Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

TỔNG QUAN VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM HOA KỲ VÀ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.16 KB, 36 trang )

TỔNG QUAN VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM HOA KỲ VÀ THỰC TRẠNG XUẤT
KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
2.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ năm 2000 đến nay
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu
Tính đến hết năm 2007, Việt Nam có 10 ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu
trị giá hơn 1 tỷ USD là: Dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ, đồ điện tử và linh
kiện máy tính, sản phẩm cơ khí, gạo, cao su, và cà phê. Trong đó, giá trị kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may đứng thứ 2, chỉ sau dầu thô. Tuy nhiên, một số chuyên gia
kinh tế nhận xét rằng trong thời gian tới, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may có thể sẽ
vượt cả dầu thơ để vươn lên chiếm vị trí số 1 trong số các ngành hàng xuất khẩu của
Việt Nam.
Bảng 2.1: Các nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD của Việt Nam năm
2007
Thứ tự

Mặt hàng

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Dầu thơ
Dệt may
Giầy dép


Thủy sản
Gỗ
Điện tử và linh kiện máy tính
Sản phẩm cơ khí
Gạo
Cao su
Cà phê

Kim ngạch xuất khẩu
(Tỷ USD)
8,4
7,7
3,9
3,75
2,34
2,2
2,2
1,48
1,41
1,2

(Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Công thương)
Từ bảng số liệu trên, chúng ta có thể thấy rõ hơn vai trị quan trọng của ngành
dệt may đối với nền kinh tế Việt Nam. Như chúng ta đã biết, dệt may là một trong
những ngành công nghiệp sản xuất, xuất khẩu quan trọng của nền kinh tế Việt Nam,
với khả năng thu hút lao động lớn và đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của nhân dân và phục
vụ xuất khẩu đem lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước. Không những là ngành hàng
có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn, dệt may cịn là ngành hàng có tốc độ tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh và ổn định.



Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ 2000 – 2007
(Đơn vị: Triệu USD, %)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008*

Kim ngạch xuất khẩu Tốc độ tăng trưởng)
1892
1962
3,7
2752
40,27
3600
30,8
4386
21,8
4837,5
11,21
5834
20,6
7780
33,70

9500
21,79
(Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam)
*: Số liệu dự kiến

Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy rõ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn
tăng qua các năm từ 2000 – 2008. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch trung bình trong giai
đoạn 2000 – 2008 là 21,4%. Trong đó giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2008 gấp
khoảng 5 lần so với năm 2000 (9500 triệu USD so với 1892 triệu USD). Giá trị tuyệt
đối tăng tới 7,608 tỷ USD.
Năm 2008, xuất khẩu hàng dệt may dự kiến đạt khoảng 9,5 tỷ USD (theo Hiệp
hội Dệt may Việt Nam). Mục tiêu này là rất khả quan do Việt Nam đã gia nhập WTO,
dệt may Việt Nam từ chỗ bị khống chế theo hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ thì nay
đã được phép xuất theo năng lực và nhu cầu thị trường. Với quy chế của một thành
viên WTO, các doanh nghiệp được hưởng điều kiện kinh doanh bình đẳng. Thuế nhập
khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam vào một số thị trường sẽ giảm, tạo điều kiện
thuận lợi cho hàng Việt Nam thâm nhập các thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, đầu
tư nước ngồi vào dệt may Việt Nam sẽ tăng đáng kể, nhất là đầu tư vào hạ tầng của
ngành dệt may sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất chủ động hơn, hạ thấp giá
thành, tăng khả năng cạnh tranh cho hàng dệt may... qua đó đẩy mạnh xuất khẩu.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam trong năm 2007 đạt 7,78 tỷ USD, tăng 33,7% so với năm
2006. Kế hoạch xuất khẩu của ngành trong năm 2006 đã được hoàn thành tốt nhờ sự
cố gắng của các doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan quản lý


trong việc điều hành cơ chế hạn ngạch được minh bạch, rõ ràng, giúp cho các doanh
nghiệp hoàn thành tốt cơng tác xuất khẩu của mình.
Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, trong năm 2007 các chủng loại mặt hàng có
kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là áo jacket, quần, áo sơ mi, áo thun, áo khoác, quần

short, quần áo thể thao, váy, quần áo sợi acrylic… và giảm xuất ở một vài mặt hàng
như áo len, đồ lót, caravat, khăn, quần áo jacket… Xét về trị giá, mặt hàng quần là
chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cao nhất, tăng tới 81 triệu USD so
với năm 2005, đạt 205 triệu USD. Đứng thứ hai là mặt hàng áo jacket với mức tăng 63
triệu USD. Tuy nhiên, xét theo tổng kim ngạch xuất khẩu thì áo jacket là mặt hàng có
kim ngạch xuất khẩu cao nhất, đạt 246 triệu USD. Đứng thứ ba là áo thun, với mức
chênh lệch kim ngạch xuất khẩu lên tới 50 triệu USD, tăng 81% so với năm 2005, đạt
112 triệu USD. Trong khi xuất khẩu áo sơ mi lại tăng thấp, chỉ tăng 9 triệu USD,
tương đương với 8,32% so với năm 2005, đạt 117 triệu USD – là mặt hàng có kim
ngạch xuất khẩu đứng cao thứ ba. Trong khi đó, xuất khẩu đồ lót và mặt hàng áo len
lại giảm so với năm 2005. Bên cạnh đó, các mặt hàng như áo gió, áo ghilê, khăn,
màn… cũng giảm xuất khẩu sang EU. Các mặt hàng như túi ngủ, quần áo mưa, găng
tay, áo Kimono có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tăng rất cao trong năm
2006. Cùng với các mặt hàng xuất khẩu truyền thống, xuất khẩu các chủng loại mặt
hàng này tiếp tục tăng mạnh trong năm 2007.
Tuy nhiên, một bất lợi cho việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam là chúng ta chưa tự chủ được trong khâu nguyên phụ liệu. Do đó, rất nhiều cơng
ty vẫn chủ yếu là gia cộng th cho nước ngồi, vì vậy tuy kim ngạch xuất khẩu khá
lớn nhưng lợi nhuận chứa đựng trong đó lại khơng cao, phía Việt Nam vẫn chủ yếu là
lấy công làm lãi.
Hiện nay, 70% nguyên phụ liệu dệt may Việt Nam phải nhập khẩu. Cả một
ngành công nghiệp dệt may gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Là một
trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tốc độ tăng trưởng trung bình
khoảng 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may chiếm khoảng 15% tổng kim
ngạch xuất khẩu cả nước.
Thế nhưng giá trị thu về từ xuất khẩu dệt may là rất thấp, bởi dệt may Việt
Nam chủ yếu là gia công cho nhà nhập khẩu nước ngoài.


