Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Phương đông lướt ngoài cửa sổ của paul theroux nhìn từ đặc trưng thể loại du kí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LÊ TRẦN THOẠI NGÂN

“PHƢƠNG ĐÔNG LƢỚT NGOÀI CỬA SỔ”
CỦA PAUL THEROUX NHÌN TỪ ĐẶC
TRƢNG THỂ LOẠI DU KÍ

Chuyên ngành

: LÝ LUẬN VĂN HỌC

Mã số

: 60220120

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. THÁI PHAN VÀNG ANH

Thừa Thiên Huế, năm 2016

i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các
đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng công bố trong bất kì một


công trình nào khác.

Tác giả luận văn

ii


Lời Cảm Ơn
Luận văn này được hoàn thành, ngoài sự
nỗ lực của bản thân còn nhờ có sự hướng dẫn
và giúp đỡ tận tình của quý thầy cô giáo,
gia đình và bạn bè.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến
tất cả quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn, phòng
Đào tạo Sau Đại học, Đại học Huế đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính
trọng sâu sắc, lòng biết ơn chân thành đến
cô giáo TS. Thái Phan Vàng Anh - người trực
tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài. Trong
suốt quá trình nghiên cứu, cô đã luôn tận
tình hướng dẫn, chỉ dạy và tạo mọi điều kiện
tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin dành tất cả những
tình cảm sâu sắc nhất đến gia đình và bạn
bè đã quan tâm, động viên, chia sẻ và giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 9 năm 2016

Tác giả luận văn
iii


Lê Trần Thoại Ngân

iii

iv


MỤC LỤC
Trang phụ bìa ............................................................................................................... i
Lời cam đoan .............................................................................................................. ii
Lời cảm ơn ................................................................................................................. iii
MỤC LỤC.................................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài ..................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7
5. Đóng góp của luận văn....................................................................................... 8
6. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 8
NỘI DUNG ................................................................................................................ 9
Chƣơng 1. “PHƢƠNG ĐÔNG LƢỚT NGOÀI CỬA SỔ” - CUỘC HÀNH
TRÌNH SÂU THẲM VÀO LÒNG PHƢƠNG ĐÔNG .......................................... 9
1.1 “Phương Đông lướt ngoài cửa sổ” – hành trình đến phương Đông bằng xe
lửa .......................................................................................................................... 9
1.1.1 Xe lửa – phiên chợ Phương Đông hấp dẫn ............................................ 10
1.1.2 Cuộc sống thu nhỏ bên trong toa tàu phương Đông .............................. 13

1.2 Phương Đông – bức tranh cuộc sống hai bên đường ray xe lửa .................... 17
1.2.1 Cảnh sắc thiên nhiên đa dạng của châu Á.............................................. 17
1.2.2 Cuộc sống qua ô cửa sổ tàu tốc hành phương Đông .............................. 20
1.3 Cuộc sống trong lòng phương Đông – Bức tranh cuộc sống mang những gam
màu đối lập ........................................................................................................... 23
1.3.1 Tây Á cổ kính đang lão hóa ................................................................... 24
1.3.2 Trung Đông giàu tài nguyên nhưng bất ổn và bạo loạn......................... 26
1.3.3 Nam Á uy nghiêm nhưng nghèo đói ...................................................... 28
1.3.4 Đông Nam Á tươi đẹp nhưng hoang tàn ................................................ 30
1.3.5 Nhật Bản tiện nghi với cuộc sống rập khuôn ......................................... 34

1


1.3.6 Nga rộng lớn và sự cuồng tín đầy cảm tính ........................................... 36
Chƣơng 2. “PHƢƠNG ĐÔNG LƢỚT NGOÀI CỬA SỔ” –

BỨC TRANH

TOÀN CẢNH VỀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI ........................................................ 39
2.1 Chuyến tàu tốc hành phương Đông – Hành trình kiếm tìm lẽ sống của con
người .................................................................................................................... 39
2.1.1 Cuộc trốn chạy khỏi cuộc sống thực tại ................................................. 40
2.1.2 Con đường hành hương đến với niềm tin tôn giáo ................................ 44
2.1.3 Bôn ba dặm đường kiếm sống ............................................................... 47
2.1.4 Hành trình dấn thân, khám phá- đối diện với chính mình ..................... 51
2.2 Con người phương Đông và dấu chấm hỏi về số phận .................................. 53
2.2.1 Con người mất định hướng .................................................................... 54
2.2.2 Con người lạc lõng ................................................................................. 58
2.2.3 Con người kiệt quệ cảm xúc .................................................................. 62

