Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Bản chất tài sản được trình bày trên Bảng cân đối kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.26 KB, 2 trang )

Bản chất tài sản được trình bày trên Bảng cân đối kế toán
Tạp chí kế tóan, 11-07-2008. Số lần xem: 5752

Tài sản (TS) là một trong ba yếu tố cơ bản được trình bày trên Bảng cân đối kế toán
(BCĐKT). Trên BCĐKT, có những khoản mục phần TS nhưng thực tế lại không phải là TS
nếu căn cứ vào khái niệm. Ngược lại, có những khoản đủ tiêu chuẩn là TS nhưng lại không
được báo cáo trên BCĐKT. Trong bài báo này, chúng tôi muốn làm rõ khái niệm về TS trong
kế toán và đưa ra những tiêu chuẩn để ghi nhận TS được trình bày trên BCĐKT ngày nay.
Trong chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 (VAS 01), TS được hiểu là những nguồn lực do
doanh nghiệp kiểm soát, có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Khái niệm TS này
có một số điểm cần phải làm rõ:
Thứ nhất, một khoản mục được coi là TS khi nó có thể đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai
cho đơn vị kế toán vì lợi ích kinh tế thu được trong tương lai không thể hoàn toàn chắc chắn
mà chỉ là sjư ước đoán hợp lý trên cơ sở các bằng chứng có sẵn. Lợi ích kinh tế ở đây được
hiểu là nguồn lực kinh tế, tức là nó vừa phải đảm bảo tính khan hiếm vừa đảm bảo đặc tính
sử dụng. Nếu thiếu một trong các điều kiện này, vật đó không được xếp vào là nguồn lực
kinh tế. Đặc tính sử dụng của một khoản nào đó được thể hiện thông qua khả năng cung
cấp dịch vụ của nó trong tương lai hoặc quyền lợi kinh tế trong tương lai.
Thứ hai, một khoản nào đó được coi là TS khi nó phải được doanh nghiệp kiểm soát. Kế
toán không đề cập đến nguồn lợi ích kinh tế nói chung mà chỉ liên quan đến nguồn lợi ích do
một doanh nghiệp cụ thể kiểm soát. Tính kiểm soát ở đây được hiểu là quyền sử dụng hoặc
kiểm soát một vật nào đó, không phải là tính sở hữu nó. Điều này lý giải vì sao TS thuê tài
chính lại được báo cáo trên bcdkt của bên thuê cho dù quyền sở hữu nó thuộc về bên cho
thuê.
Thứ ba, một khoản nào đó được coi là TS thì bắt buộc phải là kết quả của nghiệp vụ quá
khứ. Điều kiện này là bắt buộc để đảm bảo những TS ngẫu nhiên không được coi là TS của
đơn vị. Nếu một thiết bị đã được đơn vị kế toán mua thì thiết bị đó là TS của đơn vị đó,
nhưng nếu như thiết bị đó sẽ được đơn vị đó mua thì nó không được báo cáo như là TS của
đơn vị.
Như vậy, trong khái niệm kế toán, ba điều kiện cần thiết để một khoản mục được ghi nhận
như là một khoản TS, bao gồm: khả năng cung cấp lợi ích kinh tế trong tương lai, đựơc đơn


