Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TỔNG QUAN CHUNG VỀ THAN KHOÁNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.96 KB, 25 trang )

TỔNG QUAN CHUNG VỀ THAN
KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
Chương 1.
Tổng quan chung về Than khoáng sản Việt Nam
1.1. Than khoáng sản và lịch sử ngành Than khoáng sản Việt Nam
1.1.1. Than khoáng sản
Than khoáng sản là một trong những tài nguyên khoáng sản trong lòng
đất của quốc gia, cùng với các loại khoáng sản khác như: Đồng, chì, kẽm,
thiếc…đã tạo thành một nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng phong phú và có
giá trị của Việt Nam.
Than khoáng sản là một trong những loại nhiên liệu hóa thạch được
hình thành ở các hệ sinh thái đầm lầy, các xác cây cối thực vật được nước
và bùn lưu giữ khỏi bị oxi hóa và phân hủy bởi sinh vật mà hình thành nên
Than đá ngày nay. Thành phần chính của Than khoáng sản là chất Cacbon,
ngoài ra còn có các chất khác như lưu huỳnh, nên Than có tính năng là đốt
cháy tốt và sinh ra lượng nhiệt lớn, vì vậy Than khoáng sản là nguồn
nguyên liệu sản xuất điện năng lớn nhất thế giới. Hiện nay, lượng Than
được khai thác trên thế giới và Việt Nam được sử dụng trong các ngành
năng lượng, phục vụ sản xuất nhà máy nhiệt điện và các ngành công nghiệp
sử dụng chất đốt… Than đang được khai thác từ các mỏ Than lộ thiên hay
các hầm lò nằm sâu dưới lòng đất.
Ngày nay, với trình độ công nghệ hiện đại, công tác thăm dò và khai
thác đã giúp con người phát hiện ra nhiều tài nguyên khoáng sản có giá trị
đồng thời khai thác có hiệu quả hơn đối với nguồn tài sản quốc gia này.
Việt Nam được đánh giá là có nguồn dự trữ Than đá đáng kể và có giá trị về
mặt kinh tế, trong tài nguyên về khoáng sản thì Than đá là nguồn tài nguyên
có trữ lượng và hiệu quả kinh tế lớn nhất. Theo Cơ quan Năng lượng quốc
tế thì trữ lượng Than hiện nay trên thế giới rất lớn, khoảng 910 tỷ tấn, đủ
cho sản xuất trong 155 năm với tốc độ như hiện nay và nếu như không có sự
đột biến nào thì nhu cầu sử dụng Than trên thế giới sẽ tăng gấp 3 lần từ nay
đến năm 2050. Theo các cuộc thăm dò và khai thác thì Than hiện diện ở


khắp nơi trên thế giới và được sử dụng chủ yếu trong các nhà máy nhiệt
điện, sản xuất xi măng, phục vụ các ngành công nghiệp và nhu cầu sinh hoạt
của người dân, nhưng được sử dụng lớn nhất là trong các nhà máy nhiệt
điện, do đó 40% lượng điện được sản xuất trên toàn cầu là từ các nhà máy
nhiệt điện dùng Than.
1.1.2. Lịch sử phát triển của ngành Than khoáng sản Việt Nam
Ngành Than Việt Nam đã có lịch sử khai thác hơn 100 năm, trải qua 72
năm truyền thống vẻ vang, từ cuộc tổng bãi công ngày 12/11/1936 của hơn 3
vạn thợ mỏ đã giành được thắng lợi rực rõ, đánh dấu mốc son chói lói trong
trang sử hào hùng đấu tranh cách mạng vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải
phóng vùng mỏ góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại độc
lập tự do cho Tổ quốc. Trải qua quá trình hình thành, hoạt động và phát triển
của ngành, dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn gian khổ nào, người thợ mỏ Việt
Nam vẫn phát huy bản lĩnh sáng tạo và tinh thần đoàn kết, dũng cảm, luôn tiên
phong đi đầu, tạo nên nhiều chiến công xuất sắc trong chiến đấu chống giặc
ngoại xâm cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Trong chặng đường đã đi qua, ngành Than Việt Nam đã gặp không ít
những khó khăn và thăng trầm trong lịch sử phát triển, đặc biệt là thời kỳ bước
vào công cuộc đổi mới của đất nước và những năm đầu của thập niên 90, nạn
khai thác Than trái phép phát triển tràn lan đã dẫn đến nhiều hậu quả đối với
ngành Than và xã hội, tình trạng tài nguyên môi trường vùng mỏ Than bị hủy
hoại, trật tự xã hội phức tạp, công nhân thiếu việc làm, ngành Than đã phải cắt
giảm sản xuất… với những khó khăn đó đã đẩy ngành Than của Việt Nam vào
tình trạng khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng trong một thời gian.
Trong giai đoạn trưởng thành và phát triển từ 1985 đến năm 1994, ngành
Than Việt Nam đã có những bước đầu thành công trong việc khai thác tập trung
tại các khu mỏ, việc đầu tư trang thiết bị, máy móc tại các hầm mỏ nên sản
lượng khai thác và tiêu thụ đã được phản ánh qua kết quả kinh doanh của ngành.
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất và kinh doanh Than khoáng sản của

