gửi văn bản đến các bên về việc
giải quyết tranh chấp giữa bà Thu và Công ty YD. Nội dung: Bản quản lý không có quyền
hạn giải quyết tranh chấp trên, tuy nhiên Ban quản lý khu kinh tế Hải Phòng đã phối hợp
với Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng làm việc với Công ty YD và yêu cầu phía Công ty
nhận bà Thu lại làm việc theo quy đinh pháp luật.
Ngày 14/5/2016, tại Công đoàn khu kinh tế Hải Phòng, các bên đã có buổi làm việc với
nhau. Tại thời điểm này, bà Thu bất ngờ nhận được Biên bản số 02-BB/VPKL về việc xử

lý kỷ luật lao động đề ngày 20/3/2016 với hình thức sa thải (bà Thu vắng mặt), đồng thời
bà Thu đề nghị chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty YD và đòi bồi thường. Phía
Công ty vẫn chưa trả lời cho bà Thu vấn đề này. Sự việc được ghi nhận tại Biên bản làm
việc đề ngày 14/5/2016.
Ngày 14/8/2016, Công ty YD có Biên bản xử lý vi phạm kỷ luật lao động đối với bà Thu.
Tại thời điểm này, bà Thu vắng mặt. Công ty đã gửi Thông báo đến thực hiện Hợp đồng
lao động lần lượt vào ngày 10, 13, 17/3/2016 theo quyết định công việc đưa ra đối với bà
Thu ngày 05/01/2016 nhưng bà Thu đã không đến công ty làm việc. Đồng thời Công ty
YD đã gửi 03 lần thông báo đến họp kỷ luật cho bà Thu lần lượt ngày 20, 27/7/2016, ngày

3


14/8/2016 nhưng bà Thu cũng không đến làm việc. Vì vậy Công ty đã đưa ra hình thức kỷ
luật sa thải đối với bà Thu.
Ngày 15/8/2016, Công ty YD ban hành Quyết định số 02-QĐ/ HĐLK xử lý kỷ luật lao
động về việc Sa thải bà Trần Thị Thu.
Ngày 06/7/2016 bà Thu làm Đơn khởi kiện Công ty YD tại Tòa án nhân dân huyện AD và
được thụ lý ngày 14/10/2016.
Ngày 16/07/2016, bà Thu nộp Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 11/5/2017.
2. Các văn bản quy phạm pháp luật áp dụng vào vụ việc
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
-

Luật lao động 2012;

-

Luật Thương mại 2005;


-

Nghị định 05/2015/ NĐ-CP Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số nội dung của Bộ luật lao động
-

Nghị định 148/2018/NĐ-CP Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định

số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động;
-

Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH Thông tư ban hành danh mục công việc không

sử dụng lao động nữ;
-

Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTPTANDTC hướng dẫn

thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của BLTTDS đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS;
-

Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTPTANDTC hướng dẫn

thi hành một số quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ
thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS;
-


Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 hướng dẫn một số quy định tại

khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi
kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.
4


-

Thông tư số 26/2013/TT-BLĐTBXH

3. Quan hệ pháp luật tranh chấp:
Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa Nguyên đơn và Bị đơn là tranh chấp xử lý vi phạm kỷ
luật lao động theo hình thức sa thải.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015
4. Thẩm quyền giải quyết:
-

Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo

hình thức sa thải. Công ty TNHH YD là công ty được thành lập theo quy định pháp luật
Việt Nam, là bên sử dụng lao động và bà Trần Thị Thu là người sử dụng lao động đã có
thỏa thuận ký kết kết hợp đồng theo quy định pháp luật. Vì tranh chấp giữa bà Thu và
Công ty TNHH YD là tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải. Tranh
chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều
32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
-

Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn không có đương sự hoặc tài sản ở nước


ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Vì vậy
theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tranh chấp
này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện;
-

Bị đơn – Công ty TNHH YD có địa chỉ trụ sở chính là: Lô J12xx, Khu công nghiệp

NM, huyện AD, thành phố Hải Phòng. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Tòa án
có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn có trụ sở chính.
-

