Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIỀN LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.38 KB, 25 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIỀN LƯƠNG
TRONG DOANH NGHIỆP.
1.1 BẢN CHẤT CỦA TIỀN LƯƠNG
1.1.1 Khái niệm về tiền lương.
Tiền lương và tiền công là một thành phần của thù lao lao động. Đó
là phần thù lao cố định (thù lao cơ bản) mà người lao động nhận được
một cách thường kỳ thông qua quan hệ thuê mướn giữa họ với tổ chức.
Trong đó, tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động khi họ thực hiện công việc một cách cố định và thường
xuyên theo một đơn vị thời gian, có thể là lương tuần hay lương tháng.
Còn tiền công là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao
động khi họ thực hiện công việc tuỳ thuộc vào số lượng thời gian làm
việc thực tế hoặc số lượng sản phẩm thực tế sản xuất ra hoặc khối
lượng công việc thực tế đã thực hiện.
Nhưng hiểu một cách chung nhất thì tiền lương là số tiền mà người
lao động nhận được từ người sử dụng lao động của họ thanh toán lại
tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã tiêu hao trong
quá trình tạo ra của cải cho xã hội. Theo cách hiểu này thì tiền lương và
tiền công là giống nhau. Và trong thực tế hai thuật ngữ tiền công, tiền
lương này thường được dùng lẫn lộn để chỉ thù lao cơ bản, cố định mà
người lao động nhận được trong tổ chức.
Đối với tiền lương chúng ta biết rằng, tiền lương phản ánh nhiều
quan hệ kinh tế, xã hội khác nhau. Tiền lương trước hết là số tiền mà
người sử dụng lao động trả cho người lao động. Đó là quan hệ kinh tế
của tiền lương, mặt khác do tính chất đặc biệt của loại hàng hoá sức lao
động mà tiền lương không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế mà còn là vấn
đề xã hội rất quan trọng liên quan đến đời sống và trật tự xã hội.
Trong các hoạt động nhất là hoạt động kinh doanh, đối với các chủ
doanh nghiệp, tiền lương là một phần chi phí cấu thành của chi phí sản
xuất - kinh doanh. Do vậy, vấn đề tiền lương phải được tính toán và
quản lý chặt chẽ. Đối với người lao động, tiền lương là một phần thu


nhập từ quá trình lao động của họ, thu nhập chủ yếu đối với đại đa số
lao động trong xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới mức sống của họ. Phấn
đấu nâng cao tiền lương là mục tiêu của mọi người lao động, mục tiêu
này tạo động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao
động của mình.
Đứng trên phạm vi toàn xã hội, tiền lương được xem xét và đặt
trong quan hệ phân phối thu nhập, quan hệ sản xuất và tiêu dùng, quan
hệ trao đổi. Do vậy mỗi quốc gia cần phải có chính sách tiền lương,
phân phối thu nhập hợp lý, phù hợp với quá trình phát triển của đất
nước.
1.1.2 Bản chất của tiền lương.
Trong thời kỳ quản lý kinh tế theo cơ chế tập chung quan liêu ở
nước ta tiền lương được thể hiện là một phần của thu nhập quốc dân,
biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được nhà nước phân phối có kế hoạch
cho cán bộ, công nhân viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng
lao động của mỗi người đã cống hiến cho xã hội. Theo quan điểm này,
chế độ tiền lương ở nước ta một thời gian dài mang nặng tính phân phối
bằng tiền và hiện vật, thông qua bao cấp nhà ở, y tế, giáo dục, các nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày và các khoản phúc lợi khác. Do đó chúng ta có
thể nhận thấy rằng chế độ tiền lương này thể hiện tính bao cấp, tính
bình quân, sự phân biệt giữa các ngành, đặc biệt là người có trình độ
cao và người có trình độ thấp không rõ rệt. Nhược điểm của chế độ tiền
lương cũ là nguồn gốc tiền lương không rõ ràng, về số lượng và chất
lượng không phản ánh trong tiền lương, mức độ tiền tệ hoá tiền lương
thấp nên nó không khuyến khích người lao động nâng cao trình độ
chuyên môn, năng suất lao động không gắn với lợi ích, thành quả lao
động. Vì thế, nó hạn chế, không kích thích thúc đẩy sản xuất phát triển.
Từ đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, nước ta đổi mới cơ
chế quản lý theo cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, với sự
hoạt động của thị trường sức lao động còn gọi là thị trường lao động.

