Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.46 KB, 22 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE
CƠ GIỚI.
1. S c n thi t khách quan c a b o hi m v t ch t xe cự ầ ế ủ ả ể ậ ấ ơ
gi i.ớ
Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất kinh doanh, con người luôn phải
đối mặt với rất nhiều rủi ro. Ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã giúp
con người kiểm soát, hạn chế được phần nào một số rủi ro. Song, chính bàn tay con
người lại gây ra nhiều loại rủi ro khác và không ít rủi ro trong xã hội hiện đại đang
đe doạ cuộc sống loài người với mức độ nguy hiểm khôn lường. Để bù đắp những
thiệt hại, tổn thất có thể gặp phải, từ trước đến nay, loài người đã có nhiều biện
pháp, và bảo hiểm luôn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Có nhiều định nghĩa
về bảo hiểm, nhưng ở một tầm nhìn khái quát, bảo hiểm thường được hiểu là
phương sách xử lý rủi ro, nhờ đó việc chuyển giao và phân tán rủi ro trong từng
nhóm người được thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các tổ
chức bảo hiểm.
Trong nền kinh tế, giao thông vận tải luôn là ngành kinh tế kỹ thuật có vị trí
then chốt, là huyết mạch và có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các ngành
khác. Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn thì nhu cầu đi
lại cũng tăng lên một cách nhanh chóng. Hình thức vận chuyển đa dạng bằng
đường thuỷ, đường sắt, đường bộ, đường hàng không. Số lượng và chất lượng
phương tiện vận chuyển ngày càng tăng. Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên
thế giới, giao thông đường bộ phổ biến hơn cả. Bởi vì, xe cơ giới tham gia giao
thông đường bộ có đặc điểm linh hoạt và được sử dụng trên mọi địa hình khác
nhau, rất thuận tiện cho việc vận chuyển hành khách và hàng hoá. Do vậy, chính
phủ các nước đều luôn quan tâm đến công tác nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng
giao thông đường bộ để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa ngày càng
gia tăng.
Tuy nhiên, XCG được vận hành bằng một lực do động cơ tạo ra nên được
coi là một nguồn nguy hiểm cao độ. Do vậy, rủi ro tai nạn giao thông đường bộ rất
dễ xảy ra. Sự phát triển của xe cơ giới luôn gắn với sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Nếu hạ tầng giao thông chưa phát triển mà số lượng phương tiện giao thông lại


tăng lên quá nhanh thì sự không đồng bộ này sẽ là một trong những nguyên nhân
khiến cho tai nạn giao thông nhiều thêm. Ở Việt Nam hiện nay, số lượng phương
tiện giao thông đường bộ trong 10 năm qua tăng lên khá nhanh.
Bảng 1.1: Số xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ ở Việt Nam (1997-2007)
Nếu năm 1997, cả nước chỉ có khoảng 418 768 xe ô tô thì đến năm 2007 đã
có 1 183 260 xe (tăng 2,8 lần). Trong khi đó, số lượng xe máy tăng tới 4,6 lần, tăng
lên nhiều hơn so với mức tăng của phương tiện ô tô tham gia giao thông. Trong khi
đó tốc độ phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng ở nước ta hiện nay không đáp ứng
được nhu cầu tham gia giao thông. Đây là một trong những nguyên nhân quan
trọng khiến cho số vụ tai nạn giao thông ở Việt Nam khá cao. Bên cạnh đó, ý thức
cũng như sự hiểu biết và tôn trọng luật an toàn giao thông của một số chủ phương
tiện (phóng nhanh, vượt ẩu, chở quá tải …..) làm cho rủi ro tai nạn giao thông ngày
càng tăng. Ngoài ra, còn phải kể đến nguyên nhân của tình trạng gia tăng tai nạn
giao thông ở nước ta là do các phương tiện giao thông đường bộ cũ nát, không đảm
bảo chất lượng. Bảng số liệu thống kê dưới đây cho thấy tình hình tai nạn giao
thông đường bộ ở nước ta trong hơn 10 năm qua.
Năm Ô tô
So sánh với năm trước
Mô tô
So sánh với năm trước
Tổng số
Tăng (giảm)
tuyệt đối
Tăng (giảm)
tương đối
(%)
Tăng (giảm)
tuyệt đối
Tăng (giảm)
tương đối