Căn cứ Khoản 1 Điều 201 Bộ luật lao động 2012, tranh chấp giữa bà Thu và Công

ty TNHH YD là tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải vì vậy không
cần qua trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp lao động cá nhân của Hòa giải viên lao động.
Như vậy, các nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện AD là hoàn
toàn phù hợp.
5. Thời hiệu khởi kiện:
Theo quy định tại khoản 2, Điều 202, Bộ luật Lao động 2012 quy định thời hiệu yêu cầu
toà án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 1 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi
mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.
5


Như vậy, việc bà Thu khởi kiện Công ty TNHH YD vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện
theo quy định của pháp luật.
6. Tư cách tố tụng:
- Nguyên đơn: Bà TRẦN THỊ THU

Sinh năm: 1985, đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.
Địa chỉ: Số 6xx, phố Đ, phường Hoàng Văn Thụ, Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng
Người đại diện ủy quyền: Bà Nguyễn Thu Hà – Luật sư Công ty K – Đoàn luật sư thành
phố Hải Phòng
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015
- Bị đơn: : CÔNG TY TNHH YD VIỆT NAM
Địa chỉ: Lô J12xx, Khu công nghiệp NM, huyện AD, thành phố Hải Phòng
Người đại diện pháp luật: ông Shuhei
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Thanh Huyền
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: ông Nguyễn Văn Hùng – Luật sư Công ty
TNHH H – Đoàn luật sư thành phố Hải phòng
Cơ sở pháp lý: Khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015
II. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chứng cứ chứng minh
 Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Theo Đơn khởi kiện ngày 16/07/2016, Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 11/5/2017, bà
Trần Thị Thu yêu cầu:
1. Buộc Công ty YD hủy biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày 20/3/2016 với hình
thức Sa thải;
2. Buộc Công ty YD khôi phục mọi quyền lợi của bà Thu theo Hợp đồng lao động ký
ngày 17/7/2006, cụ thể: Thanh toán toàn bộ tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế trong thời gian bà Thu không được làm việc kể từ ngày 09/12/2015 đến
khi chính thức nhận lại. Tạm tính đến ngày 09/5/2017 (17 tháng) theo mức lương
hàng tháng là 20.393.000 đồng/ 01 tháng, tổng số là 20.393.000 đồng x 17 tháng =
346.681.000 đồng.
3. Do bà Thu không có nhu cầu quay trở lại Công ty YD làm việc nên ngoài khoản
tiền nêu trên thì Công ty YD phải bồi thường thêm các khoản tiền sau:
6


+ Thanh toán tiền trợ cấp thôi việc: bắt đầu từ ngày 17/7/2006 đến hết ngày

31/12/2008 được tính là 2,5 năm. Tiền lương của 06 tháng liền kề trước khi bà Thu
nghỉ việc là: 20.393.000 đồng x 1/2/2 = 25. 491.250 đồng.
+ Bồi thường 02 tháng tiền lương theo Hợp đồng lao động (Phụ lục Hợp đồng lao
động ký ngày 01/1/2015) theo quy định tại Khoản 3 Điều 42 Bộ luật lao động là: 02
tháng x 20.393.000 đồng = 40.786.000 đồng.
Tổng số tiền Công ty YD phải trả là: 346.681.000 đồng + 25.491.250 đồng +
40.786.000 đồng = 412.958.250 đồng (Bốn trăm mười hai triệu chín trăm năm mươi
tám ngàn hai trăm năm mươi đồng).
+ Buộc Công ty YD thực hiện ngay việc chốt sổ Bảo hiểm xã hội cho bà Thu kể từ
ngày 09/12/2015 đến khi có phán quyết của Tòa án.







