Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SUY THOÁI KINH TẾ VÀ THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.53 KB, 39 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SUY THOÁI KINH TẾ VÀ THỰC
TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
I.SUY THOÁI KINH TẾ
1. Khái niệm và nguyên nhân suy thoái
Chúng ta có thể đến với một cách hiểu khá đơn giản về Suy thoái
kinh tế: “Suy thoái kinh tế là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài.”
Suy thoái kinh tế bao gồm những xu hướng:
* Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận. Tích tụ tư bản gắn liền xu
hướng chung của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ
suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến khủng
hoảng.
* Tiêu thụ dưới mức. Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu
tranh giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao
động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối
mặt với vấn đề thường xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương xứng
với quy mô sản xuất và tổng cầu không tương xứng với tổng cung.
* Sức ép lợi nhuận từ lao động. Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu
thuê mướn tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ
ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt đến một mức độ nhất định
sẽ gây ra suy thoái kinh tế.
Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần
này là sự suy sụp của thị trường bất động sản. Ở Mỹ, gần như hầu hết người
dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời
gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và
tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì
người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị
trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp.
Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất động
sản:
Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục
Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân


hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi
suất cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng
cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao hay thấp của
chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi
suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt
giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
Thứ hai, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính
phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm
dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được
thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và
Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua
lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các
loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed
securities - MBS) - ( chú thích MBS ở dưới ), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở
Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và
Merrill Lynch.
Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay
thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị
trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng
thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó
đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng
vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc.
MBS : Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo
hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm
soát thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên
lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh
đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến
chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong
việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay.

2. Diễn biến của suy thoái
Trước tiên, chúng ta sẽ bắt đầu từ tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ
(hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá
chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi
đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất
động sản dưới chuẩn ở Mỹ.
* Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng
đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị
trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của
Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo
đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay
thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ -
công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập
dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ
chức vào ngày 4/11.
* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với
nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn
bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ
phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền
gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial
sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các
khoản cho vay khó đòi quá lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng
4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất
thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các

nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản
mất giá là 1,36 tỷ euro.
* 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP
Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu.
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một
khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho
các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp
bất động sản.
* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng
IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ
trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng
11 ngày.
* 31/7/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là
3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche
Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng
toàn cầu.
* 7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm
soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm
hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để
bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
* 14/9/208: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29
USD/cp sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.
* 15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này
mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001.
Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị
Bank of America Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo
hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên
quan tới nợ cầm cố.
* 16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ

USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và
ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm
gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80%
cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của
Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
* 17/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh;
Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ
kiềm chế tình trạng bán khống.
* 19/9/2008: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ
công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó
khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính.
* 20-21/9/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập
đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại
Phố Wall.
* 22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để
thâu tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại
Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20%
cổ phần Morgan Stanley.
* 23/9/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman
Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và
Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
* 25/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng
lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay
thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm
soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho
JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu
đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội
đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.

* 29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị
trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công
nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh
nhất từ trước tới nay.
* 1/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ
USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật
cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách
thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm
tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD.
* 3/10/2008: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ
phiếu lần thứ hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không
đầy 2 giờ sau đó, Tổng thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch
thành đạo luật.
* Ngày 4/10/2008: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp
thượng đỉnh khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh Châu Âu
là Anh, Pháp, Đức và Ý. Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng
hoảng, nhưng không thống nhất được một gói giải pháp tổng thể theo mô hình
của Mỹ.
* Ngày 5/10/2008: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích
quyết định của Ireland tuần trước về bảo hiểm toàn bộ các tài khoản ngân
hàng tại Ireland, ngày Chủ nhật 5/10 Bộ trưởng Tài chính Đức đã thông báo tất
cả các tài khoản tiền gửi ngân hàng tại Đức sẽ được bảo hiểm không có giới
hạn.
* Ngày 6/10/2008: Trong đêm Chủ nhật 5/10, ngân hàng BNP Paribas SA
của Pháp gửi email thông báo đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương đương
19,8 tỷ USD) để mua lại ngân hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu
và 5,5 tỷ Euro bằng tiền mặt. BNP sẽ sở hữu 75% Fortis tại Bỉ, 67% Fortis tại
Luxembourg, và toàn bộ mảng bảo hiểm của Fortis tại Bỉ.
* Ngày 8/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục
dự trữ liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân

hàng trung ương các nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh
hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại
suy thoái năm 1930.
* Ngày 10/10/2008: Tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại
Nhật là Yamato Life Insurance Co. chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản
do các khoản nợ đã vượt tài sàn 11,5 tỷ yen (tương đương 116 triệu USD).
Đây được coi là mốc đánh dấu cuộc khủng hoảng đã lan sang châu Á.
* Ngày 13/10/2008: Giải Nobel Kinh tế 2008 được công bố thuộc về Giáo
sư Paul Krugman. Ngoài thành tích xây dựng mô hình ứng dụng thương mại
toàn cầu, ông cũng là người chỉ trích kịch liệt Chính phủ của Tổng thống Bush,
và là người vạch ra những hiểm họa của tự do thị trường thiếu sự giám sát của
Chính phủ.
* Ngày 14/10/1008: Chính phủ Mỹ công bố dành 250 tỉ USD trong gói giải
cứu 700 tỉ USD để rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu
ưu đãi của các ngân hàng này. Đây là bước thay đổi lớn trong chiến lược giải
cứu, vì trong kế hoạch ban đầu, Chính phủ vẫn hướng đến giải pháp mua lại
nợ xấu ngân hàng, không mua cổ phần .
Chúng ta biết rằng, ở Mỹ "gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải
vay tiền ngân hàng và trả cả lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó,
có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị
trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi
mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao, khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân,
người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp. Bắt đầu từ năm
2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ - nền kinh tế lúc này quả thật đang trì
trệ, mục đích giảm lãi suất một phần cũng để khôi phục nền kinh tế, tuy nhiên
đằng sau vẫn còn một nguyên nhân khác nữa, cục dự trữ liên bang Mỹ ( FED)
đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho
vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua nhà do
các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất
cơ bản của FED, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ

thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của FED là
trên 6% nhưng sau đó, lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm
2003 thì chỉ còn 1%." (Báo Thanh niên, 16/10/2008, trang 19). Việc cắt giảm lãi
suất liên tục đã làm cho lạm phát gia tăng. Do lo lắng về diễn biến lạm phát,
FED bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến việc thị trường bất động sản bắt đầu
chững lại vào đầu năm 2006. Trong khi vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản
của FED chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đã tăng lên đến 5,25%, bắt buộc
các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao hơn
nhiều nữa. Tình hình lãi suất cao đã khiến cường độ vay để mua nhà giảm lại.
Giá nhà bắt đầu trượt dốc vì cung vượt cầu. Nhiều người mua nhà giá cao
trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của căn nhà đang sở hữu thấp hơn
khoảng nợ mà mình đang vay. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong nhóm vay
tiền với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị
điều chỉnh trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả
nợ cũng không được vì giá nhà thấp hơn khoản nợ do thị trường tụt dốc. Hệ
quả là họ đành bỏ nhà cho ngân hàng trưng thu lại." (Báo Thanh niên,
17/10/2008, trang 13, chữ nghiêng là do tôi viết). Cuối cùng là khủng hoảng.
Còn việc nó lan sang lĩnh vực tài chính như thế nào cũng như diễn biến hiện tại
của tình hình tài chính ra sao thì đã có rất nhiều ý kiến được đưa ra rồi, tôi
không cần phải đi sâu hơn nữa. Ở đây, tuy năm 1929 khủng hoảng bắt đầu từ
ngay thị trường chứng khoán, còn hiện tại thị lại bắt nguồn từ khủng hoảng thị
trường bất động sản, nhưng chúng ta dễ dàng thấy ngay điểm chung giữa hai
cuộc khủng hoảng, đó là nó mở đầu bẳng việc hạ lãi suất cơ bản để kích thích
đầu tư.
3. Hậu quả đối với nền kinh tế thế giới
a. Thương mại toàn cầu sụt giảm
Đây là ảnh hưởng dễ nhận thấy nhất. Nếu cả sản lượng và nhu cầu của
nền kinh tế Mỹ cũng giảm, tiêu dùng tư nhân, đầu tư của các công ty và các
hoạt động sản xuất cùng sụt giảm, dẫn tới sự sụt giảm trong nhập khẩu các
loại hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa cơ bản và các nguyên vật liệu khác từ thị