Việt Nam trong giai đoạn 1985 – 1988
(Đơn vị: 1000 tấn)
1985 1986 1987 1988
Than nguyên khai 6295 6855 7690 7605
Than tiêu thụ 5689 6120 6340 5657
- Xuất khẩu 640 620 201 314
- Tiêu thụ nội địa 5049 5500 6139 5343
(Nguồn: Số liệu lịch sử ngành Than – Bộ Năng lượng)
Cho đến những năm 1988, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
sự giúp đỡ từ Liên Xô nên ngành Than đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các mỏ
lộ thiên lớn cùng các hầm lò được xây dựng, cải tạo và mở rộng. Trong
thời gian này, ngành Than hoạt động theo cơ chế bao cấp, nhận kế hoạch
sản xuất từ nhà nước và giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Nhờ có được sự
quan tâm đúng lúc khó khăn nên ngành Than đã có được một số kết quả
ban đầu trong quá trình sản xuất và kinh doanh Than sản phầm.
Bảng 1.2: Tình hình sản xuất và kinh doanh Than khoáng sản của
Việt Nam trong giai đoạn những năm 1989 – 1994
Đơn vị: 1000 tấn
1989 1990 1991 1992 1993 1994
Than nguyên khai 4221 5198 4895 5226 5835 7575
Than tiêu thụ 3873 4091 4128 4852 5351 6000
- Xuất khẩu 528 676 920 132 182 215
- Tiêu thụ nội địa 3345 3415 3208 3528 3526 3850
(Nguồn: Số liệu lịch sử ngành Than – Bộ Năng lượng)
Trong giai đoạn 1985 – 1988, ngành Than đã đạt được nhiều kết quả cao
trong việc khai thác và tiêu thụ Than, đỉnh điểm của giai đoạn này là hai năm
1987 và năm 1988, riêng trong năm 1987 đã công ty khai thác được 7690 nghìn
tần Than, tăng hơn 20% so với lượng Than khai thác được trong năm 1985 và
tăng 835 nghìn tấn so với năm trước 1986. Với lượng Than khai thác tăng lên
qua các năm nên lượng Than tiêu thụ trong nước và xuất khẩu cũng không

ngừng tăng lên hàng năm trong giai đoạn, lượng Than sử dụng cho các nhà máy
nhiệt điện trong nước chiếm 34% - 50% trong tổng số Than được tiêu thụ nội
địa. Trong năm 2008, toàn ngành Than đã bốc 29,2 triệu m3 đất và đã khai thác
được 7605 nghìn tấn Than nguyên khai, sàng tuyển được 6304 nghìn tấn Than
sạch để đưa đi tiêu thụ trên thị trường.
Nhưng từ năm 1989, tổ điện của nhà máy thủy điện Hòa Bình lần lượt
được đưa vào vận hành sử dụng và nền kinh tế Việt Nam bị khủng hoảng thì
nhu cầu sử dụng Than bị suy giảm, lượng Than khai thác từ lòng đất cũng giảm
sút so với các năm trước đó dẫn đến tình trạng giảm sút trong kinh doanh và tiêu
thụ của ngành Than Việt Nam. Có thể nói trong giai đoạn 1991-1994 là giai
đoạn khủng hoảng nhất của ngành Than, khi mà nạn khai thác Than trái phép lại
phát triển, cùng với tình hình thị trường tiêu thụ lũng đoạn nên đã đẩy các mỏ
Than chính thống phải cắt giảm sản xuất, hạn chế bóc đất, giảm đào lò, cắt giảm
tiền lương công nhân viên để cân đối tài chính theo nguyên tắc tự trang trải,
công nhân thiếu việc làm…
Trong bối cảnh đấy, ngày 10/10/1994, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết
định 563/1994/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty Than Việt Nam. Sự ra
đời của Tổng công ty Than như một cuộc cách mạng trong ngành Than khoáng
sản của Việt Nam, tạo cơ hội để ngành Than phát triển trở lại, phục hồi và phát
triển công việc khai thác và kinh doanh Than. Nhiệm vụ chính mà Đảng và
Chính phủ giao cho Tổng công ty Than là:
● Lập lại trật tự trong khai thác. Kinh doanh Than
● Thỏa mãn các nhu cầu về Than của nền kinh tế, phát triển các ngành
nghề khác trên nền công nghiệp Than một cách có hiệu quả để giải
quyết việc làm cho người lao động.
Thực hiện nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước giao phó, ngay
trong năm 1995, Tổng công ty Than Việt Nam đã xây dựng đề án “Đổi mới tổ
chức, quản lý và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh”. Trên cơ sở tiềm năng
và nội lực sẵn có về vốn, lao động, các phương tiện sản xuất, cơ sở vật chất kỹ
thuật và điều kiện thực tế, Tổng công ty Than Việt Nam đã lựa chọn phương