 Chứng cứ chứng minh
Giấy chứng minh nhân dân, sổ Hộ khẩu bà Trần Thị Thu (Bản sao y công chứng);
Giấy xác nhận CMND bà Thu của công an TP Hải Phòng (Bản sao y công chứng);
Hợp đồng lao động ký ngày 17/10/2008 (Bản sao y công chứng);
Thông báo ngày 5/12/2015; ngày 20/12/20015 của Công ty YD;
Công văn đề nghị giải quyết quyền lợi của Công ty Luật K ngày 09/01/2016; ngày





28/01/2016; ngày 03/3/2016; ngày 29/5/2016;
Biên bản cuộc họp kỷ luật ngày 25/12/2016; ngày 20/3/2016;

Quyết định số 008/14QĐ ngày 30/12/2015 của Công ty YD;
Công văn đề nghị phố hợp hòa giải tranh chấp lao động cá nhân của Ban quản lý khu




kinh tế Hải phòng ngày 01/4/2016;
Biên bản làm việc tại Công đoàn Khu kinh tế Hải Phòng ngày 14/5/2016;
Đơn đề nghị Hòa giải tranh chấp lao động cá nhân số 12/2016/CV-K ngày 12/3/1026;



số 20/2016 ngày 27/3/2016 của Công ty Luật K
Công văn số 39/LĐTBXH ngày 25/3/2016 của Phòng Lao động, Thương binh – Xã
hội huyện AD, thành phố Hải Phòng

7


III. Kế hoạch xét hỏi
Với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, kế hoạch hỏi lại
tòa của tôi như sau:
1.




Hỏi bị đơn – Công ty TNHH YD Việt Nam
Bà Trần Thị Thu làm việc tại Công ty YD bắt đầu từ thời gian nào?
Bà Thu được công ty TNHH YD giao thực hiện những công việc gì?

Sau khi nghỉ thai sản, bà Thu đã quay trở lại Công ty YD làm việc theo luật định
nhưng tại sao bà Thu lại không được công ty nhận trở lại làm việc theo vị trí kế



toán trưởng như trong Hợp đồng lao động đã thỏa thuận?
Công ty YD có gửi Thông báo số 05-2015 ngày 05/12/2015 đến cho bà Thu





không?
Ai là người gửi Thông báo trên đến cho bà Thu?
Bà Thu có xác nhận gì về việc nhận được thông báo trên không?
Trong Biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày 20/3/2016 có ghi rõ, bà Thu đã được



thông báo 03 lần có đúng không?
Đối với những lần thông báo như vậy, Công ty YD có thể đưa chứng cứ chứng




minh đối với các lỗi vi phạm trong 03 lần mời họp đó hay không?
Trong buổi họp ngày 15/12/2015, công ty YD đã thông báo như thế nào?
Bảng lương đến tháng 04/2015 của bà Thu có mức lương cơ bản là 20.393.600





đồng đúng không?
Bảng lương của bà Thu đến tháng 10/2015 chỉ còn 16.400.000 đồng đúng không?
Tại sao mức lương cơ bản của bà Thu từ tháng 10/2015 lại có sự chênh lệch nhiều




như vậy?
Căn cứ vào đâu để Công ty YD giảm lương cơ bản của bà Thu?
Công ty YD có thể trình bày lý do tại sao lại yêu cầu bà Thu tạm ngừng làm việc



trong khoảng thời gian từ 09/12/2015 đến 13/12/2015?
Công ty YD có chứng cứ nào chứng minh cho các sai phạm kế toán, gây thiệt hại
cho công ty là do bà Thu làm hay không? Nếu không cung cấp được tại sao, công



ty YD vẫn khẳng định như vậy?
Căn cứ vào đâu để Công ty YD chuyển công việc của bà Thu khác công việc ghi



trong Hợp đồng lao động?
Khi họp hội đồng kỷ luật bà Thu, công ty có chứng minh và đưa ra thiệt hại cụ thể
do lỗi của bà Thu hay không?
8





Công ty có biết luật quy định đối với phụ nữ mới sinh xong không được làm việc



trong môi trường nào hay không?
Theo Quyết định bố trí công việc mới ngày 30/12/2015, việc thay đổi vị trí kế toán
trưởng sang vị trí kế toán phụ trách quản lý kho rác, công ty đã gửi thông báo này
cho bà Thu hay chưa? Bà Thu đã phản hồi về việc nhận được thông báo nêu trên



như thế nào?
Bên đại diện ủy quyền nguyên đơn đã nhiều lần gửi Công văn đốc thúc đề nghị
công ty YD giải quyết quyền lợi cho bà Thu và đồng thời khẳng định việc bà Thu
từ chối việc chuyển sang vị trí kế toán phụ trách quản lý kho rác. Công ty YD tại
sao không có văn bản trả lời?