vị kế toán cụ thể kiểm soát và kết quả của nghiệp vụ quá khứ. Tuy nhiên, trong thực tế, có
những ngoại lệ, đó là những khoản không đủ cả ba điều kiện trên vẫn được báo cáo trên
BCĐKT và ngược lại có những khoản đủ điều kiện nhưng lại không được báo cáo trên
BCĐKT.
Những ví dụ về trường hợp ngoại lệ đầu tiên như chi phí phát hành trái phiếu và chi phí tạo
ra sản phẩm hỏng trong định mức cho phép. Những khoản chi phí này phát sinh không làm
nảy sinh lợi ích kinh tế tương lai cho đơn vị kế toán nhưng vẫn được gộp vào các khoản trả
trước thực sự đem lại kinh tế tương lai cho doanh nghiệp hoặc được vốn hoá và trình bày
như những khoản TS khác.
Một số ví dụ về trường hợp ngoại lệ thứ hai như nguồn nhân lực hoặc một số khoản Chính
phủ nghiên cứu, phát triển. Đây là những khoản thực sự đảm bảo đủ các điều kiện ghi nhận
TS theo khái niệm nhưng toàn bộ hoặc một phần không được ghi nhận như là TS của đơn vị
kế toán.
Một đặc điểm nữa mà các học giả cho rằng muốn một khoản được báo cáo như là một TS
thì bắt buộc nó có khả năng trao đổi được. Theo những học giả này, nếu như không đảm
bảo được điều kiện này thì khoản đó sẽ thiếu tính giá trị kinh tế do không có khả năng mua
và bán, hay nói cách khác là không tồn tại thị trường cho những khoản này. TS bị ảnh
hưởng quan điểm này lớn nhất là lợi thế thương mại vì nó không thể được bán một cách
riêng biệt tách hẳn ra khỏi TS khác của doanh nghiệp. Tuy nhiên, gần đây nhiều nhà học
giả và trong thực tế thiên hướng về quan điểm cho rằng lợi thế thương mại do đơn vị kế
toán mua cần được báo cáo như là một khoản TS trên BCĐKT.
Như vậy, khái niệm về TS trong CMKT chỉ là bước đầu tiên trong quá trình xác định TS
trong thế giới thực tại và sau đó là ghi chép chúng vào sổ và trình bày trên BCĐKT. Giữa
khái niệm TS và việc xác định TS trong thực tế có những phần chung và những phần riêng.
Trong thực tế, các đặc tính căn bản để ghi nhận một khoản mục có phải là TS hay không
cần dựa vào những đặc tính căn bản sau đây:
Dựa vào luật.
Doanh nghiệp có quyền pháp lý đối với lợi ích kinh tế tương lai không? Việc ghi nhận rất
nhiều TS phụ thuộc vào khái niệm có tính luật pháp của TS. Việc ghi nhận khoản phải thu
của khách hàng như là TS vì nghiệp vụ bán hàng hoá hoặc dịch vụ cũng như nghiệp vụ mua

TS cố định chịu đem đến quyền pháp lý của việc sử dụng là những ví dụ. Đặc tính này liên
quan đến cả tính thích hợp và tính tin cậy của thông tin kế toán.
Sử dụng nguyên tắc thận trọng
Khoản lỗ có thể ước tính nhưng ghi nhận lợi nhuận phải có chứng cớ chắcn chắn. Ví dụ,
khoản phải trả do công ty bị kiên, trong trường hợp đơn vị là nguyên đơn, không được ghi
nhận khoản đền bù có thể nhận được như là TS của doanh nghiệp.
Xác định thực chất kinh tế của các sự kiện hoặc nghiệp vụ.
Để xác định thực chất kinh tế của một sự kiện liên quan như thế nào đến mục đích của việc
báo cáo thông tin kế toán thích hợp, tính trọng yếu cũng là một yếu tố quan trọng. Nếu như
các sự kiện mang thực chất kinh tế, khi đó nó đủ lớn để được ghi nhận và báo cáo. Có nhiều
khoá cạnh khác nhau đối với đặc tính này và do đó khó có thể khái quát được nhưng rất
nhiều quy định được dựa trên ý niệm thực chất kinh tế. Ví dụ, cả thuê tài chính và thuê
hoạt động đều đem lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp nhưng thuê tài chính được ghi nhận
khi có sự chuyển dịch phần lớn lợi ích kinh tế cho bên đi thuê.
Khả năng xác định giá trị của TS. Nếu như kế toán viên không thể xác định gái trị của một
TS một cách khách quan, khi đó TS không được ghi nhận. Đó là lý do vì sao nguồn nhân lực
không được ghi nhận là TS, lợi thế thương mại tự tạo cũng không được ghi nhận là TS. Tính
có khả năng xác định liên quan đến tính tin cậy của thông tin.
PGS.TS Lê Văn Liên- Nguyễn Thị Thu Thuỷ (Tạp chí Kế toán)

×