Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

sáng kiến kinh nghiệm môn văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.98 KB, 33 trang )

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm NguyÔn ThÞ H»ng
I. Ph ầ n m ở đầ u
1. Lí do chọn đề tài.
a. Lí do khách quan:
Trong nhà trường trung học cơ sở, môn ngữ văn là môn học có vị trí quan trọng,
được xem là cốt lõi, có vai trò chính thống trong hệ thống giáo dục học đường.
Văn học vốn gần gũi với cuộc sống, mà cuộc sống bao giờ cũng đa dạng, phức tạp
và vô cùng phong phú. Học văn không chỉ cung cấp kiến thức cho người học về
cuộc sống, lẽ sống, về cuộc đời, con người,… những tư tưởng tình cảm mà người
nghệ sĩ gửi gắm thông qua tác phẩm của mình mà học văn là học lẽ sống, cách
sống, học làm người. Nếu ta cảm nhận và thích thú bộ môn thì văn học “sẽ làm ta
yêu đời và lớn hơn một chút” (Tố Hữu). Tác phẩm văn học là sự kết hợp hài hòa
giữa thế giới khách quan và tư tưởng tình cảm chủ quan của nhà văn. Thế giới
khách quan được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn học là một thế giới đã thông
qua tâm hồn nhà văn, thấm đẫm màu sắc của chủ thể sáng tạo. Qua thế giới ấy,
chúng ta hiểu được cuộc sống, con người và đồng thời cũng hiểu được tâm hồn,
tình cảm, tư tưởng và thái độ của tác giả. Nhưng do yếu tố thời đại mà theo tôi
được biết hiện nay sự rung cảm trước cái đẹp đang dần bị mờ đi .Đặc biệt là sự yêu
thích môn văn đang ngày càng giảm .Bởi cùng với phát triển của internet là các trò
chơi điện tử nên hầu hết các em đều bỏ qua việc tìm hiểu các tác phẩm văn chương
mà theo suy nghĩ của các em đó là sự nhàm chán, tẻ nhạt.
b/Lí do chủ quan.
Tác phẩm văn học do nhà văn sáng tạo ra. Ngôn ngữ văn chương mang
nhiều đặc trưng, nhất là thơ. Thơ có nhiều thể loại. Mỗi thể loại có phương pháp
dạy, phương pháp cảm thụ, bình giá khác nhau. Vấn đề tôi muốn trình bày ở đây
1
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm NguyÔn ThÞ H»ng
là kĩ năng cảm thụ thơ trữ tình hiện đại. Để giúp học sinh hiểu tốt một tác phẩm
thơ trữ tình, người thày sử dụng nhiều phương pháp: đọc hiểu, đọc phân tích, đọc
bình, … Một trong những yếu tố quan trọng để giúp các em cảm thụ thơ trữ tình
được tốt là việc rèn kĩ năng cảm thụ thông qua đọc -hiểu. Kĩ năng này nhiều khi