2. Hỏi nguyên đơn – Bà Trần Thị Thu
 Bà bắt đầu nghỉ thai sản từ ngày nào đến ngày nào?
 Trước khi nghỉ thai sản, bà có hành vi vi phạm nào gây thiệt hại cho công ty


không?
Trước khi nghỉ thai sản, bà có bàn giao công việc lại người khác phụ trách thay




mình không? Khi bàn giao công ty YD có ý kiến gì về việc bàn giao này không?
Trong buổi họp ngày 15/12/2015, công ty YD đã thông báo với bà như thế nào? Có
chứng cứ nào chứng minh cho lời tuyên bố nêu trên của công ty YD không? Bà
hãy nêu tên các thành phần dự họp là những ai? Có cán bộ công đoàn cơ sở tham



gia không?
Đối với 02 cuộc họp ngày 25/12/2015 và ngày 30/12/2015, bà có đến tham dự
đúng giờ không? Cuộc họp đã diễn ra trễ hơn so với giờ hẹn bao lâu? Bà đã phải
ngồi chờ rất lâu, vậy có chứng cứ nào chứng minh không? Việc này có ảnh hưởng



tới sức khỏe sau sinh của bà hay không?
Mức lương hiện tại của bà là 21.733.600 đồng/tháng, vậy bà có chứng cứ gì chứng



minh cho điều này không?
Tại sao bà không quay lại làm việc khi Công ty có Quyết định ngày 30/12/2015
với nội dung chuyển bà sang làm Kế toán phụ trách quản lý kho rác từ ngày



05/01/2016?
Tại cuộc họp ngày 21/12/2015 Công ty YD đã yêu cầu bà nộp lại hồ sơ cá nhân, bà
đã nộp lại chưa?


9




Đến nay, bà có viết và ký bản kiểm điểm hay có bất cứ hành động nào khác thể
hiện sự đồng tình của chị với các cáo buộc về các sai phạm mà Công ty YD đã đưa
ra trong cuộc họp ngày 21/12/2015?

10


IV. Bài bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn – bà Trần Thị Thu
BẢN LUẬN CỨ
- Kính thưa Hội đồng xét xử;
- Thưa vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa hôm nay;
- Thưa vị luật sư đồng nghiệp,
Tôi là Luật sư
thuộc Đoàn luật sư

thuộc Văn phòng luật sư

,

. Tôi tham gia phiên tòa ngày hôm nay với tư

cách là luật sư bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là bà Trần Thị Thu trong
vụ kiện “Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải” với bị đơn - công ty
TNHH YD Việt Nam.
Theo Đơn khởi kiện ngày 16/07/2016, Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày

11/5/2017 và lời trình bày nguyên đơn, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải có nghĩa vụ:
1. Buộc Công ty YD hủy biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày 20/3/2016 với hình
thức Sa thải;
2. Buộc Công ty YD khôi phục mọi quyền lợi của bà Thu theo Hợp đồng lao động ký
ngày 17/7/2006, cụ thể: Thanh toán toàn bộ tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế trong thời gian bà Thu không được làm việc kể từ ngày 09/12/2015 đến
khi chính thức nhận lại. Tạm tính đến ngày 09/5/2017 (17 tháng) theo mức lương
hàng tháng là 20.393.000 đồng/ 01 tháng, tổng số là 20.393.000 đồng x 17 tháng =
346.681.000 đồng.
3. Do bà Thu không có nhu cầu quay trở lại Công ty YD làm việc nên ngoài khoản
tiền nêu trên thì Công ty YD phải bồi thường thêm các khoản tiền sau:
+ Thanh toán tiền trợ cấp thôi việc: bắt đầu từ ngày 17/7/2006 đến hết ngày
31/12/2008 được tính là 2,5 năm. Tiền lương của 06 tháng liền kề trước khi bà Thu
nghỉ việc là: 20.393.000 đồng x 1/2/2 = 25.491.250 đồng.
+ Bồi thường 02 tháng tiền lương theo Hợp đồng lao động (Phụ lục Hợp đồng lao
động ký ngày 01/1/2015) theo quy định tại Khoản 3 Điều 42 Bộ luật lao động là: 02
tháng x 20.393.000 đồng = 40.786.000 đồng.
11


Tổng số tiền Công ty YD phải trả là: 346.681.000 đồng + 25.491.250 đồng +
40.786.000 đồng = 412.958.250 đồng (Bốn trăm mười hai triệu chín trăm năm mươi
tám ngàn hai trăm năm mươi đồng).
+ Buộc Công ty YD thực hiện ngay việc chốt sổ Bảo hiểm xã hội cho bà Thu kể từ
ngày 09/12/2015 đến khi có phán quyết của Tòa án và buộc phải trả sổ BHXH cho
bà Thu ngay sau khi chốt sổ.
Kính thưa HĐXX, qua nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và
qua phần xét hỏi công khai tại phiên toà hôm nay tôi xin trình bày quan điểm của mình để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của tôi – bà Trần Thị Thu như sau:
1. Công ty YD ra quyết định sa thải đối với bà Trần Thị Thu là trái quy định

pháp luật
Thứ nhất, mặc dù Công ty YD chưa ra quyết định kỷ luật sa thải nhưng công ty đã thực
hiện trình tự thủ tục xử lý vi phạm, đã có biên bản ngày 20/3/2016 họp xử lý vi phạm của
bà Thu và kết luận bằng hình thức sa thải. Biên bản được Tổng giám đốc và Chủ tịch
công đoàn Công ty cùng ký và gửi cho bà Thu. Trong khi Tòa án sơ thẩm đang xem xét
đơn khởi kiện của bà Thu thì ngày 14/8/2016, công ty YD lại tiếp tục tiến hành họp xử lý
vi phạm lao động đối với bà Thu và ngày 15/8/2016 do Tổng giám đốc ra quyết định kỷ
luật sa thải. Như vậy, công ty YD không chỉ tiến hành họp xử lý vi phạm kỷ luật lao động
đối với bà Thu ngày 20/3/2016 mà còn tiếp tục họp xử lý ngày 14/8/2016 và ban hành
quyết định kỷ luật sa thải ngày 15/8/2016.
Thứ hai, bà Thu không tự ý nghỉ việc 05 ngày theo công việc trong Hợp đồng lao động
ký ngày 17/7/2006 mà do Công ty YD đã không tạo điều kiện để bà Thu tiếp nhận công
việc cũ sau thời gian nghỉ thai sản (bút lục số 55). Công ty YD không thể viện dẫn lý do
vì bà Thu không đồng ý với công việc mới, tự ý nghỉ việc quá 05 ngày và vắng mặt tại
cuộc họp 03 lần để ra quyết định sa thải bà Thu. Chính vì thế, bà Thu không thuộc trường
hợp theo tại khoản 7, Điều 27 Nội quy lao động và Khoản 3, Điều 126 Bộ luật lao động
2012 nên việc áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải là không đúng.