hướng xây dựng một tập đoàn kinh doanh đa ngành trong nền sản xuất Than sản
phẩm. Từ mục tiêu chiến lược đã được đề ra, Tổng công ty đã cụ thể hóa những
mục tiêu đấy thành giải pháp và biện pháp thực hiện cụ thể hóa trong ngành sản
xuất Than khoáng sản. Một trong những chiến lược quan trọng và mang tính
chất sống còn với ngành Than trong những ngày mới thành lập Tổng công ty đó
là chiến lược quản lý tài nguyên và môi trường. Tổng công ty Than Việt Nam và
cùng các doanh nghiệp thành viên đã triển khai và áp dụng đồng bộ các biện
pháp hành chính - kinh tế - kỹ thuật, sắp xếp lại tổ chức, lập lại trật tự trong khai
thác và kinh doanh Than. Bên cạnh đấy, an ninh chính trị và trật tự trong quá
trình thăm dò, khai thác là vấn đề cấp bách được đặt ra, Tổng công ty đã tiến
hành thu thập, phân tích, đánh giá các tài liệu, báo cáo địa chất sẵn có, tính toán
trữ lượng; Tiếp tục điều tra, khảo sát, thăm dò bổ sung, thăm dò mới tài
nguyên.. Công tác cập nhật địa chất đã có một bước tiến rõ rệt so với trước đây,
nhờ có sự đổi mới trong tư duy và ứng dụng công nghệ mới theo kinh nghiệm
của các nước tiên tiến trên thế giới. Một số chiến lược cụ thể và mang tính quyết
định được ngành Than cụ thể hóa như:
● Bảo vệ môi trường và giữ gìn cảnh quan là mục tiêu quan trọng trong
chiến lược phát triển bền vững của ngành Than Việt Nam, để khắc phục hậu quả
suy thoái môi trường ở các vùng mỏ sau nhiều năm để lại, ngành Than Việt
Nam đã có các cuộc khảo sát và đánh giá tác động của hoạt động khai thác Than
đến môi trường của vùng mỏ rồi đưa ra các giải pháp và chương trình để cải
thiện môi trường. Tổng công ty đã quyết định thành lập Qũy môi trường Than
Việt Nam trên cơ sở sử dụng 1% chi phí tính thêm vào giá thành được Chính
phủ cho phép và các nguồn huy động khác, qua đấy đã đầu tư trồng mới và
chăm sóc được 1780 ha rừng trong ranh giới mỏ, tạo nguồn gỗ chống lò phục vụ
trong quá trình khai thác của các hầm lò. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thành
viên đã có nhiều biện pháp để tăng cường cải tạo, nâng cấp đường sá, giảm
thiểu bụi trong công tác khoan nổ mìn, bốc xúc và sàng tuyển, vận chuyển
Than, cải thiện điều kiện làm việc cho lao động.
● Đầu tư đổi mới công nghệ là chiến lược quan trọng hàng đầu được