trường bên ngoài.
Trong khi đó, rất nhiều nước trên thế giới coi Mỹ là thị trường xuất khẩu
chính, như Canada, Trung Quốc, Nhật Bản, Mexico, Hàn Quốc, các nước Đông
Nam Á, và coi đây là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế. Do đó, nhu
cầu sụt giảm ở Mỹ đồng nghĩa với sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của
những nước này. Trung Quốc đặc biệt đáng lo ngại vì Mỹ là nước tiêu dùng lớn
nhất thế giới còn Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Nếu người
Mỹ không mua, hàng “Made in China” sẽ đi về đâu?
Trung Quốc cũng là một ví dụ rõ ràng về việc những mắt xích trong chuỗi
thương mại quốc tế sẽ chịu tác động ra sao từ sự suy thoái của Mỹ. Trước đây,
các trung tâm chế tạo của châu Á như Hàn Quốc và Đài Loan trực tiếp sản
xuất hàng thành phẩm như hàng điện tử để xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ.
Nhưng với sự nổi lên của Trung Quốc trong lĩnh vực này, các nước châu Á đã
chuyển sang sản xuất linh kiện để xuất sang Trung Quốc.
Sau đó, Trung Quốc tiến hành lắp ráp rồi xuất sang Mỹ. Do đó, nhập khẩu
của Mỹ đi xuống làm xuất khẩu của Trung Quốc giảm, dẫn tới nhu cầu của
Trung Quốc đối với linh kiện do các nước châu Á khác sản xuất cũng “lao”
theo.
b. Đồng USD yếu khiến mọi chuyện thêm tồi tệ
Sự suy yếu của kinh tế Mỹ và việc FED liên tiếp cắt giảm lãi suất USD đã
khiến giá trị đồng tiền này giảm mạnh so với nhiều đồng tiền khác như Euro,
Yên và Won. Đồng USD yếu sẽ thúc đẩy xuất khẩu của Mỹ, nhưng lại là cơn
ác mộng đối với các nhà xuất khẩu Đức, Nhật và Hàn Quốc - những nước vốn
phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
c.“Bong bóng” bất động sản sẽ nổ tung toàn cầu
Mỹ không phải là quốc gia duy nhất trên thế giới có tình trạng bong bóng
xảy ra trên thị trường bất động sản trong những năm gần đây. Hoạt động tín
dụng lỏng lẻo, mức lãi suất thấp và dài hạn cũng diễn ra ở nhiều quốc gia
khác, nhất là ở châu Âu. Mỹ không phải là nước duy nhất mà “bong bóng” bất
động sản đã vỡ.

Anh, Ireland và Tây Ban Nha đi sau Mỹ có chút ít về tốc độ mất giá của nhà
đất. Các nước khác với tiềm năng bong bóng bất động sản sắp vỡ bao gồm
Pháp, Hy Lạp, Hungary, Italy, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước vùng
Baltic. Tại châu Á, những nước như Australia, Trung Quốc, New Zealand và
Singapore, “bong bóng” nhà đất đã vỡ tại một số khu vực. Đến cả Ấn Độ cũng
xảy ra tình trạng bong bóng địa ốc. Những “bong bóng” này chắc chắn sẽ vỡ
một khi tình trạng tín chặt tín dụng “châm kim” vào chúng, dẫn tới tốc độ tăng
trưởng chậm chạp tại một số nước và suy thoái tại một số nước khác.
d. Giá hàng hóa và nguyên vật liệu thô sẽ giảm
Chỉ cần nhìn vào giá dầu cao là có thể nhận thấy nhu cầu hàng hóa của
thế giới đã tăng mạnh trong những năm gần đây. Tuy nhiên, tình trạng này sẽ
kéo dài không lâu. Đó là do hai đầu máy của kinh tế thế giới là Mỹ và Trung
Quốc tăng trưởng chậm lại sẽ kéo theo sự sụt giảm mạnh nhu cầu của các loại
hàng hóa như dầu, thực phẩm và khoáng sản.
Điều này tất yếu sẽ tác động tiêu cực tới xuất khẩu và tăng trưởng của
các nước xuất khẩu các mặt hàng này ở châu Phi, Mỹ Latin và châu Phi.
Chẳng hạn, Chile là nước xuất khẩu đồng lớn nhất thế giới, đồng từ nước này
được sử dụng để làm chip máy tính và dây điện. Nhu cầu của Mỹ và Trung
Quốc giảm chắc chắn sẽ khiến giá cả và nhu cầu đồng cùng giảm xuống, kéo
theo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Chile.
e. Niềm tin sẽ giảm mạnh
Cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn đã gây ra tình trạng thắt chặt
thanh khoản và tín dụng trên Wall Street. Tình trạng này cũng đã lan rộng ra thị
trường tài chính nhiều nước trên thế giới. Một lượng trái phiếu bất động sản
chứa đựng đầy rủi ro và nợ thế chấp của Mỹ đã được bán cho các nhà đầu tư
nước ngoài. Đó là lý do tại sao những thất thoát tài chính do tình trạng vỡ nợ
tại các thành phố Mỹ như Cleveland, Las Vegas và Pheonix lại có tác động
mạnh đến Australia và châu Âu, hay thậm chí cả những ngôi làng nhỏ ở Nauy.
Niềm tin tiêu dùng bên ngoài nước Mỹ, đặc biệt là tại châu Âu và Nhật
Bản, không bao giờ vững mạnh và sẽ trở nên yếu hơn trước những tin xấu về