Sức lao động trở thành hàng hoá, loại hàng hoá đặc biệt và được trao
đổi mua bán trên thị trường. Khi đó giá cả của hàng hoá sức lao động
chính là số tiền mà người lao động nhận được do công sức của họ bỏ
ra. Vì vậy, bản chất của tiền lương chính là giá cả của sức lao động
trong nền kinh tế thị trường. Với bản chất như vậy thì tiền lương không
chỉ tuân theo nguyên tắc phân phối theo lao động mà còn phải tuên theo
các quy luật khác của thị trường sức lao động như quy luật cạnh tranh,
quy luật cung cầu…
1.1.3 Chức năng của tiền lương.
Tiền lương là thành phần thu nhập chủ yếu của người lao động do
vậy khi thực hiện việc chi trả lương chúng ta cần phải biết được các
chức nắng của tiền lương như sau:
Chức năng thước đo giá trị: Cũng như mối quan hệ của hàng hoá
khác sức lao động cũng được trả công căn cứ vào giá trị mà nó đã được
cống hiến và tiền lương chính là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao
động trong cơ chế thị trường. Ngày nay ở nước ta thì tiền lương còn thể
hiện một phần giá trị sức lao động mà mỗi cá nhân đã được bỏ ra trong
quá trình sản xuất kinh doanh
Chức năng duy trì và mở rộng sản xuât: Đây là chức năng cơ bản
của tiền lương đối với người lao động bởi sau mỗi quá trình sản xuất
kinh doanh thì người lao động phải được bù đắp sức lao động mà họ đã
bỏ ra để có thể bù đắp lại được, họ cần có thu nhập mà bằng tiền lương
cộng với các khoản thu khác (mà tiền lương là chủ yếu) do vậy mà tiền
lương phải giúp người lao động bù đắp lại sức lao động đã hao phí để
họ có thể duy trì liên tục quá trình sản xuất kinh doanh. Mặt khác do yêu
cầu của đời sống xã hội nên việc sản xuất không ngừng tăng lên về quy
mô, về chất lượng để đáp ứng được yêu cầu trên thì tiền lương phải đủ
để họ duy trì và tái sản xuất sức lao động với ý nghĩa cả về số lượng và
chất lượng.
Chức năng kích thích và thúc đẩy phân công lao động xã hội: Tiền

lương là đòn bẩy kinh tế thu hút người lao động làm việc hăng say, nhiệt
tình, thúc đẩy tăng năng suất lao động, khuyến khích nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ.
Chức năng tích lũy: Đảm bảo cho người lao động không chỉ duy trì
cuộc sống mà còn có thể dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả
năng lao động hoặc gặp rủi ro bất chắc
1.1.4 Các nguyên tắc cơ bản tổ chức thực hiện trả lương trong doanh
nghiệp.
* Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau:
Nguyên tắc này bảo đảm được tính công bằng trong phân phối tiền
lương giữa những người lao động làm việc như nhau trong doanh
nghiệp. Chúng ta đã biết cơ sở để xác định mức trả lương là mức đóng
góp lao động được xã hội thừa nhận. Mức đóng góp của người lao động
thể hiện qua công việc mà họ thực hiện, cụ thể nó biểu hiện ở mức độ
phức tạp của công việc thông qua yêu cầu về trình độ lành nghề và mức
tiêu hao sức lao động thông qua điều kiện và môi trường làm việc.
Nghĩa là lao động có số lượng và chất lượng như nhau thì tiền lương
phải như nhau không phân biệt giới tính lứa tuổi.
* Đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng
tiền lương bình quân:
Bảo đảm tốc độ tăng năng suất lao động bình quân phải nhanh
hơn tốc độ tăng tiền lương trung bình trong toàn doanh nghiệp và
trong kỳ kế hoạch. Tiền lương bình quân tăng chủ yếu phụ thuộc vào
các yếu tố cơ bản do nâng cao năng suất lao động như nâng cao trình
độ lành nghề, giảm bớt thời gian tổn thất cho lao động. Còn năng suất
lao động tăng không phải chỉ do những nhân tố trên mà còn trực tiếp
phụ thuộc vào các nhân tố khách quan như: áp dụng kỹ thuật mới, sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tổ chức tốt lao động và các quá
trình sản xuất. Như vậy tốc độ tăng năng suất lao động rõ ràng có điều
kiện khách quan để lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân. Đây là