Theo các số liệu thống kê của Bộ Công thương, trong tháng 7/2007, kim ngạch

nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may gồm bông, sợi, xơ đã tăng lên 32% so với cùng kỳ
năm 2006, đạt trên 200 triệu USD. Trước đó, tháng 6/2007, kim ngạch nhập khẩu
nguyên phụ liệu dệt may đạt 250 triệu USD, tăng 42,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 7 tháng đầu năm, nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may đạt khoảng 1,3 tỷ
USD, tăng khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2006.
Hiện nay, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để bảo đảm sản xuất cần đến 95%
xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt thoi.
Qua đó, có thể thấy rằng cả một ngành cơng nghiệp dệt may gần như hồn tồn phụ
thuộc vào nước ngồi.
Để sản xuất ổn định, hầu như các cơng ty ngành dệt may đều phải chấp nhận
gia công cho đối tác nước ngoài, dù lợi nhuận thấp. Bởi khi gia công, đối tác sẽ cung
ứng kịp thời, đầy đủ nguyên phụ liệu. Còn sản xuất theo dạng FOB (mua đứt, bán
đoạn), lợi nhuận cao hơn, nhưng bù lại phải chịu khó tự tìm nguồn ngun phụ liệu
bằng cách nhập khẩu.
Vì lẽ đó, doanh nghiệp mất thời gian phân loại, phối màu - chuyện hết sức bình
thường trong thời buổi có đến 70% ngun phụ liệu trơng chờ vào nhập khẩu. Như
vậy, để bảo đảm nguyên phụ liệu đạt chất lượng, nhiều khi doanh nghiệp phải ra nước
ngoài để đặt mua.
Ngành dệt may Việt Nam chỉ có thể đáp ứng 30% nhu cầu ngun phụ liệu và
điều này khơng có nghĩa là năng lực của ngành kém, không đủ sức sản xuất. Về cơ
bản, phụ liệu nội địa có thể đáp ứng đủ và nguyên liệu nội địa có thể đáp ứng đến 70%
nhu cầu sản xuất; nhưng do yêu cầu về thành phẩm của đối tác nước ngoài cao,
nguyên phụ liệu Việt Nam chưa đáp ứng được, vì thế phải nhập từ nước ngồi. Việt
Nam hiện cũng chưa có đội ngũ thiết kế kiểu dáng nguyên liệu (vải) chuyên nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam có vai trị vơ cùng quan trọng đối
với sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Điều đó được thể hiện qua hình 2.1 và 2.2


Hình 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may và tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam từ năm 2000 - 2007

60000
50000
40000
30000
20000
10000
0
2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Chú thích: DM: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
TKN: Tổng kim ngạch xuất khẩu
(Nguồn: Bảng 1.1 và 2.2)

Hình 2.2: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may so với tổng kim ngạch xuất
khẩu
0.2

0.18
0.16
0.14
0.12
0.1
0.08
0.06
0.04
0.02
0
2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Chú thích: TT (2000) = DM (2000)/ TKN(2000)
TT: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may so với tổng kim ngạch
(Nguồn: Bảng 1.1, 2.2 và tính tốn của tác giả)



Từ các hình 1.1 và 1.2 chúng ta rút ra các nhận xét sau:
- Cả hai cột màu vàng và xanh cao dần. Điều đó chứng tỏ cả kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may cũng như tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đều tăng theo thời
gian.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chiếm một tỷ trọng khá lớn so với tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể là từ năm 2000 – 2007 tỷ lệ đó ln đạt khoảng
13 – 17%. Từ đó càng cho thấy rõ vai trò quan trọng của ngành dệt may đối với nền
kinh tế Việt Nam nói chung.
2.2.2. Cơ cấu sản phẩm dệt may xuất khẩu
Năm 2006
Chủng loại
Áo thun
Quần dài
Áo Jacket
Áo sơ mi
Áo khốc
Quần Short
Váy
Vải
Áo loại khác
Q.áo trẻ em
Đồ lót
Quần áo Vest
Q, áo loại khác
Q, thể thao
Áo Kimono
Màn
Áo len
Q.áo ngủ

Găng tay
Khăn bơng
Q.áo BHLĐ
Q.áo bơi
Khăn
Quần Jean
Áo Ghilê
Áo nỉ
Khăn lơng
Bít tất

Năm 2007

Kim ngạch Tăng trưởng so Tỷ trọng Kim ngạch Tăng trưởng so Tỷ trọng
(triệu USD) với 2005 (%)
(%) (triệu USD) với 2006 (%)
(%)

945,5
1064,0
870,4
417,1
289,5
241,0
197,1
205,2
338,9
131,8
172,1
111,5

75,5
70,3
92,4
82,9
63,3
40,7
29,0
71,2
37,3
31,1
12,4
11,3
28,8
16,6
24,2
7,5

24,55
27,10
17,18
5,09
30,26
49,79
35,09
65,05
80,44
19,89
6,95
22,68
-56,24

44,31
-1,33
233,89
7,98
25,97
70,49
47,78
91,11
0,19
-56,85
-16,23
70,52
-68,29
-3,61
16,34