kinh tế Mỹ. Những khoản thua lỗ trong hoạt động tại Mỹ cũng sẽ khiến các tập
đoàn đa quốc gia đi đến chỗ cắt giảm đầu tư vào các nhà máy không chỉ ở Mỹ
mà còn nhiều nơi khác trên thế giới. Các tập đoàn tại châu Âu sẽ chịu tác động
đặc biệt lớn do họ phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng nhiều hơn các
doanh nghiệp Mỹ. Sự thắt chặt tín dụng toàn cầu sẽ hạn chế khả năng của họ
trong việc sản xuất, thuê nhân công và đầu tư.
Cách tốt nhất để xem cơn bão tài chính này lan rộng ra sao là theo dõi thị
trường chứng khoán toàn cầu. Các nhà đầu tư e dè hơn trước những rủi ro khi
nền kinh tế của họ có vẻ như tăng chậm lại. Do đó, bất kỳ khi nào những thông
tin xấu về kinh tế Mỹ xuất hiện, các nền kinh tế khác cũng ngay lập tức lo theo.
Một kịch bản thường gặp là các nhà đầu tư Wall Street bán tháo cổ phiếu,
khiến chỉ số Dow Jones sụt giảm và một vài giờ sau, các chỉ số chính của thị
trường chứng khoán châu Á cũng mở cửa với đường đi dốc xuống. Rồi sau
đó, tình hình các thị trường chứng khoán châu Âu cũng diẽn biến tương tự.
Điều này có thể nhận thấy rõ trong đợt suy giảm mạnh toàn cầu của thị trường
chứng khoán tháng 1 vừa qua.
f. Các ngân hàng trung ương “bó tay”
Những người lạc quan tin tưởng rằng các ngân hàng trung ương có thể
cứu thế giới khỏi những tác động tiêu cực của tình trạng suy thoái kinh tế ở
Mỹ. Như ở kỳ suy thoái năm 2001, FED đã cắt giảm lãi suất từ 6,5% xuống còn
1%, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) giảm lãi suất từ 4% xuống 2%, còn
Ngân hàng Trung ương Nhật (BOJ) giảm lãi suất xuống 0.
Nhưng ngày nay, khả năng của các ngân hàng trung ương trong việc sử
dụng các công cụ tiền tệ để kích thích tăng trưởng và hạn chế tác động của
tình trạng kinh tế tăng chậm lại toàn cầu đã bị hạn chế hơn trước rất nhiều.
Lạm phát tăng cao tại nhiều nước đang “bó tay” các ngân hàng trung ương.
FED sẽ còn cắt giảm lãi suất, nhưng chắc chắn sẽ lo ngại về tình trạng
mất giá liên tiếp của USD sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài e ngại không
muốn bỏ tiền mua các loại trái phiếu của Mỹ. Và trong nền kinh tế toàn cầu nói
chung, đồng USD yếu cũng là một trò chơi có tổng bằng 0, đồng USD yếu sẽ