nguyên tắc quan trọng khi tổ chức tiền lương. Có như vậy mới tạo cơ
sở giảm giá thành, hạ giá cả, tăng tích lũy để tái sản xuất mở rộng.
* Phân phối theo số lượng và chất lượng lao động:
Nguyên tắc này đòi hỏi doanh nghiệp tránh tình trạng xây dựng các
hình thức lương phân phối bình quân, vì như thế sẽ tạo ra sự ỷ lại và
sức ỳ của người lao động trong doanh nghiệp. Trong quy chế trả lương,
sự chênh lệch giữa các bậc trong thang lương phải khuyến khích được
người có trình độ cao, tiêu hao năng lượng lớn, trách nhiệm nặng, kích
thích mọi người luôn phấn đấu nâng cao kiến thức và nghề nghiệp, đạt
hiệu quả và chất lượng cao. Do vậy, người lao động có đóng góp nhiều
phải được trả lương cao.
Khi trả lương cho công nhân cần chú ý các vấn đề sau:
Mỗi ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân có tính chất phức tạp
về kỹ thuật khác nhau. Do đó đối với những người lao động làng nghề
làm việc trong các ngành có yêu cầu kỹ thuật phức tạp phải trả lương
cao hơn những người lao động làm việc trong những ngành không có
yêu cầu kỹ thuật cao.
Tiền lương bình quân giữa các ngành có điều kiện lao động khác
nhau cần có sự chênh lệch khác nhau.Công nhân làm việc trong điều
kiện nặng nhọc có hại đến sức khỏe phải được trả lương cao hơn
những người làm việc trong điều kiện bình thường.
Những ngành chủ đạo có tính chất quyết định sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân thì cần được đãi ngộ mức tiền lương cao hơn
nhiều nhằm khuyến khích công nhân yên tâm phấn khởi làm việc lâu
dài ở những ngành nghề đó, sự khuyến khích này cũng phải phù hợp
với yêu cầucủa việc phân phối sức lao động một cách có kế hoạch trong
thời kỳ phát triển kinh tế.
Đối với những cơ sở sản xuất ở những vùng xa xôi hẻo lánh,
điều kiện khí hậu xáu, sinh hoạt đắt đỏ, đời sống gặp khó khăn, nhân
lực thiếu,…Cần được đãi ngộ tiền lương cao hơn hoặc thêm những

khoản phụ cấp thì mới thu hút được công nhân đến làm việc
Khuyến khích bằng lợi ích vật chất kết hợp với giáo dục tư tưởng
cho người lao động.
1.2 CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP HIỆN
NAY
Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, kinh doanh, tổ chức lao động, công
ty quy định chế độ trả lương cụ thể gắn với kết quả cuối cùng của từng
người lao động, từng bộ phận, như sau:
Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Hình thức trả lương theo thời gian.
1.2.1 Hình thức trả lương theo sản phẩm.
- Trong hình thức này, tiền lương của người lao động sẽ phụ thuộc
trực tiếp vào số lượng đơn vị sản phẩm được sản xuất ra và đơn giá trả
công cho một đơn vị sản phẩm.
Công thức :
TL = ĐG * Qtt
Trong đó :
TL : Tiền lương nhận được.
ĐG : Đơn giá sản phẩm.
Qtt : Khối lượng sản phẩm.
- Đối tượng áp dụng: Tiền lương theo sản phẩm chỉ phù hợp với
những công việc mà ở đó dây chuyền sản xuất đảm bảo được liên tục,
các công việc có thể định mức được, có tính lặp đi lặp lại và không đòi
hỏi trình độ lành nghề cao, năng suất lao động phụ thuộc chủ yếu vào
sự nỗ lực của người lao động và việc tăng năng suất không ảnh hưởng
lớn tới chất lượng sản phẩm.
- Ưu điểm: Của hình thức trả lương theo sản phẩm là có tác dụng
khuyến khích tài chính đối với người lao động, thúc đẩy hị nâng cao
năng suất lao động đặc biệt đối với những người có mong muốn mạnh
mẽ nâng cao thu nhập, vì tiền lương mà họ nhận được phụ thuộc trực