12


Thứ ba, Công ty YD luôn liên tục đưa ra các lý do sai phạm của bà Thu và tại các cuộc
họp xử lý kỷ luật dành cho bà Thu. Với việc viện dẫn nhiều lý do sai phạm nhưng công ty
YD lại không đưa ra các dẫn chứng, chứng cứ chứng minh cho các sai phạm của bà Thu
một cách rõ ràng và thuyết phục. Vì vậy, đây là lý do buộc bà Thu không thể tiếp nhận
công việc mới và công ty YD lại xem đó như là một lý do hợp lý để chấm dứt quan hệ lao
động với bà Thu bằng một quyết định sa thải. Do đó, Công ty YD đã có hành vi sa thải bà
Thu trái với quy định pháp luật do không thỏa mãn các trường hợp tại Điều 126 Bộ luật
Lao động 2012.
Thứ tư, Công ty YD đã vi phạm trình tự xử lý kỷ luật lao động theo quy định tại Điều

123 Bộ luật Lao động 2012. Công ty YD phải có trách nhiệm chứng minh được lỗi của
bà Thu. Khi xử lý kỷ luật lao động: “Người lao động phải có mặt và có quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”– điểm c khoản 1 Điều 123 Bộ luật Lao động
2012. Tuy nhiên, tại Biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày 20/3/2016 không có sự tham
gia của bà Thu. Việc Công ty YD giải thích việc xử lý vắng mặt bà Thu là vì công ty đã có
thông báo đến bà Thu 03 lần đến công ty tiếp tục thực hiện HĐLĐ nhưng bà Thu không
đến. Lý do này là không có căn cứ, để xử lý kỷ luật lao động thì công ty cần ban hành
thông báo xử lý kỷ luật chứ không phải là thông báo tiếp tục thực hiện Hợp đồng lao
động, gây cho bà Thu sự nhầm lẫn về nội dung cuộc họp, dẫn đến việc bà Thu không đến
tham dự. Ngoài ra, Biên bản xử lý kỷ luật ngày 14/8/2016 ghi nhận Công ty YD đã ban
hành 03 thông báo họp xử lý kỷ luật đến bà Thu ngày 20/7/2016, 27/7/2016 và 14/8/2016,
tuy ban hành các thông báo này nhưng không được cung cấp trong hồ sơ vụ án nên không
có căn cứ cho rằng Công ty YD đã 03 lần thông báo bằng văn bản, mà bà Thu không có
mặt do đó Công ty YD được phép tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật lao động vắng mặt bà
Thu.
Thứ năm, chính công ty YD đang vi phạm Điều 29 Nghị định 05/2015/NĐ-CP và điều 29
Nội quy lao động do công ty tự ban hành. Về nguyên tắc và quy định cấm khi xử lý kỷ
luật người lao động trong nội quy lao động công ty YD có quy định: “Không được xử lý
kỷ luật đối với Người lao động nữ đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi”. Bởi vì tại thời
điểm tiến hành xử lý kỷ luật lao động đối với bà Thu thì bà vừa trải qua thời kỳ thai sản,
13


đang trong giai đoạn nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của bà.
Vì các dẫn chứng nêu trên, việc kỷ luật sa thải của công ty YD đối với Trần Thị Thu
trên cơ sở Biên bản xử lý vi phạm ngày 20/3/2016, Biên bản ngày 14/8/2016 và Quyết
định xử lý kỷ luật sa thải ngày 15/8/2016 là trái với quy định pháp luật tại các Điều 123,
126 Bộ luật Lao động 2012 là có căn cứ.
2. Đối với quyết định thuyên chuyển công việc của bà Thu từ vị trí kế toán trưởng