có lợi xuất khẩu của nước Mỹ, nhưng lại làm tổn thương khả năng cạnh tranh
và tăng trưởng của các đối tác thương mại của Mỹ.
Chính sách tiền tệ cũng kém tác dụng hơn vào thời điểm này vì một lý do
khác. Nguồn cung nhà cửa, xe cộ và các hàng hóa tiêu dùng khác trên thế giới
nói chung đang rất dư dả. Nhu cầu đối với những hàng hóa này đã bớt nhạy
cảm hơn trước những biến động lãi suất vì phải mất rất nhiều năm người tiêu
dùng mới có thể “hút” hết lượng hàng hóa thừa mứa này. Việc cắt giảm thuế
cho dân Mỹ cũng chẳng thể thay đổi tình huống, nhất là khi dân Mỹ đang nợ
“như chúa chổm”.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ hiện nay cũng được coi là đã vượt khỏi
tầm kiểm soát của FED. Những vấn đề mà kinh tế Mỹ đang phải đối mặt không
phải là thiếu tiền mà là những khoản nợ không trả nổi. Hàng triệu ngôi nhà
đang đứng trước nguy cơ bị tịch biên vì người sở hữu không có tiền trả nợ và
hơn 100 tổ chức cho vay cầm cố đang có nguy cơ phá sản.
Mặt khác, không chỉ cho vay cầm cố, các ngân hàng của Mỹ còn thả cửa
cho vay để các doanh nghiệp đầu tư vào các vụ mua lại hoặc các loại tài sản
địa ốc thương mại. Do đó, nếu kinh tế Mỹ tiếp tục xấu đi, lượng vỡ nợ của các
doanh nghiệp cũng sẽ tăng vọt.
Thêm vào đó, ở Mỹ còn tồn tại một hệ thống ngân hàng “chợ đen” bao
gồm những tổ chức tài chính không phải là ngân hàng nhưng lại vay tiền ngắn
hạn để cho vay hoặc đầu tư dài hạn. Chẳng hạn, các quỹ đầu tư thị trường tiền
tệ có thể bị rút sạch vốn trong vòng một đêm, hay các quỹ phòng hộ chỉ được
báo trước 1 tháng để trả nợ. Nhiều trong số những quỹ này đã tự “trói” mình
vào những loại trái phiếu có độ rủi ro cao và dài hạn do đó họ phải đối mặt với
rủi ro lớn hơn vì họ không phải là đối tượng được nhận hỗ trợ của FED trong
trường hợp xấu nhất.
Khả năng áp dụng các biện pháp kích thích tài chính của chính phủ hiện
nay cũng đã hạn chế hơn trước rất nhiều do Mỹ, Nhật và châu Âu hiện đều
cùng ở trong tình trạng thâm hụt ngân sách. Trong lần suy thoái trước, ngân
sách của Mỹ đã đi từ chỗ thặng dư 2,5% GDP vào năm 2000 đến chỗ thâm hụt

3,2% GDP vào năm 2004. Nhưng lần này, thâm hụt ngân sách của Mỹ đã ở
mức cao và Chính phủ Mỹ chỉ có thể thực hiện kích thích tài chính bằng 1%
GDP theo như đã nêu trong kế hoạch kích thích kinh tế trọn gói mới đây của
ông Bush. Tình hình ở Mỹ và châu Âu cũng tương tự.
Vào thời điểm hiện nay, kế hoạch kích thích kinh tế này của ông Bush quá
nhỏ để có thể tạo ra một sự khác biệt lớn, và những gì mà FED đang làm là
quá ít ỏi và muộn màng. Nước Mỹ sẽ phải mất nhiều năm để giải quyết những
vấn đề đã dẫn tới cuộc khủng hoảng này. Quản lý yếu kém đối với hoạt động
cho vay cầm cố, sự thiếu minh bạch đối với những sản phẩm tài chính phức
tạp, chính sách khuyến khích thiếu hợp lý trong gói lương thưởng cho lãnh đạo
các ngân hàng, quản lý rủi ro kém, đánh giá tín dụng sai lầm… và còn rất nhiều
vấn đề khác nữa.
Cuối cùng, trong thế giới phẳng ngày nay, sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia vào những thời điểm tốt đẹp. Nhưng không
may, chính những ràng buộc thương mại và tài chính này cũng đồng nghĩa với
việc tăng trưởng yếu đi ở nơi này sẽ kéo theo tăng trưởng ở những nơi khác.
Không phải nước nào cũng sẽ suy thoái cùng với Mỹ, nhưng chắc chắn không
nước nào có thể “miễn nhiễm”.
4. Tác động của suy thoái đến VIỆTNAM
Nền kinh tế Việt Nam có thể sẽ bị ảnh hưởng tới xuất khẩu và đầu tư
nước ngoài như bất cứ một quốc gia đang phát triển nào khác, nhưng hệ thống
tài chính ngân hàng Việt Nam hiện có thể đứng vững trước cơn sóng gió này.

×