Chƣơng 3. “PHƢƠNG ĐÔNG LƢỚT NGOÀI CỬA SỔ” VỚI MỘT SỐ THI
PHÁP THỂ LOẠI DU KÍ ...................................................................................... 66
3.1 Kết cấu hành trình theo nguyên tắc trật tự thời gian ...................................... 67
3.1.1 Kết cấu một chiều theo nguyên tắc trật tự thời gian .............................. 67
3.1.2 Kết cấu khúc đoạn theo trục thời gian ................................................... 72
3.2 Tính đơn phương trong trần thuật của tác phẩm “Phương Đông lướt ngoài
cửa sổ” .................................................................................................................. 76
3.2.1 Điểm nhìn trần thuật ngoại quan phản ánh thế giới ............................... 76
3.2.2 Nhân vật trần thuật xuất hiện với tư cách cái tôi chủ thể....................... 80
3.2.3 Tính đơn phương của một phương thức trần thuật duy nhất ................. 82
3.3 Ngôn ngữ và giọng điệu ................................................................................. 84
3.3.1 Ngôn ngữ du kí mang tính tuyến tính và xác thực ................................. 84
3.3.2 Giọng điệu trần thuật ............................................................................. 88
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 95

2


MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài
Thế giới bên ngoài là nơi con người luôn khao khát khám phá, chinh phục.
Ngay từ thuở ban sơ, bằng đôi chân trần con người lên đường tìm kiếm nơi nương
náu ẩn thân cho cộng đồng, khai khoang những vùng đất rộng lớn gây dựng đất
nước. Từ cuộc viễn chinh oai hùng mở mang bờ cõi đến những chuyến đi tìm kiếm
miếng ăn, manh áo, hành trình nối tiếp nhau từ thời đại này sang thời đại khác trong
đời sống nhân loại như một điều tất yếu. Ngay từ thời văn học cổ đã xuất hiện hình
tượng con người lên đường chinh phục những chân trời mới. Trong sử thi Odyssey
của Homero, cuộc phiêu lưu của Odyssey tái hiện hành trình vĩ đại của con người
trong thời Cổ đại. Theo thời gian, số lượng tác phẩm viết về những chuyến đi tăng

lên với sự hấp dẫn, độc đáo trong lối kể, lối viết như Don Quixote – nhà quí tộc tài
ba xứ Mantra (Cervantes), Tây du kí (Ngô Thừa Ân), Hành trình từ Petersburg đến
Moskwa (Radyshchev), Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Fin (Mark
Twaine)… Du hành có ý nghĩa phong phú nhưng tựu trung là đi tìm chân lí, hòa
bình, bất tử, tìm kiếm những ý nghĩa cuộc sống. Mỗi một hành trình mang ý nghĩa
phù hợp với đặc điểm và tính chất thời đại. Nếu như ở thời cổ đại, con người khao
khát hiểu biết thế giới,mở mang tri thức thì đến thời hiện đại, họ lại mang hoài vọng
du hành tìm kiếm giá trị tinh thần và tìm lời giải đáp cho sự hiện tồn của bản thân.
Du hành và ghi lại những điều trông thấy trở thành một xu hướng sáng tác mới
trong văn học. Với những chuyến đi hướng đến mục đích trải nghiệm cuộc sống
rộng lớn, du kí tái hiện bức tranh thời đại chân thực tại một mốc thời gian gắn với
không gian xác định. Thông qua chuyến phiêu lưu của nhân vật lữ khách, toàn bộ
cuộc hành trình được bao quát trong trường nhìn, cảm nhận của tác giả. Dòng văn
học du kí ra đời như một tất yếu đáp ứng nhu cầu của độc giả về sự trải nghiệm
không gian bên ngoài qua những trang sách. Trên thế giới, tác phẩm du kí viết về
những cuộc hành trình khám phá thế giới, nhân vật lựa chọn một đích đến và
phương tiện để khởi hành, tiêu biểu như Coasting - Jonathan Raban On the