sang kế toán quản lý kho rác
Thứ nhất, Công ty YD đã có hành vi sai phạm trong việc chuyển người lao động sang
làm công việc khác Hợp đồng lao động đã thỏa thuận. Việc bà Thu không thực hiện quyết
định S008-14/QĐ ngày 31/12/2015 điều chuyển công việc, tiền lương khác với hợp đồng
(85% lương) là đúng. Bởi lẽ việc điều chuyển này Công ty YD đã không báo trước và
không có thỏa thuận với bà Thu là vi phạm Điều 158 Bộ luật Lao động 2012. Đồng thời,
công ty YD cũng không chứng minh được vị trí việc làm cũ đã không còn trống tại thời
điểm bà Thu quay lại làm việc.
Thứ hai, công việc theo quyết định S008-14/QĐ là công việc có tính chất độc hại mà
công ty YD lại giao cho người lao động đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi là Công ty
đã vi phạm Điều 160 Bộ luật Lao động 2012 và Thông tư số 26/2013/TT-BLĐTBXH thì
đây là công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng nuôi con của lao động nữ và có thể
thuộc công việc cấm sử dụng lao động nữ. Vì vậy bà Thu từ chối thực hiện quyết định số
S008-14/QĐ và nghỉ làm là có lý do chính đáng. Ngoài ra, Công ty YD khai rằng đã gửi
bằng bưu điện ba lần thông báo cho bà Thu đến tiếp tục hợp đồng lao động nhưng trong
các chứng cứ công ty lại không cung cấp được các mã vận đơn bưu điện để chứng minh
cho việc công ty đã gửi thông báo, trong khi thân chủ tôi xác nhận rằng không nhận được
các thông báo nêu trên.
Thứ ba, việc công ty YD điều chuyển công việc không thuộc các trường hợp được phép
chuyển người lao động sang làm việc khác Hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 31
Bộ luật Lao động 2012. Theo Điều 31 Bộ luật Lao động 2012, việc chuyển người lao
14


động làm công việc khác so với hợp đồng lao động chỉ được áp dụng khi người sử dụng
lao động gặp các lý do sau: khó khăn đột xuất do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, áp dụng
biện pháp ngăn ngừa, khắc phục tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, sự cố điện, nước
hoặc do nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Khi đó người sử dụng lao động mới được quyền
tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động, nhưng
không được quá 60 ngày làm việc cộng dồn trong một năm, trừ trường hợp được sự đồng

ý của người lao động. Trong khi đó, tại Biên bản họp hội đồng kỷ luật ngày 25/12/2015,
Công ty YD Việt Nam đã đưa ra những sai phạm với bà Thu như trước khi sinh bà Thu
hay đi trễ về sớm, có biên bản bà Thu nổ máy tại cổng bảo vệ và công ty thông báo sẽ có
quyết định thuyên chuyển công việc của bà Thu làm công việc khác, tháng đầu giữ
nguyên lương, từ tháng thứ hai lương bà Thu sẽ nhận 85% của lương cơ bản ban đầu. Lý
do này không thuộc trường hợp được phép điều chuyển người lao động làm công việc
khác với Hợp đồng lao động quy định tại Điều 31 Bộ luật Lao động 2012.
Thứ tư, công ty YD đã không đảm bảo các quy định việc điều chuyển lao động tại khoản
1 thì Công ty YD đã vi phạm quy định thông báo tại khoản 2 Điều 31 Bộ luật lao động
2012: “Khi tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao
động, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước ít nhất 03 ngày làm
việc, thông báo rõ thời hạn làm tạm thời và bố trí công việc phù hợp với sức khoẻ, giới
tính của người lao động”. Trên thực tế, bà Thu không được thông báo trước về việc điều
chuyển này cho đến ngày 5/1/2016 thì bất ngờ nhận được Quyết định số S008-14/QĐ đề
ngày 30/12/2015. Có thể thấy rõ trong Quyết định số S008-14/QĐ ngày 30/12/2015
không hề đề cập thời hạn làm tạm thời. Và xét thấy công việc Công ty YD bố trí cho bà
Thu là không phù hợp với sức khỏe của chị Thu khi bà Thu đang trong thời gian nuôi con
dưới 12 tháng tuổi.
Vì vậy, đối với quyết định thuyên chuyển công việc của bà Thu từ vị trí kế toán trưởng
sang kế toán quản lý kho rác của công ty YD là không phù hợp với quy định pháp luật.
3. Yêu cầu thanh toán tiền lương; tiền bồi thường; tiền trợ cấp thôi việc; tiền
đóng BHXH, BHYT, BHTN của bà Thu phù hợp với quy định của Hợp đồng lao
động, quy định của pháp luật.
15