(%)
1997 418 768 31 789 8,20 4 827 219 618 945 14,70 5 245 987
1998 443 000 24 232 5,80 5 200 000 372 781 7,70 5 643 000
1999 465 000 22 000 5,00 5 585 000 385 000 7,40 6 050 000
2000 483 917 18 917 4,10 6 210 823 625 823 11,20 6 694 740
2001 557 092 73 175 15,10 8 359 042 2 148 219 34,60 8 916 134
2002 607 401 50 309 9,00 10 273 000 1 913 958 22,90 10 880 401
2003 675 000 67 599 11,10 11 379 000 1 106 000 10,80 12 054 000
2004 774 824 99 824 14,80 13 375 992 1 996 992 17,50 14 150 816
2005 891 104 116 280 15,00 16 086 644 2 710 652 20,30 16 977 748
2006 1026 512 135 408 15,20 18 901 206 2 814 562 17,50 19 927 718
2007 1183 260 156 748 15,27 22 350 676 3 449 470 18,25 23 533 936
(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban an toàn giao thông)
Bảng 1.2: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam (1997-2007)
Năm
Số vụ Số người chết Số người bị thương
Số vụ
So sánh với năm trước
Số
người
chết
So sánh với năm trước
Số
người bị
thương
So sánh với năm trước
Tăng(giảm
) tuyệt đối
(%)
Tăng(giảm

) tương đối
(%)
Tăng(giảm
) tuyệt đối
(%)
Tăng(giảm
) tương đối
(%)
Tăng(giảm
) tuyệt đối
(%)
Tăng(giảm
) tương đối
(%)
1997 19159 84 0.44 5680 99 1.77 21905 349 1.62
1998 19975 816 4.26 6067 387 6.81 22723 818 3.73
1999 20733 758 3.79 6670 603 9.94 23911 1188 5.23
2000 22486 1753 8.46 7500 830 12.44 25400 1489 6.23
2001 25040 2554 11.36 10477 2977 39.69 29188 3788 14.91
2002 27134 2094 8.36 12800 2323 22.17 30733 1545 5.29
2003 19852 -7282 -26.84 11319 -1481 -11.57 20400 -10333 -33.62
2004 16911 -2941 -14.81 11739 420 3.71 15142 -5258 -25.77
2005 14141 -2770 -16.38 11184 -555 -4.73 11760 -3382 -22.34
2006 14668 527 3.73 12600 1416 12.66 11253 -507 -4.31
2007 14624 -44 -0.3 13150 550 4.37 10546 -707 -6.28
(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông )
Theo số liệu đưa ra ở bảng trên, mặc dù từ 2002 đến nay, số vụ TNGT ở
nước ta có xu hướng giảm đi, song xét trong cả thời kỳ 1997–2007, số vụ TNGT
đã giảm đi, số người chết lại tăng lên 6,3 lần và số người bị thương tăng lên 2,4
lần. Như vậy, số vụ tai nạn nghiêm trọng lại có chiều hướng gia tăng.

Khi tai nạn giao thông xảy ra, các chủ xe không những thiệt hại về người, về
mặt tinh thần mà còn thiệt hại cả về vật chất. Thực tế này đã tạo ra cả sức ép tài
chính lẫn tinh thần đối với các chủ phương tiện giao thông đường bộ. Chính vì vậy,
bảo hiểm xe cơ giới đã được triển khai ở hầu hết các nước trên thế giới trong đó có
Việt Nam nhằm đáp ứng cho nhu cầu được bảo vệ của chủ xe khi có rủi ro tai nạn
giao thông xảy ra.
Bảo hiểm xe cơ giới là tập hợp các nghiệp vụ bảo hiểm gắn với các rủi ro tai
nạn giao thông đường bộ, bao gồm: bảo hiểm vật chất xe cơ giới, bảo hiểm TNDS
chủ xe đối với người thứ ba và hành khách, bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với
hàng hoá trên xe, bảo hiểm tai nạn người ngồi và lái, phụ xe,… Trong số đó, bảo
hiểm vật chất xe cùng với bảo hiểm TNDS chủ xe đối với người thứ ba là hai
nghiệp vụ chủ yếu hay được triển khai nhất. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này
em xin được tập trung chủ yếu vào phần nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
2. Tác d ng c a b o hi m v t ch t xe c gi i.ụ ủ ả ể ậ ấ ơ ớ
2.1 Góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi gặp rủi ro tai nạn
giao thông
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã và đang có những
chuyển biến to lớn cả về chất và về lượng, Nhà nước không ngừng khuyến khích
mọi thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh nhằm tận dụng nguồn tài chính nhàn
rỗi trong dân cư vào đầu tư kinh doanh để sinh lời. Đối với một doanh nghiệp thì
nguồn vốn quyết định sức mạnh, vị thế. Chính vì vậy mà trong quá trình kinh
doanh, doanh nghiệp dự trữ một khoản tiền tương đối lớn để đề phòng khi rủi ro
xảy ra bất ngờ thì quả là lãng phí. Đặc biệt đối với doanh nghiệp đầu xe nhiều thì
quỹ dự trữ chiếm tỷ lệ lớn và rất khó xác định. Khó khăn này sẽ được giải quyết
thông qua hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm và
quỹ này hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít’’. Lúc này thay vì phải lập
một quỹ riêng cho doanh nghiệp, chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ
một quỹ lớn hơn rất nhiều do các thành viên khác cùng đóng góp.
Khi tham gia bảo hiểm, không ai muốn rủi ro xảy ra để được bảo hiểm. Tuy
nhiên, rủi ro không loại trừ bất kỳ ai và có thể xảy ra bất cứ khi nào. Hậu quả là có