Tổng công ty Than đặc biệt quan tâm, nhằm khai thác tối đa cơ sở vật chất, tài
sản sẵn có, nâng cao mức độ đảm bảo an toàn trong sản xuất; cải thiện điều kiện
làm việc cho lao động, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng
Than trong nguyên khai, Than sạch và tỷ lệ thu hồi Than đồng thời tăng năng
suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu của thị
trường. Tại các mỏ lộ thiên, công nghệ xuống sâu đã được áp dụng và ngày
càng hoàn thiện hơn đồng thời các mỏ được trang bị máy xúc thủy lực gần
ngược và áp dụng công nghệ xúc chọn lọc nên giảm thiểu được hệ số bóc đất ở
một số mỏ. Công nghệ cột chống thủy lực đơn và giá thủy lực di động cũng
được đưa vào sử dụng tại một số hầm lò, giảm được tổn thất Than từ 40%-50%
xuống còn 15%-20%, giảm tiêu hao gỗ chống lò, giảm tỷ lệ gỗ dăm trong Than
và đảm bảo được an toàn cho người lao động. Bên cạnh việc đầu tư đổi mới
công nghệ cho khai thác Than, các doanh nghiệp đã chú trọng trong đầu tư cải
tạo, thay đổi công nghệ sàng tuyển để phù hợp với yêu cầu của khách hàng, tận
thu Than bùn và xử lý nước thải trước khi ra biển. Công tác đầu tư và hoàn thiện
các kho bãi cũng được đẩy mạnh, nâng cấp bến rót tiêu thụ, đầu tư luồng lạch
mở rộng cảng biển đảm bảo cho tàu thuyền giao nhận Than thuận lợi và nhanh
chóng.
● Song song với việc đổi mới công nghệ, hiện đại hóa dây chuyền sản
xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, ngành Than của Việt Nam đã đặc biệt
quan tâm đến chiến lược thị trường, bởi “có thị trường là có tất cả”. Tổng công
ty đã kiên trì xây dựng ngành Than, trước hết là trật tự trong kinh doanh Than,
đổi mới tổ chức, quản lý và phương pháp kinh doanh Than của hệ thống các
công ty Than trong nội địa, hoàn thiện và phát triển cách thức quản lý trong
công tác tiếp thị và giao dịch xuất nhập khẩu Than. Bằng việc phát triển thị
trường sản phẩm chính là cách để tháo gỡ đầu ra cho sản phẩm và cân bằng
cung cầu Than trên thị trường.
Than Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong giai đoạn đầu thành lập
Tổng công ty, ngành Than Việt Nam đã mở rộng được thị trường tiêu thụ sản
phẩm trong và ngoài nước, xây dựng được các mối quan hệ bạn hàng tin cậy

trong và ngoài nước, đã ký hợp đồng dài hạn với các hộ lớn khoảng 30% sản
lượng Than tiêu thụ hàng năm. Than Việt Nam đã có quan hệ với các bạn hàng
nước ngoài ở khắp các châu lục, năm 1997 đã xuất khẩu được 3,7 triệu tấn
Than, mức cao nhất từ trước đến nay. Trong giai đoạn này, Than Việt Nam đã
xuất sang các thị trường như: Nhật Bản, Trung Quốc, Canada, Hàn Quốc, Thái
Lan, Đài Loan… Bằng nhiều biện pháp kinh tế tổng hợp, phương châm nhất
quán “Cùng phát triển với bạn hàng”, Tổng công ty Than Việt Nam đã phát huy
nội lực sẵn có để xây dựng một chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Việc mở rộng và giữ vững thị trường là yếu tố quyết định để ngành Than
Việt Nam mở rộng tổ chức sản xuất mới cũng như tiếp cận các thị trường tài
chính, tín dụng, đảm bảo vốn cho kinh doanh, phục vụ các dự án khai thác, đầu
tư và phát triển. Bên cạnh những nỗ lực phát triển thị trường tiêu thụ, nâng cao
trình độ công nghệ thì ngành Than còn chủ động tiếp xúc và tìm kiếm khách
hàng cho riêng mình, tiến hành đàm phán và kí kết các hợp đồng ngắn hạn, dài
hạn với cơ chế giá mềm dẻo, cạnh tranh để tăng cường khả năng kiểm soát và
mở rộng thị trường tiêu thụ Than trong và ngoài nước, đưa Than sản phẩm đến
tận nơi sử dụng và mở rộng mạng lưới bán Than đến các tỉnh, thành phố trong
cả nước, bao gồm cả thị trường nông thôn, miền núi.
Trong giai đoạn sản xuất và kinh doanh 1995-2001, ngành Than khoáng
sản Việt Nam cũng gặt hái được nhiều thành công trong khai thác, chế biến và
xuất khẩu. Bằng sự nỗ lực của chính Tổng công ty đã giúp cho lượng Than khai
thác và Than sản phẩm xuất khẩu hàng năm không ngừng gia tăng, đó là một
dấu hiệu đáng mừng trong việc đầu tư đổi mới công nghệ trong quá trình khai
thác và chiến lược phát triển thị trường của công ty đưa ra trong những năm đầu
thành lập. Việc đổi mới công nghệ cọc chống trong hầm lò hay công nghệ khai
thác các mỏ lộ thiên, đổi mới và cải tiến công nghệ trong giai đoạn vận chuyển
trên băng chuyền… cùng với việc phát triển thị trường, bạn hàng đã mang đến
cho ngành Than một số thành công nhất định.
Bảng 1.3: Tình hình sản xuất và kinh doanh Than khoáng sản của
Việt Nam trong giai đoạn 1995-2000