3


Road (Trên đường) – Jack Kerouac, As I Walked Out One Midsummer Morning
(Bước ra một buổi sáng giữa hè) – Laurie Lee, Coasting (Men theo bờ biển) –
Jonathan Raban, Travels with Charley: In Search of America (Tôi, Charley Và
Hành Trình Nước Mỹ) – John Steinbeck, Notes From a Small Island (Những ghi
chép từ Small Island) – Bill Bryson, Homage to Catalonia (Catalonia kính mến) –
George Orwell, The Beach (Bãi biển) – Alex Garland, The Road to Oxiana (Đường
đến Oxiana) – Robert Byron… Phương Đông lướt ngoài cửa sổ là cuộc hành trình
khám phá cuộc sống châu Á rộng lớn. Một Phương Đông lộng lẫy và rực rỡ hiện ra
trên trang sách với nhiều khía cạnh của cuộc sống.

Phương Đông lướt ngoài cửa sổ là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại du kí
với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến nay, những công trình
nghiên cứu tác phẩm này còn chưa có, hầu hết mới dừng lại ở những bài viết ngắn,
mang tính cảm nhận bước đầu. Với 543 trang viết, tác phẩm tái hiện lại một cuộc
hành trình kéo dài bốn tháng rưỡi đi vào lòng phương Đông. Thành công của tác
phẩm trước hết là đã khắc họa được một chuyến đi đầy hấp dẫn với những cung bậc
cảm xúc, trải nghiệm khác nhau cùng hệ thống nhân vật phong phú, đa dạng vừa
chân thực vừa sinh động, thể hiện cách nhìn và quan niệm của nhà văn. Nghiên cứu
tác phẩm dưới góc nhìn thể loại không chỉ thấy những đặc điểm thuộc hình thức và
nội dung thể loại mà còn khám phá tài năng của người viết. Chọn đề tài này, chúng
tôi mong muốn góp một tiếng nói vào quá trình nghiên cứu tác phẩm. Nghiên cứu
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ nhìn từ đặc trưng thể loại du kí là việc làm cần
thiết và khoa học. Luận văn dựa trên đặc điểm của thể loại để soi chiếu nét đặc sắc
về nội dung, hình thức, nhận thức giá trị thẩm mĩ và những đóng góp của tác phẩm
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ trong bức tranh toàn cảnh của dòng văn học du kí.
Mục đích của đề tài Phương Đông lướt ngoài cửa sổ nhìn từ đặc trưng thể loại du kí
là nhằm tìm ra một phương pháp tiếp cận nghiên cứu có hệ thống, khoa học. Xuất
phát từ những vấn đề lí thuyết cơ bản của thể loại du kí, luận văn sẽ khảo sát, phân
tích và miêu tả các dạng thức biểu hiện của đặc điểm thể loại du kí cũng như sự
sáng tạo, tài hoa trong lối viết của Paul Theroux.

4


2. Lịch sử vấn đề
2.1 Tình hình nghiên cứu về thể loại du kí
Thế kỉ XX là khoảnh khắc hồi sinh du kí sau nhiều năm vắng bóng trên diễn
đàn văn chương thế giới. Dòng sách du kí phát triển với chất lượng và số lượng tác
phẩm hùng hậu. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu bản chất thể loại còn gây
nhiều tranh cãi trên thế giới. Từ những năm cuối thế kỉ XX xuất hiện nhiều công trình