thể gây thiệt hại cả về người và của cho chủ phương tiện và người thứ ba. Khi xảy
ra tai nạn, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường trong hạn mức mà hai bên đã thỏa
thuận. Số tiền bồi thường của công ty cho chủ phương tiện giúp họ ổn định tình
hình tài chính, nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn trong sản xuất kinh
doanh. Có thể nói, bảo hiểm xe cơ giới đã góp phần tạo ra một tâm lý yên tâm,
thoải mái cho các chủ xe, lái xe khi điều khiển các phương tiện tham gia giao
thông.
2.2 Góp phần ngăn ngừa và đề phòng hạn chế tổn thất do tai nạn giao thông
gây ra.
Số phí thu được từ người tham gia bảo hiểm sẽ hình thành nên một quỹ rất
lớn, quỹ này ngoài việc sử dụng bồi thường cho chủ xe cơ giới khi rủi ro xảy ra,
còn sử dụng để đề phòng hạn chế tổn thất như hỗ trợ đầu tư xây dựng đường lánh
nạn, đường phụ, làm thêm các biển báo chỉ đường, v.v… góp một phần không nhỏ
làm giảm thiểu nguy cơ gây tai nạn.
Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, các
DNBH còn có các chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích các chủ xe nâng
cao ý thức đề phòng hạn chế rủi ro và tổn thất thông qua việc thực hiện tuyên
truyền luật an toàn giao thông, phổ biến, nâng cao ý thức của mọi tầng lớp dân cư.
2.3 Góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước và tạo thêm việc làm cho
người lao động.
Đời sống của con người ngày càng được nâng cao, số lượng xe cơ giới cũng
ngày một tăng. Hơn nữa khi điều kiện sống đầy đủ, trình độ nhận thức cao hơn thì
nhu cầu bảo vệ cho bản thân, gia đình, tài sản lại càng được nâng lên, DNBH sẽ
ngày càng được mở rộng về quy mô, thu hút một lực lượng lao động không nhỏ
tham gia, góp phần tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho lao động. Mặt
khác, hoạt động bảo hiểm xe cơ giới là loại hình bảo hiểm thương mại, vì vậy công
ty bảo hiểm còn có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua các
hình thức nộp thuế, tức tăng thu cho ngân sách. Ngược lại, chính phủ có thể sử
dụng ngân sách phối hợp với doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất
lượng cơ sở hạ tầng, mở rộng quy mô hoạt động, tạo công ăn việc làm cho người