trên lớp người thày xem nhẹ, lướt qua hoặc hướng dẫn học sinh làm chưa tốt.Hơn
nữa qua quá trình giảng dạy và tìm hiểu tôi nhận thấy hiện nay các em học sinh
khô khan hơn trong việc cảm thụ cái hay cái đẹp của tác phảm văn chương.Như
chúng ta biết đã có em học sinh sau khi đọc đề cô giáo ra là : " Trình bày cảm
nhận của em về cái hay cái đẹp của tác phẩm " khi làm bài em học sinh đó không
những không làm mà còn ghi " Em không cảm nhận được cái hay cái đẹp bởi em
không cảm thấy thế".Hẳn ta cũng chẳng thể quên có em học sinh cấp 3 ở trường
Amsterdam khi cô giáo yêu cầu trình bày cảm nhận của em về bài thơ Văn tế nghĩa
sỹ Cần Giuộc đã phát biểu vì em không sống trong thời đó nên em không thấy
rung động trước những vần thơ đó.Từ thực tế đó ta thấy rằng việc giáo viên rèn
cho các em kỹ năng cảm thụ cái hay cái đẹp của một tác phẩm nhất là thơ trữ tình
là rất cần thiết.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy môn ngữ văn , xuất phát từ thực
tế, tôi xin mạo muội góp một vài ý kiến nhỏ xung quanh vấn đề dạy và học môn
văn qua đề tài:
“Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thông qua bài dạy đọc- hiểu thơ trữ tình
hiện đại lớp 9”.
2. Mục đích của đề tài.
Đề tài này góp phần soi sáng một phương diện cơ bản: thêm một cách hiểu, một kĩ
năng cho các em lớp 9 về việc cảm thụ một số tác phẩm thơ trữ tình hiện đại. Thông
qua kĩ năng đọc- hiểu ở một tiết học giúp các em có hứng thú học bộ môn, khám phá
2
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm NguyÔn ThÞ H»ng
tác phẩm ở mức sâu hơn. Để sau mỗi tiết học tâm hồn các em sẽ được lắng đọng một
điều gì đó, đồng cảm cùng nhà thơ trong tác phẩm để ,đạt hiệu quả cảm thụ; góp phần
nâng cao chất lượng bộ môn giúp các em yêu thích thơ,ham mê hơn sau mỗi tiết học
về thơ.
3. §ối tượng, phương pháp nghiên cứu và đối tượng khảo
sát:
Trong những năm gần đây, việc giảng dạy ngữ văn trong trường THCS nói riêng đã

có nhiều chuyển biến theo định hướng tích hợp và tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy học là nhấn mạnh tính tích cực của các em
học sinh trong hoạt động học tập. Giờ học văn đã có chất văn, kĩ năng đọc (đặc biệt là
đọc diễn cảm và cảm thụ văn ) được chú trọng. Các giờ đọc- hiểu thơ trữ tình hiện đại
đã được giáo viên và học sinh quan tâm. Người thày có trách nhiệm tổ chức giờ dạy,
hướng dẫn học sinh học, cảm thụ tác phẩm. Trò là trung tâm. Học thơ là cảm và hiểu.
Dạy thơ là đọc và giảng. Dạy văn, học văn là phải đọc văn. Với thơ trữ tình càng cần
gấp bội. Thơ khêu gợi rung động tâm hồn bằng hình và nhạc. Nếu học sinh đọc thơ
mà bài thơ không gợi cho tâm hồn, trí tuệ các em hình tượng và âm điệu thì các em
không thể nào cảm và hiểu rồi yêu và nhớ được bài thơ đó.
Trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn ở lớp 9, tôi nhận thấy dạy thơ, giúp các em
cảm thụ thơ văn là vấn đề rất khó. Qua quá trình giảng dạy và khảo sát học sinh,
tôi đã đưa ra đề tài này để đồng nghiệp cùng tham khảo. Để hoàn thành đề tài này, tôi
đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu để tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của
đề tài.
2.Những kinh nghiệm tích lũy được qua quá trình giảng dạy thơ trữ tình.
3
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm NguyÔn ThÞ H»ng
3.Phương pháp so sánh, phân tích văn học để thấy được vai trò, tầm quan trọng
và hiệu quả của đề tài.
4.Phương pháp thống kê.
5.Phương pháp thực nghiệm.
4. Nhiệm vụ, phạm vi v thà ời gian thực hiện của đề t i.à
a, Nhiệm vụ:
Cung cấp một sáng kiến “Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thông qua bài
dạy học đọc- hiểu thơ trữ tình hiện đại lớp 9”. Đó là các kĩ năng: đọc diễn cảm, đọc
phân tích, phát hiện và bình giá các dấu hiệu nghệ thuật, học sinh thực hành vào việc
tập cảm thụ, bình thơ.
b, Phạm vi:

Kĩ năng cảm thụ thơ trữ tình hiện đại ở lớp 9.
c, Thời gian thực hiện:
5 tháng trong năm học 2009-2010, từ tháng 10 đến hết tháng 3.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài.
Thơ là một hiện tượng nghệ thuật tế nhị và phức tạp. Giảng dạy thơ là một công
việc sư phạm cũng tế nhị và phức tạp không kém. Đây là lĩnh vực của sự sáng tạo.
Mỗi bài thơ có một nội dung và nghệ thuật độc đáo, đòi hỏi một lời giảng, một cách
giảng riêng, thích hợp với nó. Không có lời giảng, cách giảng nào phổ biến, áp dụng
cho mọi bài thơ. Để giúp các em học sinh cảm thụ được tác phẩm thơ trữ tình hiện đại
4
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm NguyÔn ThÞ H»ng
ở lớp 9, trong bài viết này, căn cứ vào kinh nghiệm và hiểu biết của mình qua quá
trình giảng dạy trực tiếp trên lớp, tôi cố gắng đi tìm những đặc trưng nổi bật của thơ
để từ đó đề ra một vài suy nghĩ về phương pháp cơ bản: rèn kĩ năng cảm thụ thơ cho
học sinh với hi vọng nó sẽ có tác dụng ít nhiều cho sự tìm tòi sáng tạo của các đồng
nghiệp chúng ta trong quá trình giảng dạy.

II. Phần nội dung đề tài.
5
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hằng
Chng I: C s khoa hc của sáng kiến kinh nghiệm.
1/C s lí luận ca t i:
Con ngời ta sống một cuộc sống gọi là đầy đủ với hai điều kiện: đầy đủ về vật chất
và đầy đủ về tinh thần. Chỉ nói riêng về cuộc sống tinh thần cũng thật đa dạng và phong
phú. Biểu hiện của sự đa dạng, phong phú ấy là: đợc yêu thơng, biết yêu thơng; đợc ớc
mơ, đợc thởng thức cái hay cái đẹp của cuộc đời; đợc thởng thức và đợc cống hiến. Và
một trong những điều mang lại cho con ngời niềm vui trong cuộc sống là biết thởng thức
những cái hay, cái đẹp, ý nghĩa cuộc đời qua những áng thơ văn, dù sau này con ngời ấy
có theo nghề nào đi chăng nữa. Vì ở các tác phẩm văn chơng, cuộc sống đã đợc kết tinh
thành cái đẹp qua tài năng, tình cảm, tâm huyết của ngời sáng tạo tác phẩm .

Là loại hình tác phẩm đợc cấu trúc bởi một kiểu ngôn ngữ đặc biệt, khác hẳn ngôn
ngữ đời thờng và ngôn ngữ văn xuôi, để bộc lộ ý thức tình cảm con ngời một cách trực
tiếp; là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động đột xuất, độc
đáo - thơ trữ tình đến với ngời đọc tự nhiên mà nồng nàn, giản dị mà sâu sắc, dễ dàng
mà khó quên, bất chợt để trờng tồn, một chút xôn xao để rồi sâu lắng. Một cái nhìn, một
ánh mắt, một tiếng gọi trong thơ ta gặp một lần để rồi cứ nhấp nháy mời gọi, ngân nga
hoài trong ta mãi không thôi. Cái tôi trữ tình luôn cảm xúc thực sự, bộc lộ hẳn
ra.Tiếng nói trữ tình trở thành tiếng lòng thầm kín của mọi ngời. Quả thật nó là Lời gửi
của nghệ sĩ với cuộc đời. Nói nh cố nhà thơ Tố Hữu: Thơ là tiếng nói của ngời nào
đó đến với những ngời nào đó dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình. Thơ là tiếng nói đồng
ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí .
Tuy nhiên, có những bài thơ ngời ta đọc một lần rồi sau đó mãi mãi để trong quên
lãng, có những bài thơ ngời ta đọc đi đọc lại mãi không muốn thôi. Hoặc lại cũng có bài
thơ, ngời này đọc thấy hay, thấy xúc động, ngời khác lại chẳng thấy gì là thích thú. Đấy
6
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hằng
là do sức hấp dẫn từ bản thân tác phẩm và một điều quan trọng nữa là hứng thú và kĩ
năng cảm nhận ở mỗi ngời khi đến với văn bản thơ.
2.C s thc tin ca ti.
Qua quỏ trỡnh nhiu nm ng lp v ging dy tụi nhõn thy rng:Năng lực cảm thụ
của mỗi ngời không giống nhau, cũng không phải tự nhiên vốn sẵn có mà phải qua quá
trình hình thành bồi dỡng. Nhất là đối với các em học sinh. Với những học sinh lớp 9 -
những học sinh sắp tốt nghiệp THCS trớc ngã rẽ đầu tiên của cuộc đời (các em có thể
tiếp tục học lên hoặc bớc sang một hớng khác của cuộc sống), để các em có thêm những
nhận thức và tình cảm tốt đẹp với cuộc sống trong và sau tác phẩm văn chơng, giúp các
em tiếp tục nâng cao năng lực cảm thụ khi học văn học ở cấp THPT, tôi mạnh dạn đặt ra
vấn đề: Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thông qua bài dạy học đọc - hiểu
văn bản thơ trữ tình. Với phạm vi rất hạn hẹp là các tiết dạy thơ hiện đại cho đối tợng
là học sinh lớp 9 quá trình tích luỹ kinh nghiệm còn rất ngắn. Song tôi hi vọng sẽ nhận
đợc sự góp ý của đồng nghiệp để mình có thể góp một kinh nghiệm nhỏ vào quá trình