nghiên cứu và phê bình thể loại du kí cùng với sự ra đời của Hiệp hội Du kí Quốc tế
(International Society for Travel Writing) đã thúc đẩy quá trình định hình thể loại.
Hiện nay nhiều học giả nghiên cứu du kí với tư cách là một bộ phận thuộc loại hình
văn học du lịch. Một số công trình nghiên cứu đặt nền móng cho thể loại du kí hiện
vẫn chưa được phổ biến rộng rãi như: Mấy vấn đề lí thuyết về thể loại du kí (Xu Zong
Yuan), Thể loại du kí trong sáng tác của Mark Twain những năm 60 – 70 thế kỉ XIX
(V.A. Shachkova), Du kí đương đại châu Mỹ Latinh (Claire Linsay), Du kí (Carl
Thompson)… Nhìn chung, các nhà nghiên cứu định nghĩa du kí là dòng văn học nảy
sinh từ hoạt động di chuyển của chủ thể, ghi lại khách quan những điều chứng kiến,
trải nghiệm và dung nạp nhiều phương thức biểu hiện. Tuy nhiên vẫn có nhiều vấn đề
tranh cãi xung quanh đặc trưng thể loại như hư cấu hay phi cấu, có cốt truyện hay
không có cốt truyện… Du kí là thể loại hiện nay vẫn đang được quan tâm với hệ
thống đặc trưng “mở”.
Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu có luận bàn lí thuyết chung về thể tài du kí
có số lượng không nhiều. Năm 2007, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn xuất bản
cuốn Du kí Việt Nam. Trong công trình nghiên cứu, tác giả đánh giá tình hình
nghiên cứu du kí hiện nay, lí giải cơ sở hình thành, quá trình vận động của thể tài du
kí. Phạm Xuân Nguyên có bài viết Du kí như một thể tài với nhiều ý kiến xác đáng
trong việc mở rộng phạm vi thể tài và xếp những sáng tác khi đi xa đều thuộc du kí.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Lễ với Luận án Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã
khái quát tình hình sáng tác du kí ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đồng thời tổng
hợp và định hình một số vấn đề lí thuyết cho thể loại du kí: phong cách thể loại, thi
pháp thể loại, phương thức tồn tại của thể loại. Bên cạnh đó một số công trình có đề
cập khái quát về du kí mang tính chất khái quát cơ bản như: Về thể ký (Tầm
5


Dương), Kí và tiểu luận (Hoàng Ngọc Hiến)... Những công trình nghiên cứu bước
đầu nhận diện một số đặc điểm thi pháp và nội dung của thể loại du kí Việt Nam
thời trung đại và hiện đại.

2.2 Những công trình, bài báo nghiên cứu, nhận định chung về tác phẩm
Phƣơng Đông lƣớt ngoài cửa sổ
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ được viết từ năm 1973 tuy nhiên mới chỉ
được xuất bản ở Việt Nam năm 2012 nên các công trình nghiên cứu còn hạn chế.
Tìm hiểu tác phẩm mới chỉ dừng lại ở những bài viết mang tính bình luận cá nhân,
lời giới thiệu ngắn gọn nội dung mà chưa có một công trình khoa học nghiên cứu có
hệ thống. Thu Linh với bài viết Nhà văn du kí với Phương Đông lướt ngoài cửa sổ
trên báo điện tử Tin mới ( , đăng ngày 08/08/2012), khẳng
định “tác giả với ngòi bút tài năng của mình, đã khiến Châu Á hiện ra như có thể
chạm vào, nếm được, ngửi thấy được và khơi dậy trong mỗi người đọc nỗi thôi thúc
một ngày bỏ xa cuộc sống nhàm chán, đều đặn, quen thuộc thường nhật để đeo hành
lý, rồi nhảy lên một con tàu nào đó, thử thách mình với những trải nghiệm, tận
hưởng tất cả mọi điều thú vị của thế giới bao la, rộng lớn”. Nhà báo Bạch Tiên trên
báo điện tử Vnexpress ( đăng ngày 20/09/2012) có bài
viết Phương Đông lướt ngoài cửa sổ với những nhận xét về sự đặc sắc trong lối viết
của Paul Theroux và sự phong phú, hấp dẫn về nội dung của tác phẩm. Ở bài viết
này, Bạch Tiên giới thiệu cụ thể chặng hành trình, con người xuất hiện trong tác
phẩm và đánh giá tài năng vượt bậc của Paul Theroux “Theroux là một bậc thầy về
ngôn ngữ”. Tác giả Long Linh viết bài Những chân trời đẹp của Phương Đông lướt
ngoài cửa sổ trên báo điện tử Tri thức trẻ ( đăng ngày 14/03/2015)
thể hiện những cảm nhận sâu sắc về tác phẩm với tư cách là một bạn đọc thực sự
“thả hồn vào cuốn du ký của Paul Theroux, ta cảm giác như mình chính là một
trong những hành khách trên toa tàu ấy, luôn chuyển động, luôn lướt đi trên đường
ray”. Long Linh chú ý đến sự sáng tạo, độc đáo trong cách thể hiện và khẳng định
tài năng xuất sắc của Paul Theroux trong lối viết du kí.
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm. Tuy
nhiên, trên thực tế, hầu hết các ý kiến nhận xét đánh giá chỉ mới dừng lại ở một