16,21
18,24
14,92
7,15
4,96
4,13
3,38
3,52
5,81
2,26
2,95
1,91
1,29
1,20

1,58
1,42
1,09
0,70
0,50
1,22
0,64
0,53
0,21
0,19
0,49
0,28
0,42
0,13

1.535,5
1.351,3
1.120,7
465,2
368,2
355,0
321,2
297,4
294,4
259,9
204,0
124,7
123,4
103,3
91,5

83,2
76,1
69,5
60,1
59,4
41,2
41,2
33,8
31,3
30,3
26,2
24,1
14,9

62,41
27,00
28,76
11,52
27,20
47,30
63,00
44,91
-13,10
97,16
18,57
11,91
63,42
46,95
-0,91
0,39

20,20
70,56
107,17
-16,69
10,49
32,54
171,59
175,56
5,24
57,90
-0,48
97,98

19,74
17,37
14,40
5,98
4,73
4,56
4,13
3,82
3,78
3,34
2,62
1,60
1,59
1,33
1,18
1,07
0,98

0,89
0,77
0,76
0,53
0,53
0,43
0,40
0,39
0,34
0,31
0,19


Q.áo y tế
PL may
Q.áo Jacket
Hàng may mặc khác

6,9
12,5
4,8

17,27
-11,96
-95,83

0,12
0,21
0,08


13,4
10,3
9,1
91,8

49,40
-27,00
1808,32

0,17
0,13
0,12
1,18

2.3:xuất
Kim
ngạch
khẩu
hàng
chủ yếu
của(triệu
ViệtUSD)
Nam
Bảng 3.3: Bảng
Kim ngạch
khẩu
một sốxuất
mặt hàng
dệtmột
may số

chủmặt
yếu của
Việtdệt
Nammay
năm 2006
và 2007
trong năm 2006 và 2007
(Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam)

Từ bảng số liệu 2.3, chúng ta có thể thấy sự đa dạng về các mặt hàng dệt may
xuất khẩu của Việt Nam. Rất nhiều mặt hàng được sản xuất và xuất khẩu trên khắp
các thị trường thế giới. Có thể nói, hàng dệt may Việt Nam đáp ứng được nhu cầu rất
đa dạng của khách hàng trên thế giới.
Cũng từ bảng số liệu trên, chúng ta thấy rằng các mặt hàng áo thun, quần dài và
áo jacket có giá trị kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu của các mặt hàng này cũng khá lớn. Trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng áo thun là 62,41%, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng quần dài là 27% và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu áo jacket
là 28,76%. Chỉ tính riêng 3 mặt hàng này trong năm 2007 đã chiếm tới 51,51% tổng
giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Từ đó thấy rõ vai trò quan
trọng của 3 mặt hàng áo thun, quần dài và áo jacket trong hoạt động xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới nói chung.
Khi nhìn vào dịng cuối cùng của bảng 2.3, chúng ta có thể thấy trong năm
2006, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của “hàng may mặc khác” là –59,83%,
thế nhưng đến năm 2007, con số này là 1808,32%. Điều đó chứng tỏ Việt Nam đến
năm 2007 đã chú trọng đến việc đa dạng hóa các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Điều
này càng làm cho giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam có thể tăng cao
trong những năm tới nhờ việc đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu phục vụ nhu cầu của
đơng đảo khách hàng.
Cũng trong năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu quần áo y tế trong khi đến năm

2006 chúng ta chưa xuất khẩu được mặt hàng này. Điều đó càng cho thấy rõ chiến
lược đa dạng hóa sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam.
2.2.3. Những thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may Việt Nam
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã xúc tiến thực hiện các hoạt động nhằm
phát triển thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm dệt may Việt Nam thông qua các


hoạt động đàm phán cấp quốc gia và tiếp cận thị trường xuất khẩu, nhất là đối với khu
vực thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương,
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giảm dần trong giai đoạn
2000 – 2001 và trong năm 2002 thì lại tăng lên đáng kể.
Bảng 2.4: Các thị trường xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam
Năm 2006
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

17
18
19
20
21
22
23

Thị trường
Hoa Kỳ
EU
Nhật Bản
Đài Loan
Canada
Hàn Quốc
Nga
Mêhicơ
Trung Quốc
Thổ Nhĩ Kỳ
Hồng Kơng
UAE
Campuchia
Malaysia
Singapore
Inđơnêxia
Ả Rập Xê út
Ơxtrâylia
Ukraina
Thái Lan
Nam Phi

Thụy Sỹ
Philipine
Tổng

Năm 2007

Kim ngạch Tăng trưởng Tỷ trọng Kim ngạch Tăng trưởng Tỷ trọng
(triệu USD) so với 2005 (%) (%) (triệu USD) so với 2006 (%) (%)
3044,6
1243,8
627,6
181,4
97,3
82,9
62,4

16,97
37,46
3,93
-0,95
20,23
67,55
30,33

29,7
5,7
31,1
27,4
18,5
33,7

19,1
17,4
18,1
23,7
12,2
10,7
3,4
10,8
6,4
5834

265,92
134,99
148,75
351,44
564
37,78
285,40
1,04
166,95
-4,54
284,32
367,75
124,38
31,97
373,29

52,18
21,32
10,76

3,11
1,67
1,42
1,07
0
0,51
0,10
0,53
0,47
0,32
0,58
0,33
0,30
0,31
0,41
0,21
0,18
0,06
0,19
0,11

(Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam)
Từ bảng số liệu, chúng ta nhận thấy:

4464,8
1489,3
703,8
161,1
135,5
85,0

79,0
54,5
43,1
37,8
36,6
28,5
28,5
25,3
24,2
24,8
27,2
24,2
21,4
16,4
13,3
11,3
11,2
7780

46,65
19,74
12,14
-11,18
39,25
2,49
26,59
45,17
563,80
17,60
4,15

54,15
-24,79
26,40
42,40
49,91
2,08
75,20
53,24
294,27
4,80
76,14

57,39
19,14
9,05
2,07
1,74
1,09
1,02
0,70
0,55
0,49
0,47
0,37
0,37
0,33
0,31
0,32
0,35
0,31

0,28
0,21
0,17
0,15
0,14




Đối với thị trường Mêhicô, cho đến năm 2007 Việt Nam mới xuất khẩu hàng dệt

may sang thị trường này, điều đó cho thấy chiến lược đa dạng hóa thị trường đối với
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.