dạy học ngữ văn của bản thân với những lớp học sinh tiếp theo.
7
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hằng
Chng II: Thc trng vn m n i dung ca t i cp n
Nói đến bồi dỡng năng lực cảm thụ thơ văn là nói đến một vấn đề mang tính chiến
lợc trong quá trình dạy- học văn chơng. Bản thân mỗi tác phẩm văn chơng đã
có khả năng tạo cho ngời đọc sức hấp dẫn để rồi bằng nhiều con đờng, ngời ta đợc tìm
hiểu về nó. Với mỗi học sinh lớp 9 đặt ra vấn đề bồi dỡng năng lực cảm thụ thơ văn
không phải là sớm nhng cũng không thể nói là muộn. Kể từ khi các em đợc sinh ra lớn
lên và đến trờng các em đã đợc tiếp xúc và cảm thụ các tác phẩm văn chơng.
Ngay từ còn nằm nôi các em đã đợc nghe những lời hát ru ngọt ngào đằm thắm, đựơc
nghe đọc truyện cổ tích, đọc theo ngời lớn một bài thơ, nghe một ngời ngâm thơ trên
các phơng tiện thông tin đại chúng. Khi đến trờng cùng với việc đọc, học bài học ở tr-
ừơng các em còn tiếp tục đợc cảm nhận, thởng thức văn chơng qua những sinh hoạt tập
thể của Đội - Đoàn, đc báo, diễn thơ trong hoạt động văn nghệ, nghe nói chuyện về
thơ. Nhng ở đây, điều tôi muốn nói đến thiên về những việc làm của Thầy và Trò trong
quá trình chuẩn bị và thực hin đọc- hiểu văn bản thơ trữ tình. Làm thế nào để qua một
bài dạy - học thơ có thể góp thêm một kinh nghiệm để rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho
các em. Hay nói cách khác những việc làm cụ thể để rèn luyện kĩ năng cảm thụ tác
phẩm diễn ra trớc, trong và sau tiết bài dạy- học đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình. Đây là
những việc làm khó.
Nh trên đã nói, việc cảm thụ văn chơng ở mỗi ngời không hề giống nhau hơn nữa
hoạt động thởng thức văn chơng của học sinh trong nhà trờng không giống nh hoạt động
thởng thức của bạn đọc ở ngoài xã hội. Hoạt động thởng thức văn chơng ở ngoài xã hội
là hoàn toàn tự do, hoàn toàn mang tính chất cá nhân. Còn hoạt động thởng thức văn ch-
ơng trong nhà trờng là có giới hạn nhất định về thời gian kể cả trong chính khoá và
ngoại khoá; có sự hớng dẫn của giáo viên, có sự kích thích tác động lẫn nhau của những
ngời cùng thởng thức, đợc khuyến khích phát hiện thởng thức những cái hay, cái đẹp
theo một cách riêng nhng chủ yếu phải thởng thức, tiếp nhận cái hay, cái đẹp là những
kiến thức có tính mục tiêu khái quát về tác phẩm. Và nguyên tắc dạy học văn cũng chỉ