Thứ nhất, trong khoảng thời gian từ khi bà Thu kết thúc kỳ thai sản là ngày 9/12/2015
đến ngày 09/05/2017, bà Thu vẫn là người lao động của Công ty YD. Bà Thu vẫn phải
được hưởng lương và các chế độ đãi ngộ của Công ty YD.
Thứ hai, tôi đã chứng minh ở nội dung trên, có căn cứ khẳng định rằng Công ty YD có

hình thức xử lý kỷ luật là chuyển công tác và sa thải là không đúng quy định pháp luật.
Công ty YD phải nhanh chóng tiến hành thanh toán lương và các chế độ khác theo quy
định trong Hợp đồng lao động (Điều 33 Nghị định 05/2015/NĐ-CP, Điều 42 Bộ luật Lao
động 2012).
Thứ ba, việc bà Thu yêu cầu Công ty YD phải thanh toán tiền lương cho bà Thu kể từ
ngày 09/12/2015 đến hết ngày 09/5/2017 theo mức lương 20.393.000 đồng/tháng với tổng
số tiền là 346.681.000 đồng là phù hợp với quy định pháp luật. Đồng thời, Công ty YD
còn có nghĩa vụ phải thanh toán đầy đủ cho bà Thu chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội
cho bà trong những ngày bà không được làm việc tính đến ngày xét xử vụ án.
Thứ tư, bà Thu yêu cầu được thanh toán tiền trợ cấp thôi việc là phù hợp với quy định
pháp luật tại điều 48 Bộ luật lao động 2012. Người sử dụng lao động có trách nhiệm chi
trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên,
mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. Căn cứ theo Hợp đồng lao động
giữa bà Thu và Công ty YD và Bản ghi quá trình đóng Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất
nghiệp thì có thể thấy bà Thu đã làm việc thường xuyên cho Công ty YD từ 17/10/2006
đến tháng 12/2015. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao
động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã
tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và thời gian làm
việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc là 2.5 năm (từ 17/7/2006
đến 31/12/2008). Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp
đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc theo Bản ghi quá
trình đóng Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp. Do đó, yêu cầu Công ty YD thanh toán
tiền trợ cấp thôi việc cho bà Thu là 2,5 x ½ x 20.393.000 đồng = 25.491.250 đồng của bà
Thu là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật.
16


Đồng thời, vì bà Thu không có mong muốn tiếp tục làm việc tại công ty YD, do đó cần áp
dụng khoản 1 và khoản 2 Điều 42 Bộ luật Lao động 2012. Theo đó, Công ty YD có nghĩa
vụ trả cho bà Thu tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày bà Thu

không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và trả
trợ cấp thôi việc. Cụ thể công ty YD phải bồi thường 02 tháng tiền lương theo Hợp đồng
lao động (Phụ lục Hợp đồng lao động ký ngày 01/1/2015) là: 02 tháng x 20.393.000 đồng
= 40.786.000 đồng.
Từ các lý do trên, có thể khẳng định yêu cầu khởi kiện của bà Thu là hoàn toàn có căn cứ
bởi Công ty YD đã có hành vi sai phạm nghiêm trọng việc thuyên chuyển bà Thu làm
công việc khác so với Hợp đồng lao động, sa thải bà Thu trái pháp luật. Đồng thời các yêu
cầu của bà Thu buộc Công ty YD thanh toán tiền lương, tiền trợ cấp thất nghiệp và thực
hiện chốt sổ Bảo hiểm xã hội là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên, kính đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà
Trần Thị Thu, buộc Công ty YD hủy biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày 20/3/2016 với
hình thức Sa thải đồng thời buộc Công ty YD phải thanh toán tiền lương, tiền bồi thường,
tiền trợ cấp thôi việc, tiền BHXH, BHYT, BHTN với tổng số tiền là 412.958.250 đồng và
chốt sổ BHXH cho bà Thu. Trên đây là toàn bộ quan điểm pháp lý của Luật sư bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Xin trân trọng cảm ơn!

17



×