1995 1996 1997 1998 1999 2000
Than tiêu thụ
(1000 tấn)
7592 9653 10779 10721 10500 11409
- Xuất khẩu 2783 3666 3525 2900 3300 3076
- Trong nước 4809 5987 7254 7821 7200 8333
Doanh thu tiêu thụ
(tỷ Đồng)
1917 2584 2953 2953 2792 3114
- Xuất khẩu 955 1262 1323 1246 1328 1765
- Trong nước 962 1322 1630 1707 1464 1349
Doanh thu sx- kd
khác (tỷ Đồng)
485 1074 1301 1605 1337 1764
Tổng doanh thu (tỷ
Đồng)
2402 3658 4254 4558 4129 4887
Nạp ngân sách
(tỷ Đồng)
120 152 199 154 133 155
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Than Việt Nam)
Với những chính sách và đướng lối hoạt động đúng đắn, trong năm 1995
ngành Than đã tiêu thụ được 7592 nghìn tấn Than với doanh thu tiêu thụ thu về
khoảng 1917 tỷ Đồng, tuy sản lượng Than tiêu thụ trong nước lớn gấp 2 lần
lượng Than tiêu thụ trên thị trường quốc tế nhưng doanh thu tiêu thụ của 2 thị
trường này lại bằng nhau, như vậy có thể thấy rằng ngành Than đang thực hiện
trợ giá cho thị trường trong nước. Đây cũng có thể là một biện pháp để khuyến
khích nhu cầu sử dụng Than trong nước và một phần hỗ trợ thị trường trong
nước. Trong những năm tiếp theo, sản lượng Than khai thác và sản lượng kinh
doanh trên thị trường của ngành Than Việt Nam tăng liên tục, trong năm 1996

sản lượng Than khai thác và doanh thu từ kinh doanh Than tăng khoảng 30% so
với năm trước nên doanh thu từ thị trường trong nước và thế giới cũng tăng với
tốc độ 32% so với năm 1995. Ngành Than đã rất nỗ lực để giữ vững được tốc độ
tăng lên trong khai thác và kinh doanh tiêu thụ, năm 1997 ngành Than đã khai
thác được 10779 nghìn tấn Than, tăng gần 42% sản lượng khai thác so với năm
1995 về Than sản phẩm, kết quả đó được đánh giá là một thành quả vượt bậc và
là mong ước của ngành Than trong thời gian bấy giờ. Tuy trong khai thác Than
thành phẩm tăng nhanh nhưng lại xuất hiện dấu hiệu chững lại của hoạt động
kinh doanh xuất khẩu do những ảnh hưởng ban đầu của cuộc đại khủng hoảng
tài chính – tiền tệ châu Á trong năm 1997, sản lượng tiêu thụ giảm, doanh thu từ
hoạt động xuất khẩu tăng nhẹ và đó là dấu hiệu đầu tiên cho những giảm sút của
doanh thu trong những năm tiếp theo. Đánh giá trong những năm 1995-1997,
ngành Than của Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc nhờ biết phát huy
được nội lực, công nghệ mới áp dụng và những chính sách phát triển hợp lý,
đóng góp vào ngân sách nhà nước 471 tỷ Đồng trong 3 năm 1995-1997.
Năm 1998, sau khi chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính –
tiền tệ khu vực nên đã tác động đến Than xuất khẩu của Việt Nam trên thị
trường thế giới về lượng lẫn về giá cả, ngành Than của Việt Nam phải cạnh
tranh hơn khi mà cung vượt quá cầu trên thị trường, nhưng nhờ sự mềm dẻo
trong quan hệ bạn hàng và có các mối quan hệ bạn hàng lâu năm nên lượng
Than xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì tại mức 3 triệu tấn và giữ được 25%-

×