8
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hằng
ra rằng: dạy học văn chơng phải vừa dạy môn khoa học vừa dạy môn nghệ thuật bởi văn
học vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Vì thế việc cảm thụ tác phẩm phải dựa trên cả
tính khoa học, nghệ thuật và tính nhà trờng. Rõ ràng việc rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn,
nhất là qua đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình là một việc đòi hỏi tính liên kết khá cao.
Phần nữa, xét về kĩ năng cảm thụ tác phẩm văn chơng của những học sinh lớp 9 hiện
tại cũng còn nhiều điều nan giải. Chỉ nói về kĩ năng tiếp xúc với tác phẩm đã có rất
nhiều điều phải bàn.
Thứ nhất là các em rất lời đọc. Chả nói đến những kĩ năng cao siêu, đọc là khâu đầu
tiên để học sinh tiếp cận tác phẩm, song vì có lẽ cho là mình đang là lớn nên phần lớn
các em học sinh chỉ đọc bằng cách lia mắt lớt qua để rồi sau đó vội vội vàng, vàng trả
lời mấy câu hỏi hớng dẫn trong sách giáo khoa cho xong việc chuẩn bị bài để tránh bị
cán bộ lớp hoặc cô giáo phê bình. Thử làm một phép điều tra nho nhỏ đầu năm với bài
chuẩn bị học đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh - trích Hoàng Lê nhất
thống chí (đây là một tác phẩm truyện), tôi không khỏi giật mình. Khi đợc hỏi học
sinh học lớp 9A1, 9A2 các em đã cho biết:
Số lần đọc bài: nhiều nhất là một lần .
Số lợng học sinh đọc đầy đủ từ đầu đến cuối đoạn trích: 9A1:30/36 9A
2: 11/27
Số còn lại đọc loáng thoáng một số câu, một vài đoạn. Đặc biệt có:5 em(9B)
không cần đọc một câu nào. Lý do không đọc hết hoặc đọc một lần: văn bản dài,
là văn xuôi khó đọc.
Đến thơ, tình trạng có khá hơn. Số em đọc bài thơ Bếp lửa từ 2 lần trở lên đã có :
9A1: 30 em 9A2 : 12 em
Đọc một lần : 9A1: 6 em 9A2 : 12 em
9
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hằng
Đấy là việc đọc trớc. Còn việc chuẩn bị trả lời câu hỏi đọc - hiểu văn bản thì sao ?
Cũng đã nói ở trên, vì tâm lý sợ cô giáo và tập thể phê bình nên các em có trả lời

các câu hỏi chuẩn bị bài vào vở bài tập ngữ văn. Song việc trả lời chỉ là sao chép lại
những gợi ý trong sách Để học tốt Văn và Tiếng Việt 9 sao chép không cần suy nghĩ,
miễn sao có đủ bài.
Nh thế, ở khâu đầu tiên tiếp xúc với văn bản, các kĩ năng đọc, tìm hiểu nếu không
đợc rèn luyện sẽ dần dần chuyển sang kĩ năng sao chép tài liệu hớng dẫn thành thạo hay
không thành thạo mà thôi.
Còn trong quá trình đọc - hiểu. Rất nhiều giờ dạy - học, nhất là giờ dạy - học
những bài thơ trữ tình hay. Trớc đây, với phơng pháp dạy học cũ, thầy giảng trò nghe,
dạy những bài thơ nh: Đoàn thuyền đánh cá , không ít giáo viên đã để cháy giáo án
vì thầy giáo quá say với những ngôn từ, vẻ đẹp trong cách thể hiện của tác giả. Hiện
nay, với phơng pháp dạy học mới, ngời thầy lại không bị cháy vì mình quá say mà
cháy vì học sinh không biết tìm ra những tín hiệu nghệ thuật để phân tích, hoặc giả
các em chẳng hề rung động trớc bất cứ tín hiệu nghệ thuật nào. Kĩ năng đọc đã yếu, kĩ
năng phát hiện và cảm nhận các tín hiệu nghệ thuật trong một bài thơ ở các em lại càng
yếu.Có học sinh, khi đợc yêu cầu chỉ ra hình ảnh trong bài thơ Bếp lửa , em chỉ trả lời
gọn lỏn: Bà thơng cháu.
Hay nói đến các biện pháp nghệ thuật cũng vậy. Học sinh nhầm lẫn biện pháp
nghệ thuật và biện pháp tu từ. Hoặc các em đồng nhất hai khái niệm đó, hoặc nhầm giữa
biện pháp tu từ này với biện pháp tu từ khác và hầu nh việc tìm ra giá trị của biện pháp
nghệ thuật ấy trong bài thơ là rất hạn chế.
Một điều đáng nói nữa là hình tợng trong tác phẩm trữ tình. Nếu nh hình tợng trong
tác phẩm tự sự là hình tợng tính cách, các em dễ hình dung thì hình tợng trong tác phẩm
trữ tình lại là hình tợng tâm sự. Tiếng nói trong tác phẩm trữ tình là tác phẩm của những
10
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hằng
tâm trạng. Thơ trữ tình chứa đầy tâm trạng, cảm xúc và tâm trạng đó đợc gắn liền với sự
rung động về vần điệu, hình tợng âm thanh. Việc hiểu tâm trạng trong thơ để đồng điệu
cũng rất khó. Hiểu không đúng dễ dàng dẫn đến cảm nhận cũng lơ là, chệch hớng.
Tóm lại: Thực trạng của vấn đề có nhiều điều tác động, đòi hỏi trong quá trình thực
hiện dạy - học văn bản thơ trữ tình phải giải quyết để đạt hiệu quả:

Làm thế nào để khơi gợi hứng thú cảm nhận cho các em, taọ cơ sở cho việc rèn
kỹ năng cảm thụ ?
Làm thế nào để giúp các em có đợc và phát triển kĩ năng cảm thụ trong điều kiện
thực tế và thời lợng cụ thể giành cho mỗi văn bản thơ trữ tình?
Làm thế nào để các em biết vận dụng kỹ năng cảm thụ để làm tốt bài tập làm văn
nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong chơng trình để đảm bảo nguyên tắc dạy học văn
theo hớng thích hợp?
Đó là những điều đặt ra với tôi trong quá trình dạy học văn bản thơ trữ tình.
Căn cứ vào tình hình thực tế học sinh, bám sát đặc điểm loại thể thơ trữ tình; thông
qua một số tiết dạy cụ thể, tôi đã tiến hành các giải pháp nh sau:
Chng III: Nhng bin phỏp, gii phỏp thc hin ca ti.
11
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hằng
1.Đảm bảo nguyên tắc dạy học Ngữ Văn theo đặc tr ng thể loại - bồi d ỡng hứng thú
tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình.
Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của sự thăng hoa về tâm hồn, và trí tuệ của ngời
nghệ sĩ. Vì thế, nó có những giá trị vợt ra ngoài ý đồ sáng tạo của tác giả. Hình tợng
càng lớn, càng có tính nghệ thuật cao thì càng có nhiều khía cạnh, nội dung phong phú,
hấp dẫn. Sáng tạo một tác phẩm, nhà văn muốn nói với ngời đọc, muốn truyền cho ngời
đọc qua các thế hệ một cách nhìn, cách hiểu, cách đánh giá với chính mình và đối với
cuộc sống con ngời, đối với thế giới. Những ngời đọc, do sự chi phối của thời đại, do
trình độ, thị hiếu thẩm mỹ và tâm lý lứa tuổi, đến với tác phẩm lại muốn tìm đợc những
điều nào đó phù hợp với mình và cần thiết cho mình. Chính vì vậy, bản thân hình tợng
đã phong phú đa dạng, đối diện với ngừơi đọc càng làm cho nó trở nên phong phú đa
dạng hơn.
Nh trên đã nói, tác phẩm thơ - đặc biệt là thơ trữ tình - hình tợng trong đó là hình t-
ợng tâm t. Ngoài cái thông điệp mà tác giả muốn gửi tới ngời đọc còn có cả những điều
mà tác giả muốn bộc lộ ra với ngời đọc. Để học sinh say mê đọc tác phẩm, tái hiện hình
tợng trong tác phẩm, tiếp nhận đợc những giá trị của tác phẩm cũng nh có sự tìm tòi
phát hiện riêng về tác phẩm. Giáo viên phải tác động bằng nhiều hình thức để các em