lao động, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
3. N i dung c b n c a b o hi m v t ch t xe c gi i.ộ ơ ả ủ ả ể ậ ấ ơ ớ
3.1 Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản, và nó được thực
hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là
để được bồi thường những thiệt hại về vật chất xảy ra với xe của mình do những
rủi ro gây nên thuộc phạm vi bảo hiểm. Vì vậy, đối tượng BH VCX cơ giới chính
là bản thân chiếc xe với đầy đủ các yếu tố như xe cơ giới phải có giá trị sử dụng;
xe phải được phép lưu hành theo quy định của pháp luật, đáp ứng được yêu cầu về
kỹ thuật và an toàn giao thông; và xe phải có đầy đủ các bộ phận để cấu thành một
chiếc xe hoàn chỉnh.
Ví dụ: Với xe ô tô thì cơ cấu xe thường bao gồm:
Tổng thành thân vỏ: 53,5%
Tổng thành động cơ: 15,5%
Tổng thành hộp số: 7,0%
Tổng thành cầu trước:
Tổng thành trục sau:
Tổng thành hệ thống lái:
Tổng thành săm, lốp:
Xe cơ giới được hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ
bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Đối với xe
mô tô, xe máy do chúng có giá trị thấp nên thường thì chủ xe ít tham gia bảo hiểm
vật chất XCG cho loại xe này. Đối với xe ô tô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ
xe hoặc cũng có thể tham gia bảo hiểm theo từng bộ phận của xe.
Xét về kỹ thuật xe cơ giới, người ta chia một ô tô thành 7 tổng thành cơ bản:
- Tổng thành thân vỏ bao gồm: cabin toàn bộ, calang, cabô, chắn bùn, toàn
bộ cửa và kinh, toàn bộ đèn và gương, toàn bộ phần vỏ kim loại, các cần gạt và bàn
đạp ga, cần số, phanh chân, phanh tay...
- Tổng thành hệ thống lái bao gồm : Vô lăng lái, trục tay lái, thanh kéo
ngang, thanh kéo dọc, phi de.

- Tổng thành hộp số: hộp số chính, hộp số phụ (nếu có).
- Tổng thành động cơ.
- Tổng thành trục trước (cần trước) bao gồm: dầm cầu trục lắp hệ thống treo
nhíp, may ơ nhíp, cơ cấu phanh, nếu là cần chủ động thì có thêm một cần vi sai với
vỏ cần.
- Tổng thành trục sau bao gồm: vỏ cầu toàn bộ, một cầu, vi sai, cụm may ơ
sau, cơ cấu phanh, xi lanh phanh, trục lắp ngang, hệ thống treo cầu sau, nhíp...
- Tổng thành bánh xe: lốp săm (kể cả săm lốp dự phòng).
Ngoài ra, đối với các xe chuyên dụng như xe cứu thương, xe cứu hoả, xe
chở container... thì có thêm tổng thành chuyên dụng.
Trong tất cả các tổng thành trên, tổng thành thân vỏ thường là phần dễ bị tổn
thất nhất khi rủi ro tai nạn giao thông xảy ra. Do đó, đây cũng chính là phần tổng
thành được các chủ xe lựa chọn tham gia bảo hiểm nhất. Hiện nay, ở nước ta có
trên 60% khách hàng mua bảo hiểm cho tổng thành này.
3.2. Phạm vi bảo hiểm
a. Rủi ro được bảo hiểm
* Nhà bảo hiểm thường quy định bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật
chất xảy ra do tai nạn bất ngờ, ngoài sự kiểm soát của chủ xe, lái xe trong những
trường hợp sau đây:
- Tai nạn do đâm, va, lật, đổ.
- Hỏa hoạn, cháy, nổ
- Những tổn thất do thiên nhiên như: bão, lũ lụt, sét đánh, động đất, mưa
đá, sụt lở…
- Mất cắp toàn bộ xe (đối với xe mô tô chỉ bảo hiểm khi có thỏa thuận
riêng).
- Tai nạn, rủi ro bất ngờ khác gây nên (Ngoài những điểm loại trừ quy
định tại mục b dưới đây)
Ngoài ra DNBH còn thanh toán những chí phí cần thiết và hợp lý nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các
nguyên nhân trên.

- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.
- Chi phí giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của DNBH không
vượt quá số tiền bảo hiểm được ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm.
b. Rủi ro loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
* Những điểm loại trừ chung:
DNBH không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp
sau đây:
- Hành động cố ý gây thiệt hại của Chủ xe, lái xe hoặc của người bị thiệt
hại.
- Xe không có Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi
trường, hoặc có nhưng không hợp lệ (Trừ khi có những thỏa thuận khác).
- Lái xe không có giấy phép lái xe (Đối với loại xe cơ giới bắt buộc phải
có Giấy phép lái xe) hoặc có nhưng không hợp lệ.

×