Ở hầu hết các thị trường xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng kim ngạch hàng dệt may

xuất khẩu của Việt Nam là dương. Điều đó cho thấy chúng ta khơng chỉ tăng quy mơ
xuất khẩu mà cịn chú trọng đến tất cả các thị trường, khơng vì chú trọng xuất khẩu
sang các thị trường chính mà bỏ sót các thị trường khác.


Các thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật

Bản, Đài Loan. Mặc dù trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang thị trường Đài Loan giảm nhưng Đài Loan vẫn là thị trường xuất khẩu hàng dệt
may lớn thứ 4 của Việt Nam.


Hàng dệt may Việt Nam còn xuất khẩu sang cả thị trường Trung Quốc – nước


xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Điều đó cho thấy hàng dệt may Việt Nam
có những ưu điểm mà hàng dệt may Trung Quốc khơng có được. Điều đó thể hiện
hàng dệt may Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao hơn hàng dệt may Trung Quốc ở
một số điểm nhất định.
Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Cơng thương thì trong q I năm
2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU đạt 94,4 triệu
USD, giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2002 nhưng lại tăng so với cùng kỳ năm 2001.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Canada đạt khoảng 3,7 triệu USD, giảm
mạnh so với cùng kỳ năm 2002.
Việt Nam đã thâm nhập và chiếm lĩnh một số thị trường phi hạn ngạch như Đài
Loan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Singapore, và Đông Âu…Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam sang các thị trường này có mức tăng trưởng khá cao và ổn định.
Các thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU,
Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản… Trong đó phải kể đến vai trị cực kỳ quan trọng của thị
trường Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ liên tục tăng nhanh và bền vững qua các năm. Theo số liệu của Hiệp hội dệt
may Việt Nam, nếu như trong năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ mới chỉ là 49.5 triệu USD thì đến năm 2006, con số này
đã lên đến 3044 triệu USD.


Trong năm 2006, giá trị kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam sang
thị trường Hoa Kỳ đạt 3,044 tỷ USD, tăng lên 16,97% so với năm 2005. Cơ chế phân
bổ hạn ngạch của Hoa Kỳ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này, hạn ngạch ở các Cat hầu như đều
hoàn thành 100%.
Năm 2006 đồng thời cũng là một năm thành công với các doanh nghiệp tham
gia xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường EU của hàng dệt may Việt Nam tăng lên 37% so với năm 2005, đạt 1,243 tỷ

USD. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2006 của hàng dệt may Việt Nam sang EU cao
nhất từ trước đến nay.
Trong khi hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu tăng mạnh sang Hoa Kỳ và
EU, thì xuất khẩu sang Nhật Bản lại tăng chậm, còn xuất khẩu tới Đài Loan lại giảm.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản chỉ tăng 3,93%, đạt
627 triệu USD. Đây là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam. Bởi các doanh nghiệp phải thực hiện hai nhiệm vụ, tăng
trưởng xuất khẩu sang Hoa Kỳ và EU trong khi vẫn phải duy trì và tăng trưởng xuất
khẩu vào Nhật Bản. Trước những rào cản từ thị trường Hoa Kỳ thì Nhật Bản vẫn ln
là một trong những khách hàng thích hợp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam trong năm 2007 và những năm sau.
Theo các số liệu thống kê của của Tổng cục hải quan, trong khi xuất khẩu sang
Đài Loan - khách hàng truyền thống và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt
Nam năm 2006 khơng duy trì được tiến độ, giảm so với năm 2005 chỉ đạt 181 triệu
USD, thì xuất khẩu sang các thị trường khác lại tăng mạnh, cụ thể xuất khẩu sang Hàn
Quốc tăng 67%, đạt 82 triệu USD; Xuất khẩu sang Nga tăng 30%, đạt 62 triệu USD;
Xuất khẩu sang Canada tăng 20%, đạt 97 triệu USD; Xuất khẩu sang UAE tăng 351%,
đạt 27 triệu USD...
Ngoài ra, xuất khẩu hàng dệt may sang các nước trong khu vực ASEAN cũng
tăng khá như Malaixia tăng 37%; Singapo tăng 285%; Campuchia và Indonesia tăng
kỷ lục… Cùng với đó, xuất khẩu sang các nước châu Á khác cũng tăng mạnh như
Hồng Kông tăng 148%. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số thị
trường như Trung Quốc giảm 99%; Ôxtrâylia giảm 5%...


Hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Đức đạt kim ngạch cao
nhất trong các nước thành viên EU, đạt 321 triệu USD, tăng 35,68% so với năm 2005.
Tiếp đến là Anh với tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu là 43%, đạt 220 triệu
USD và Pháp với tốc độ tăng 37%, kim ngạch xuất khẩu đạt 142 triệu USD. Xuất
khẩu sang Hà Lan đạt 116 triệu USD, tăng 46% và xuất khẩu sang Tây Ban Nha đạt

109 triệu USD, tăng 30%. … Tiếp theo những kết quả xuất khẩu tốt đẹp trong năm
2006, dự đoán xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU trong năm 2007 tiếp
tục tăng trưởng mạnh.
Theo Thông tấn xã Việt Nam, trong năm 2008, ngành dệt may Việt Nam đặt
mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 9,5 tỷ USD, tăng trên 23% so với năm trước, trong
đó riêng xuất khẩu sang 3 thị trường lớn là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản dự kiến chiếm
hơn 85%. Trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ dự kiến đạt khoảng 5,5 tỷ USD, EU
khoảng 1,8 tỷ USD và Nhật Bản khoảng 800 triệu USD.
Phát biểu tại hội nghị về kế hoạch xuất khẩu của ngành dệt may năm 2008, tổ
chức ngày 10/1 tại Hà Nội, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việc Nam đã
chỉ ra những khó khăn, thách thức lớn trong năm tới mà các doanh nghiệp dệt may
trong nước tiếp tục phải đối mặt, trong đó có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên 3
thị trường nhập khẩu chính nói trên.
Theo ơng Ân, việc EU sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc từ năm
2008 sẽ đẩy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vào thế cạnh tranh gay gắt hơn.
Đối với thị trường Nhật Bản, sáu nước trong khu vực Đông Nam Á gồm
Xingapo, Malaixia, Philippin, Inđônêxia, Brunây và Thái Lan đã được hạ mức thuế
xuống 0% khi xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản; trong khi hàng dệt may của Việt
Nam vẫn đang phải chịu mức thuế khoảng 10%.
Riêng đối Hoa Kỳ - thị trường chiếm khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu và
có tốc độ tăng trưởng đều hàng năm - vẫn tiềm ẩn những rủi ro do chương trình giám
sát chống bán phá giá vẫn được Hoa Kỳ áp dụng đối với hàng dệt may Việt Nam và
có khả năng duy trì cơ đến hết năm 2008.
“Các doanh nghiệp dệt may cần hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu lớn của
Hoa Kỳ, tránh nhận những đơn hàng đơn giản, giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá


bình qn của cả nước, là cơ sở để phía Hoa Kỳ khởi kiện chống bán phá giá”, ông Ân
cảnh báo.
Về phía các doanh nghiệp, nhận thức được vấn đề này nên thời gian qua đã chủ

động cân đối lượng khách hàng giữa các thị trường, chuyển đổi chủng loại sản phẩm
để tránh những chủng loại hàng dễ bị hiểu nhầm là bán phá giá.
Theo ông Trần Văn Phổ, Tổng giám đốc Cơng ty cổ phần dệt Hịa Thọ - doanh
nghiệp có hơn 30% hàng dệt may mặc xuất sang Hoa Kỳ - cho biết, trong năm tới
công ty sẽ tiếp tục tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ và tập trung vào
các mặt hàng có giá trị cao nhằm tránh bị nhầm là bán phá giá.
Tập đoàn Dệt may Việt Nam cũng đã kiến nghị với Chính phủ, bộ ngành có
liên quan tăng cường những giải pháp chống rào cản thương mại, đối phó hiệu quả với
cơ chế giám sát, chống bán phá giá; đầu tư cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh cải cách hàng
chính và tăng cường hoạt động xúc tiến, quảng bá hình ảnh dệt may Việt Nam.
Riêng với Nhật Bản, Hiệp hội cũng cho rằng đẩy nhanh tốc độ đàm phán hiệp
định thương mại tự do là một giải pháp quan trọng để mở rộng thị trường này.
Năm 2007, xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 31%, với tổng kim
ngạch xấp xỉ 7,8 tỷ USD. Trong đó, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất
với 4,5 tỷ USD; tiếp đến là EU và Nhật Bản
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Tuy dân
số Hoa Kỳ chỉ bằng 2/3 dân số EU nhưng mức tiêu thụ sản phẩm vải của dân Hoa Kỳ
lại gấp 1,5 lần dân EU. Đây là một thị trường không chỉ hấp dẫn đối với ngành dệt
may Việt Nam mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may trên thế giới đều có mong muốn
trở thành bạn hàng với Hoa Kỳ. Hiện nay, Hoa Kỳ đã cho Việt Nam hưởng quy chế
tối huệ quốc và chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập nên hàng xuất khẩu của Việt Nam
sang Hoa Kỳ không phải chịu thuế cao. Đây cũng là một điểm tạo ra lợi thế cạnh tranh
lớn cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam.
Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt
3,044 tỷ USD, tăng 16,97% so với năm 2005. Cơ chế phân bổ hạn ngạch rõ ràng đã
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ được thuận
lợi, hạn ngạch ở các Cat hầu như đều hoàn thành 100%.


Năm 2006 là năm rất thành công đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng

dệt may sang thị trường EU. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
sang EU tăng tới 37% so với năm 2005, đạt 1,243 tỷ USD. Kết quả xuất khẩu năm
2006 sang EU cao nhất từ trước tới nay. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam sang hầu hết các nước thành viên, từ các nước thành viên cũ như Đức, Anh,
Pháp, … đến thành viên mới là CH Séc, Áo, Ba Lan, Hungary… đều có sự tăng
trưởng mạnh. Kết quả này thể hiện sự tăng trưởng ở tất cả các nước EU, chứ không
chỉ tăng tập trung vào một vài thị trường. Điều này chứng tỏ khả năng cạnh tranh của
hàng dệt may Việt Nam tại EU. Hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị
trường Đức đạt kim ngạch cao nhất trong các nước thành viên EU, đạt 321 triệu USD,
tăng 35,68% so với năm 2005. Tiếp đến là Anh với tốc độ tăng trưởng của kim ngạch
xuất khẩu là 43%, đạt 220 triệu USD và Pháp với tốc độ tăng 37%, kim ngạch xuất
khẩu đạt 142 triệu USD. Xuất khẩu sang Hà Lan đạt 116 triệu USD, tăng 46% và xuất
khẩu sang Tây Ban Nha đạt 109 triệu USD, tăng 30%. … Trong năm 2006, có 1.300
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Trong đó, Cơng
ty Cổ phần may 10 và Công ty may Việt Tiến là 2 đơn vị có kim ngạch xuất khẩu đạt
cao nhất, hơn 30 triệu USD. Đứng thứ hai là Cty TNHH Triumph International và
Công ty May mặc Quảng Việt với hơn 18 triệu USD. Vị trí xuất khẩu lớn thứ 3 là
Cơng ty may Đức Giang với 17 triệu USD và thứ tư là Công ty May Nhà Bè với hơn
16 triệu USD.Tiếp theo những kết quả xuất khẩu tốt đẹp trong năm 2006, xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam sang EU trong năm 2007 vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh.
Trong khi hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu tăng mạnh sang Hoa Kỳ và
EU, thì xuất khẩu sang Nhật Bản lại tăng chậm, còn xuất khẩu tới Đài Loan lại giảm.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản chỉ tăng 3,93%, đạt
627 triệu USD. Đây là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam. Bởi các doanh nghiệp phải thực hiện hai nhiệm vụ, tăng
trưởng xuất khẩu sang Hoa Kỳ và EU trong khi vẫn phải duy trì và tăng trưởng xuất
khẩu vào Nhật Bản. Trước những rào cản từ thị trường Hoa Kỳ thì Nhật Bản vẫn ln
là một trong những khách hàng thích hợp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam trong năm 2007 và những năm sau. Năm 2008, Liên minh châu Âu
(EU) bãi bỏ hạn ngạch dệt may đối với Trung Quốc, nên các quốc gia xuất khẩu dệt



may sang thị trường này, trong đó có Việt Nam, sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn.
Theo nhận định của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, việc EU bãi bỏ hạn ngạch đối với
hàng dệt may Trung Quốc, đồng thời áp dụng một hệ thống giám sát “kiểm tra kép”
để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung Quốc và việc nhập khẩu
mặt hàng này vào EU, sẽ tác động đáng kể đến hàng dệt may Việt Nam xuất sang EU,
bởi Trung Quốc có năng lực cạnh tranh rất lớn do chủ động được nguyên liệu và có
khả năng đáp ứng nhiều loại phẩm cấp hàng hóa. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam sang thị trường Nhật Bản năm 2007 tăng cao hơn kết quả đạt được trong năm
2006.
Trong khi xuất khẩu sang Đài Loan - khách hàng truyền thống và là thị trường
xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam khơng duy trì được tiến độ, giảm so với năm 2005,
năm 2006 chỉ đạt 181 triệu USD, thì xuất khẩu sang các thị trường khác lại tăng mạnh,
cụ thể xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng 67%, đạt 82 triệu USD; xuất khẩu sang Nga
tăng 30%, đạt 62 triệu USD; xuất khẩu sang Canada tăng 20%, đạt 97 triệu USD; xuất
khẩu sang các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất tăng 351%, đạt 27 triệu USD...
Ngoài ra, xuất khẩu hàng dệt may sang các nước trong khu vực ASEAN cũng tăng
khá như Malaixia tăng 37%; Singapo tăng 285%; Campuchia và Indonesia tăng kỷ
lục… Cùng với đó, xuất khẩu sang các nước châu Á khác cũng tăng mạnh như Hồng
Kông tăng 148%. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số thị
trường như Trung Quốc giảm 99%; Ôxtraylia giảm 5%...
Trong năm 2006, các chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh
là áo jacket, quần, áo sơ mi, áo thun, áo khoác, quần short, quần áo thể thao, váy, quần
áo sợi acrylic… và giảm xuất ở một vài mặt hàng như áo len, đồ lót, caravat, khăn,
quần áo jacket… Xét về trị giá, mặt hàng quần là chủng loại mặt hàng có kim ngạch
xuất khẩu tăng cao nhất, tăng tới 81 triệu USD so với năm 2005, đạt 205 triệu USD.
Đứng thứ hai là mặt hàng áo jacket với mức tăng 63 triệu USD. Tuy nhiên, xét theo
tổng kim ngạch xuất khẩu thì áo jacket là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất,
đạt 246 triệu USD. Đứng thứ ba là áo thun, với mức chênh lệch kim ngạch xuất khẩu

lên tới 50 triệu USD, tăng 81% so với năm 2005, đạt 112 triệu USD. Trong khi xuất
khẩu áo sơ mi lại tăng thấp, chỉ tăng 9 triệu USD, tương đương với 8,32% so với năm
2005, đạt 117 triệu USD – là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng cao thứ ba.


Trong khi đó, xuất khẩu đồ lót và mặt hàng áo len lại giảm so với năm 2005. Bên cạnh
đó, các mặt hàng như áo gió, áo ghilê, khăn, màn… cũng giảm xuất khẩu sang EU.
Các mặt hàng như túi ngủ, quần áo mưa, găng tay, áo Kimono có tốc độ tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu tăng rất cao trong năm 2006. Cùng với các mặt hàng xuất khẩu
truyền thống, xuất khẩu các chủng loại mặt hàng này tiếp tục tăng mạnh trong năm
2007.
Nếu như thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch 4,4 tỷ USD, chiếm đến 56% tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, thì EU là thị trường lớn thứ hai, với kim
ngạch năm 2007 đạt trên 1,4 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2006. Dự báo, năm 2008,
xuất khẩu dệt may của nước ta vào EU sẽ gặp nhiều trở ngại hơn do EU bãi bỏ hạn
ngạch với Trung Quốc.
Mục tiêu mà ngành dệt may nước ta đặt ra trong năm nay là xuất khẩu đạt 9,5 tỷ
USD, tăng 30% so với 2007, trong đó thị trường EU phấn đấu đạt 1,8 tỷ USD. Đây là
nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực cao ngay từ đầu năm. Dù tình
hình có khó khăn hơn, phải cạnh quyết liệt hơn, nhưng DN Việt Nam vẫn có nhiều cơ
hội giữ vững và duy trì được mức tăng trưởng, nếu tìm được hướng đi thích hợp.
2.1.4. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam từ năm
2000 đến nay
- Những thành công:
Đầu tiên, ngành dệt may đã khẳng định được vai trị quan trọng của mình. Với
kim ngạch ln tăng trưởng cao và ổn định, dệt may đã và đang trở thành ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam. Theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế, trong một
vài năm tới rất có thể kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sẽ vượt ngành dầu khí.
Hàng dệt may Việt Nam đã có mặt trên rất nhiều thị trường thế giới. Khơng chỉ
có sự tăng trưởng về tổng kim ngạch, ở hầu hết các thị trường kim ngạch xuất khẩu