chủ động đến với tác phẩm một cách hứng thú bằng những nhu cầu tình cảm, những nhu
cầu từ bên trong. Làm sao để các em sống với tác phẩm bằng cả tâm hồn mình, tiếp
nhận kiến thức về tác phẩm bằng những rung động sâu xa, mãnh liệt của tâm hồn.
Nhận thức tác phẩm tức là học sinh phải trực tiếp đối diện với tác phẩm và từ đó
có nhu cầu và niềm say mê thởng thức, khám phá tác phẩm. Là chủ thể chủ động, học
sinh không chỉ có đọc, sáng tạo lại hình tợng tác phẩm thành hình tợng của mình, mà
qua đó các em nghe đợc tiếng nói, lắng nghe đợc giọng điệu, cảm nhận đợc cái nhìn của
nhà thơ về cuộc sống, con ngời. Các em buồn cái buồn, vui niềm vui của nhà thơ, bị nhà
thơ thuyết phục hoặc tranh luận với nhà thơ. Là chủ thể chủ động, các em phải có sự
12
Sáng kiến kinh nghiệm Nguyễn Thị Hằng
giao tiếp, sự cộng hởng cảm xúc với nhà văn, tiếp nhận những thông điệp thẩm mỹ của
nhà văn qua tác phẩm. Để học sinh thực sự trở thành chủ thể tiếp nhận tác phẩm, trong
giờ dạy - học đọc - hiểu văn bản nhất là văn bản trữ tình cần:
Trớc hết các em phải đợc khơi gợi hứng thú đọc tác phẩm và hớng dẫn chuẩn bị tìm
hiểu tác phẩm ở nhà một cách cụ thể. Làm sao để khi bớc vào giờ học, các em nh mong
muốn đợc thể hiện giọng đọc, sự đồng sáng tạo của mình, muốn trình bày, muốn tranh
luận những điều cảm thụ, nhận thức đợc về tác phẩm. Thởng thức nghệ thuật chỉ thực sự
bắt đầu khi có nhu cầu về thỏa mãn về tình cảm, tâm hồn, trí tuệ, những nhu cầu về bên
trong.
Với chơng trình Ngữ Văn 9, những bài thơ trữ tình đợc đa vào dạy - học phần lớn đề
cập đến những tình cảm đẹp đẽ của con ngời, rất phù hợp với tâm lý tuổi mới lớn của
các em ( tình đồng chí đồng đội, tình bà cháu, tình yêu quê hơng đất nớc, yêu thiên
nhiên.). Ngời giáo viên phải bám sát đặc trng tiếng nói tình cảm của các bài mà h-
ớng các em vào việc đọc, tìm hiểu, tạo cho các em sự đồng cảm cùng nhà thơ để đạt
hiệu quả cảm thụ.
Tiếp theo việc khơi gợi hng thú đọc là tiến trình dạy - học. Trong tiết dạy - học, giáo
viên cần hớng dẫn các em tự phát hiện, thởng thức tác phẩm, khuyến khích các em có
những cảm nhận, những phát hiện riêng nhng không suy diễn tuỳ tiện, có những điều
trăn trở vấn vơng của các em về tác phẩm cần đợc thầy cô giúp đỡ giải đáp kịp thời. Sau

tiết học, các em đợc mở ra những khả năng mới để tiếp tục thởng thức, khám phá tác
phẩm ở mức sâu, rộng hơn, các em nh cảm nhận đợc những biến đổi, vận động phong
phú hơn trong tâm hồn mình. Với u thế dễ đọc, dễ nhớ và tình cảm sâu lắng, các bài thơ
trữ tình đầy đủ khả năng tạo ra hứng thú cho các em. Ngời giáo viên bám sát đặc trng
thể loại kết hợp với khéo léo khơi dậy tình cảm tiềm ẩn trong mỗi học trò sẽ từng bớc
bồi dỡng đợc hứng thú tiếp nhận tác phẩm cho các em trong quá trình dạy học.
13

×