6



phạm vi hẹp trong việc khái quát nội dung cơ bản của tác phẩm, giá trị về mặt tư
tưởng và khẳng định tài năng của nhà văn chứ chưa có bài viết, công trình nào đi
sâu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về tác phẩm. Nghiên cứu Phương
Đông lướt ngoài cửa sổ dưới góc nhìn thể loại là một hướng đi tiếp cận và giải mã
tác phẩm, soi chiếu văn bản dưới hình thức đặc trưng du kí.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là dấu ấn đặc điểm thể loại du kí trong tác
phẩm Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của Paul Theroux ở nội dung và hình thức
thể loại.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của Paul Theroux nhìn từ đặc
trưng thể loại, luận văn tập trung soi chiếu tác phẩm qua một số bình diện: Phương
Đông lướt ngoài cửa sổ - Hành trình sâu thẳm vào lòng phương Đông, Phương
Đông lướt ngoài cửa sổ - Bức tranh toàn cảnh về số phận con người châu Á,
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ với một số thi pháp thể loại.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Từ việc xác định đối tượng và phạm vi của luận văn, chúng tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phƣơng pháp so sánh
So sánh trên phương diện đồng đại, nhằm mục đích tìm ra và chứng minh
những nét chung, nét riêng của du kí đối với nhiều tác phẩm, từ đó chỉ ra nét độc
đáo của Paul Theroux và giá trị của Phương Đông lướt ngoài cửa sổ.
4.2. Phƣơng pháp liên ngành
Ngoài việc khai thác kiến thức mang tính chất chuyên ngành, luận văn còn vận
dụng và kết hợp với kiến thức của các khoa học khác như: văn hóa, chính trị xã
hội... để đánh giá và lí giải nội dung trong tác phẩm.
4.3 Phƣơng pháp cấu trúc –hệ thống
Xem xét các mặt, các yếu tố của cấu trúc văn bản trong tính chỉnh thể và hệ

7


thống của tác phẩm và thể loại.
4.4 Phƣơng pháp loại hình
Vận dụng để làm sáng tỏ những biểu hiện cụ thể của thể loại du kí và lí giải,
khái quát ý nghĩa của chúng đối với tác phẩm.
5. Đóng góp của luận văn
Từ phương diện nghiên cứu Phương Đông lướt ngoài cửa sổ dưới góc nhìn thể
loại du kí, luận văn hi vọng sẽ tiếp tục làm rõ hơn biểu hiện của đặc trưng thể loại
trong tác phẩm văn học trên nhiều phương diện khác nhau và tài năng của tác giả
Paul Theroux. Qua đó, hi vọng mở ra một hướng tiếp cận mới, có hệ thống đối,
khoa học với tác phẩm này. Đồng thời tạo nguồn tư liệu về việc nghiên cứu tác
phẩm cũng như về nhà văn Paul Theroux đối với bạn đọc Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm có 3
chương như sau:
Chương 1: “Phương Đông lướt ngoài cửa sổ” – Cuộc hành trình sâu thẳm vào
lòng phương Đông
Chương 2: “Phương Đông lướt ngoài cửa sổ” - Bức tranh toàn cảnh về số
phận con người
Chương 3: “Phương Đông lướt ngoài cửa sổ” với một số thi pháp thể loại du kí