hàng dệt may Việt Nam đều có xu hướng tăng. Điều đó chứng tỏ chiến lược đa dạng
hóa thị trường của chúng ta đã phát huy tác dụng. Việc đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu khơng chỉ làm tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam và các bạn hàng mà cịn
có tác dụng giảm thiểu rủi ro.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam liên tục tăng trưởng và có tốc độ
tăng trưởng ổn định. Điều đó cho thấy sự lớn mạnh cũng như quá trình mở rộng sản


xuất ở các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Không chỉ có vậy, sự tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu cịn góp phần giải quyết vấn đề việc làm – một vấn đề mà không xã
hội nào không quan tâm đến.
- Những vấn đề còn tồn tại:
Hiện nay, vấn đề nguyên phụ liệu sản xuất trong ngành dệt may vẫn còn là một
vấn đề nhức nhối đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Đến 70% nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng dệt may chúng ta phải nhập khẩu từ nước
ngồi. Nói cách khác, Việt Nam đang gia cơng th cho nước ngồi. Chính vì thế, lợi
nhuận trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam chưa cao và chúng ta không
tạo dựng được thương hiệu riêng cho hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tuy hàng dệt may Việt Nam có mặt trên nhiều thị trường, nhưng chất lượng
của các mặt hàng dệt may chưa được các nhà sản xuất Việt Nam chú ý đến nhiều. Cụ
thể, chúng ta chủ yếu phục vụ các tầng lớp trung lưu và dân cư thu nhập thấp. Hàng
dệt may Việt Nam dường như chưa hướng đến tầng lớp thượng lưu trên các thị trường
này.
Theo một nghiên cứu mới công bố: các doanh nghiệp Việt Nam ít nghiên cứu
thị trường nhất trên thế giới. Chính vì thế trong hoạt động xuất khẩu, nếu có biến cố
xấu xảy ra, các doanh nghiệp rất khó đối phó và thường là phải nhận phần thiệt về
mình.
Mặc dù được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng hàng dệt may
Việt Nam chỉ xuất khẩu sang một vài thị trường chủ yếu như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản
và dường như phụ thuộc quá nhiều vào các thị trường này. Vì thế trong tương lai, có

thể các thị trường nhỏ sẽ bị lãng quên.
2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ từ
năm 2000 đến nay
2.2.1. Hiệp định thương mại (HĐTM) Việt Nam – Hoa Kỳ và ảnh hưởng tới xuất
khẩu hàng dệt may
2.2.1.1. Nội dung và lợi ích của Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
 Nội dung của Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Theo Luật Thương mại Hoa Kỳ năm 1974 thì HĐTM phải bao gồm 6 nội dung
chính là: an ninh quốc gia, an tồn cho nền kinh tế, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh


chấp, thúc đẩy được thương mại và tư vấn. Ngoài ra, HĐTM cịn có thể phải giải
quyết các vấn đề quan trọng khác về mặt kinh tế như quy chế tối huệ quốc, đối xử
quốc gia, hàng rào thương mại, quyền kinh doanh, sự công khai minh bạch và rõ ràng
của pháp luật, trợ cấp, đầu tư, dịch vụ… qua những nội dung trên của một bản HĐTM
chứng tỏ khái niệm “Thương mại” của Hoa Kỳ là rất rộng và bao hàm cả nghĩa “kinh
tế” trong đó. Xuất phát từ nội dung đó, nội dung HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ gồm 72
điều nằm trong 7 chương được thể hiện cụ thể theo sơ đồ dưới đây:
Hình 2.3: Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Phát triển quan hệ đầu tư (Chương đầu tư)

Tạo lợi nhuận cho kinh doanh (Chương V)

uan tới tình hình minh bạch, cơng khai và quyền khiếu kiện (Chương VI)
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Những điều khoản chung (Chương VII)

Quyền sở hữu trí tuệ (Chương II)
Thương mại dịch vụ (Chương III)
Thương mại hàng hóa (Chương I)


Nguồn: Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (Bộ Công thương)
Như vậy, HĐTM bao gồm tất cả những vấn đề quan hệ kinh tế giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ từ thương mại hàng hóa, đến thương mại dịch vụ, đầu tư, để làm rõ các
khoản ghi trong HĐTM, một hệ thống phụ lục bao gồm 8 danh mục (A, B, C, D, E, F,
G, H) đó là: Ngoại lệ về đối xử quốc gia; hạn chế số lượng nhập khẩu, xuất khẩu;
hàng hóa cấm xuất nhập khẩu; hàng hóa nhập khẩu thuộc diện điều chỉnh của các quy
định về thương mại nhà nước và lịch trình loại bỏ; lịch trình loại bỏ về quyền kinh
doanh nhập khẩu, xuất khẩu và quyền phân phối; thuế xuất nhập khẩu; dịch vụ tài
chính; di chuyển thể nhân; viễn thơng; lộ trình cam kết thương mại dịch vụ cụ thể và
cuối cùng là các ngoại lệ về đối xử quốc gia.