tiếp vào lượng sản phẩm của họ. Việc tính toán tiền lương cũng đơn
giản và có thể giải thích dễ dàng đối với người lao động.
- Nhược điểm: Trả lương theo sản phẩm có thể dẫn đến tình trạng
người lao động ít quan tâm đến đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiết kiệm
nguyên vật liệu và sử dụng hợp lý máy móc, thiết bị. Nhiều trường hợp
người lao động không muốn làm công việc đòi hỏi trình độ lành nghề
cao vì khó vượt mức lao động.
- Để áp dụng hình thức trả lương này cần có các điều kiện :
+ Phải có hệ thống mức lao động được xây dựng có căn cứ khoa
học ( mức được xây dựng thông qua các phương pháp khảo sát như
bấm giờ, chụp ảnh các bước công việc để có được lượng thời gian hao
phí chính xác của từng bước công việc ) đảm bảo tính trung bình tiên
tiến của hệ thống mức lao động.
+ Phải tổ chức phục vụ nơi làm việc tốt, góp phần hạn chế tối đa
lượng thời gian làm hao phí không cần thiết, giúp người lao động có đủ
điều kiện hoàn thành công việc được giao.
+ Phải có chế độ kiểm tra nghiệm thu sản phẩm được kịp thời bởi vì
lương của công nhân phụ thuộc rất lớn vào số lượng sản phẩm xuất ra
đúng quy cách chất lượng.Giáo dục tốt ý thức trách nhiệm của người
lao động để họ vừa phấn đấu nâng cao năng suất lao động tăng thu
nhập, nhưng vừa phải đảm bảo chất lượng sản phẩm đồng thời tiết
kiệm nguyên vật liệu, sử dụng hiệu quả máy móc trang thiết bị .
- Hình thức trả công theo sản phẩm có thể được thực hiện theo
nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc vào đối tượng trả công. Dưới đây là
một số chế độ đã và đang được áp dụng trong sản xuất:
1.2.1.1 Hình thức trả lương sản phẩm trực tiếp cá nhân :
- Trong chế độ này, đơn giá được theo công thức :
ĐG = TLcv / Q hoặc ĐG = TLcv * T
Và TLsp = Đ*Qtt
Trong đó :

ĐG : là đơn giá tiền lương trả cho một sản phẩm .
TLcv : Lương theo cấp bậc của công việc.
Q : Mức sản lượng của công nhân trong kỳ.
T : Mức thời gian hoàn thành một đơn vị sản phẩm.
Qtt : Số sản phẩm thực tế được nghiệm thu.
TL
SP
: Tiền lương công nhân được nhận trong kỳ.
- Đối tượng áp dụng: Chế độ trả công này thường áp dụng đối với
những công nhân sản xuất chính mà công việc của họ mang tính chất
độc lập tương đối có thể định mức và kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm
một cách cụ thể và riêng biệt
- Ưu điểm: Chế độ trả công theo sản phẩm trực tiếp cá nhân là mối
quan hệ giữa tiền lương mà công nhân nhận được và kết quả lao động
thể hiện rõ ràng, do đó kích thích công nhân cố gắng nâng cao năng
suất lao dộng nhầm nâng cao thu nhập. Việc tính toàn tiền lương đơn
giản, công nhân có thể dễ dàng tính được số tiền lượng nhận được sau
khi hoàn thành nhiệm vụ
- Nhược điểm. Chế độ tiền lương này có nhược điểm là làm cho
công nhân ít qua tâm đến việc sử dụng tốt máy móc, thiết bị và nguyền
vật liệu, ít chăm lo đến công việc sử dụng tốt máy móc, thiết bị và
nguyên vật liệu, ít chăm lo đến công việc chung của tập thể...
1.2.1.2 Hình thức trả lương theo sản phẩm tập thể :
- Đơn giá tiền lương tính như sau:
Nếu tổ hoàn thành nhiều sản phẩm trong kỳ:
ĐG = N * Lcv / Q
Nếu tổ hoàn thành một sản phẩm trong kỳ:
ĐG = Lcv * T
Trong đó:
ĐG : Đơn giá tiền lương trả cho tổ sản xuất trong kỳ.

Qo : Mức sản lượng của cả tổ sản xuất.
Lcb : Tiền lương cấp bậc của công nhân.
N: Số công nhân trong tổ.
To: Mức thời gian của cả tổ.
- Tiền lương thực tế mà công nhân nhận được là
TLtổ = ĐG * Qtt
Trong đó:

×