8


NỘI DUNG
Chƣơng 1
“PHƢƠNG ĐÔNG LƢỚT NGOÀI CỬA SỔ” - CUỘC HÀNH TRÌNH
SÂU THẲM VÀO LÒNG PHƢƠNG ĐÔNG

Văn học là hành trình tìm về cuộc sống, theo đuổi bóng dáng con người. Mang
sứ mệnh lưu giữ thế giới, mỗi thời đại đi qua đọng lại trong tác phẩm hình ảnh về
những ngày tháng đã xa với nhịp sống thuở đương thời. Mỗi thể loại văn chương
lựa chọn phương thức tiếp cận hiện thực khác nhau dựa trên cách tổ chức và xây
dựng văn bản đặc trưng. Du kí với hình thức phản ánh hiện thực đặc thù hướng sự
chú ý của con người đến khả năng mà cuộc sống tạo ra nhờ sự di chuyển. Con
người khao khát, lên đường chinh phục thế giới và tái hiện không gian xa lạ. Khởi
nguồn tác phẩm du kí là ước mong khám phá những chân trời mới, cảm hứng phiêu
lưu thôi thúc con người đến mảnh đất xa xôi, khiến người đi phải viết, phải kể, phải
tả về những điều mình chứng kiến. Nếu văn hóa thể hiện quan niệm, cách ứng xử
của con người trước thế giới, thì du kí là hoạt động lưu giữ thành quả sinh động
nhất.
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ là cuộc hành trình khám phá cuộc sống trong
lòng châu Á. Tác phẩm đong đầy sắc màu thông tin, văn hóa qua hình thức phản ánh
không hư cấu. Đan xen và xuyên suốt du kí là sự kết hợp đồng dạng giữa phương
Đông và văn hóa ứng xử. Cuộc du hành kéo dài nửa vòng trái đất kiếm tìm những ý
nghĩa tinh thần và tư tưởng rộng lớn.
1.1 “Phƣơng Đông lƣớt ngoài cửa sổ” – Hành trình đến phƣơng Đông bằng xe
lửa
Tiền thân của hành trình là hoạt động di chuyển đi lại. Du hành là nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống con người. Vì những chuyến đi, con người chuyên
tâm nghiên cứu và sáng chế ra các phương tiện đi lại giúp họ thực hiện ước mơ
muôn thuở, đến mọi nơi dù khoảng cách xa ngàn dặm. Từ xe ngựa, xe máy, ô tô…
con người rong ruổi trên những chặng đường mới, khao khát dấn thân vào cuộc
sống rộng lớn. Chọn xe lửa làm phương tiện khởi hành chuyến đi đến phương
9


Đông, cùng với niềm đam mê toa tàu, yêu thích khám phá vùng đất mới, nhân vật
trải nghiệm từng bước đến châu Á quan sát và tái hiện cuộc sống nơi xứ lạ.

1.1.1 Xe lửa – phiên chợ Phƣơng Đông hấp dẫn
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ là hành trình hơn bốn tháng đến châu Á của
nhân vật – một người phương Tây xa lạ dấn dân vào cuộc sống rộng lớn. Phương
Đông và phương Tây là những khái niệm do con người tạo ra để khẳng định và định
dạng “cái khác” hay “kẻ khác”. Phương Đông không chỉ gần gũi về mặt địa lí với
Phương Tây mà còn được coi là vùng đất với những thuộc địa rộng lớn, giàu có và
lâu đời nhất đồng thời là kẻ ganh đua về văn hóa, là một hình ảnh về “kẻ khác”.
Trên hành trình đến phương Đông, người lữ khách lựa chọn phương tiện xe lửa là
cầu nối đến nửa kia địa cầu. Bắt đầu bằng tình yêu với tàu hỏa từ thuở ấu thơ, ước
mong khởi hành trên những toa tàu trở thành động lực thôi thúc nhân vật lên đường.
Xe lửa là phương tiện di chuyển mang lại cảm giác thoải mái cho người đi đồng
thời trở thành yếu tố nhận diện văn hóa. Không chỉ là cách đi, tàu hỏa trở thành
người bạn đồng hành với nhân vật trải nghiệm trên hành trình đến châu Á. Không
tìm kiếm phương Đông qua những gì đọc được trên trang sách, nhân vật tự lên
đường tìm kiếm hình ảnh của riêng mình, khắc họa một châu Á rõ nét, sinh động
“tôi tìm kiếm những chuyến tàu, tôi gặp những hành khách” [20,tr.10]. Không vội
vã như chuyến bay, không xô bồ như chuyến xe tốc hành, không gồ ghề như cỗ xe
ngựa, không mệt mỏi với chuyến đi bộ dài, xe lửa di chuyển trên đường ray với tốc
độ ổn định giúp người đi thư thái trên những toa tàu, quan sát cảnh vật, cuộc sống
bên ngoài cửa sổ. Mỗi chuyến tàu gồm nhiều toa khác nhau với đủ hạng người, có
chút nhốn nháo ở toa ăn, yên tĩnh ở toa ngủ, hành khách có thể tìm thấy những
không gian khác nhau trên mỗi chặng đường “tuyến xe lửa là một phiên chợ hấp
dẫn khó cưỡng, lượn đi ngoằn ngoèo trên muôn nẻo đường, tốc độ khiến ta phấn
chấn hơn và chẳng bao giờ gặp rắc rối gì” [1,tr.9]. Phương tiện giao thông là yếu tố
quan trọng hàng đầu trong chuyến du hành. Hình thức đi lại trở thành cầu nối giúp
con người khám phá cuộc sống bên ngoài lãnh thổ, thay đổi định kiến về những
quốc gia ít người biết đến. Đứng trước nhiều lựa chọn, nhân vật chọn xe lửa là
phương tiện đồng hành trên chuyến đi kéo dài nửa vòng trái đất. Với hình thức sáng