 Lợi ích của HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ
HĐTM được ký kết đã cho phép hai nước dành quy chế tối huệ quốc cho nhau,
mà quan trọng hơn là hàng hóa Việt Nam sẽ dễ dàng xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ
nhiều hơn, làm tăng khả năng cạnh tranh với mức thuế suất chỉ còn trên 3%, trong khi
trước khi ký kết HĐTM thuế phải từ 40% - 80%.
HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ sẽ mở ra cơ hội làm ăn mới cho các nhà đầu tư
Hoa Kỳ tại Việt Nam, họ sẽ nhận được sự giúp đỡ nhiều hơn nữa từ Chính phủ Hoa
Kỳ thơng qua các tổ chức tài chính tín dụng.
HĐTM sẽ tạo điều kiện để Hoa Kỳ có thể nhập khẩu những mặt hàng mà Việt
Nam có lợi thế như dầu thơ, dệt may, giầy dép…mà trước đây, Hoa Kỳ đã không mua
được của Việt Nam bao nhiêu.
Để thực thi được HĐTM, hệ thống luật pháp của Việt Nam cần thay đổi cho
phù hợp với thơng lệ quốc tế. Điều đó sẽ làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam hấp
dẫn hơn, chẳng những đối với nhà đầu tư Hoa Kỳ mà cả các nhà đầu tư nước ngoài
khác.
HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ tạo ra cơ hội để Việt Nam gia nhập WTO vì các
nguyên tắc của tổ chức này đã được hai bên lấy làm nền tảng trong quá trình đàm

phán.
HĐTM được ký kết, góp phần tăng vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên
thế giới vì Việt Nam đã có đủ điều kiện để thâm nhập vào một nền kinh tế lớn nhất thế
giới mà hệ thống luật lệ, cung cách làm ăn của nó là hết sức chặt chẽ, tinh vi.
HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ mở ra một cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam
phải nỗ lực phấn đấu không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, học tập
một cách làm ăn bài bản, phù hợp với luật lệ kinh doanh quốc tế.
HĐTM có hiệu lực sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư vào
Việt Nam nhiều hơn. Từ đó, Việt Nam có thể tiếp thu cơng nghệ tiên tiến, kỹ thuật
hiện đại, góp phần thúc đẩy nhanh hơn tiến trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước.
HĐTM sẽ tạo điều kiện để hồn chỉnh hóa hệ thống lĩnh vực hoạt động dịch vụ
như viễn thông, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng…vì một trong những nội dung quan
trọng của hiệp định là sau một số năm khi hiệp định có hiệu lực, các nhà đầu tư Hoa


Kỳ sẽ khai thác tối đa hoạt động dịch vụ tại Việt Nam, một lĩnh vực được xem là yếu
trong cơ cấu kinh tế. Trong khi đó, dịch vụ hiện đã chiếm hơn 70% GDP của Hoa Kỳ
và dự tính cịn tăng lên nữa. Nhờ đó dân Việt Nam sẽ được hưởng các dịch vụ tốt hơn
do các nhà đầu tư Hoa Kỳ cung cấp.
Để có một lượng hàng lớn xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, nhất là những mặt
hàng sử dụng nhiều lao động cũng như các nhà đầu tư Hoa Kỳ sẽ vào Việt Nam nhiều
hơn, tất cả sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm mới khi HĐTM có hiệu lực, góp phần giải
quyết vấn đề dân số và việc làm ở Việt Nam.
HĐTM mở ra một cơ hội để khai thác lực lượng Việt Kiều đang làm ăn sinh
sống ở Hoa Kỳ, phát huy những lợi thế và tiềm lực của họ để xây dựng quê hương.
2.2.1.2. Tác động của Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đến xuất khẩu hàng
dệt may sang Hoa Kỳ
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có tác động rất lớn đối với hoạt
động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này. Bởi sau khi ký kết

HĐTM, Việt Nam cũng có vị trí ngang bằng với các nước đã ký HĐTM với Hoa Kỳ.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sau khi có
HĐTM đã tăng lên rõ rệt. Trong 3 tháng đầu năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đạt 500 triệu USD. Kết quả này đạt được là do
những thuận lợi mà HĐTM mang lại. Sau khi HĐTM có hiệu lực, hàng dệt may Việt
Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ không phải áp dụng hạn ngạch nữa (kể từ năm
2002). Hơn nữa kể từ đầu năm 2002, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường Hoa Kỳ đã được hưởng quy chế thương mại bình thường và những ưu đãi khác


Hình 2.4: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ
từ năm 2000 – 2003 so với toàn ngành (%) (trước và sau khi ký kết HĐTM)
60
50
40
30
20
10
0
2000

Chú thích:

2001

2002

2003

:Tỷ trọng giá trị kim ngạch xuất khẩu

(Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam)

Qua hình 2.2, chúng ta có thể thấy rõ, kể từ năm 2002, khi hàng dệt may của
Việt Nam khơng cịn phải chịu hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ, tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này đã tăng lên một cách rõ
rệt. Nếu như trong năm 2000 và 2001, thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm 2,62% và 2,27%
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, thì ngay trong năm 2002, con
số này đã là 35,47% và cho đến năm 2003, thị trường Hoa Kỳ chiếm tới 54,17% giá
trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, tính đến năm 2007, con số này
đã là 57,39%. Hoa Kỳ từ chỗ chỉ là một thị trường không đáng kể đối với hoạt động
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam thì sau khi có HĐTM, Hoa Kỳ đã trở thành thị
trường lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam. Trong thời gian tới, rất có thể tỷ lệ này
tăng lên chậm, thậm chí khơng tăng nhưng xét về giá trị tuyệt đối, thì kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sẽ còn tăng lên một cách mạnh
mẽ.



×