10



tác đặc thù, Paul Theroux theo đuổi những chuyến tàu vẽ nên bức tranh rộng lớn về
vùng đất phía Đông.
Không đơn giản là một phương tiện đi lại, tàu hỏa thể hiện màu sắc văn hóa
địa phương. Chưa kiếm tìm châu Á đâu xa, ga tàu ẩn giấu đặc điểm nhận dạng riêng
về văn hóa, mỗi trạm dừng chân đều mang dáng vẻ khác nhau, độc đáo trong thiết
kế và xây dựng. Mỗi dân tộc do những đặc thù tự nhiên xã hội, đặc biệt là trải qua
quá trình ứng xử giữa con người và thiên nhiên để thích nghi với môi trường sống
đã hun đúc nên truyền thống văn hóa có cốt cách riêng, bền vững. Đặt chân đến ga
tàu, người đi đối diện với gương mặt của đất nước khi kiến trúc chịu ảnh hưởng của
chính trị, kinh tế và tín ngưỡng địa phương. Nhà ga Ấn Độ thể hiện chân thực
khuôn mặt xã hội với sự phân biệt nghiêm ngặt về con người bằng cách gọi tên các
phòng “LỐI RA HẠNG BA, PHÒNG CHỜ HẠNG HAI CHO PHỤ NỮ, TOA LÉT
HẠNG NHẤT, DÀNH CHO NHÂN VIÊN QUÉT DỌN” [19,tr.149]. Ga Iran mang
dấu ấn kinh tế phát triển rõ nét “mặt tiền giống như một siêu thị” [3,tr.92], “có tiếng
rin rít của đường ray mới” [4,tr.92] và ga Kuala Lumpur chịu ảnh hưởng sâu sắc của
tôn giáo “cổng vòm hình củ hành, các tháp giáo đường và cảnh tượng chung giống
như sảnh đường Brighton” [23,tr.347]. Trên hành trình đến phương Đông, tàu lửa
trở thành tín hiệu nhận diện đặc điểm bản sắc địa phương trên vùng lãnh thổ rộng
lớn. Kiến trúc ga tàu phụ thuộc nước cờ chính trị và bài toán kinh tế của từng quốc
gia, mang dáng dấp lịch sử dân tộc và trở thành một trong những yếu tố cấu thành
văn hoá. Với sự quan sát tỉ mỉ chi tiết về ga tàu, nhân vật khắc họa bức tranh tinh
thần phương Đông dựa trên mẫu số chung về văn hóa. Du kí tái hiện rõ nét biểu
hiện văn hóa dưới hình thức văn chương, không đơn thuần một phương tiện, tàu lửa
trở thành công cụ, điểm tựa của tác phẩm đồng thời là yếu tố then chốt chi phối nội
dung du kí.
Nếu nhà ga mô phỏng gương mặt đất nước thì mỗi toa tàu với những hình ảnh
trang trí lại đặc tả cuộc sống bản địa. Sự phân bố các toa và những vật dụng đặc biệt
làm nên nét nhận diện riêng biệt của mỗi đất nước. Không còn là cỗ máy di chuyển

xình xịch trên đường ray, mỗi chuyến tàu khơi dậy đặc tính và bản sắc địa phương.
Những chuyến tàu với cách trang trí khác nhau, ba mươi “phiên chợ” xuôi ngược

11


trên chặng đường đến châu Á với đồ dùng đặc trưng không thể thiếu. Mỗi đất nước
gắn với tín ngưỡng riêng biệt, cách bài trí trên chuyến tàu mang ý nghĩa khác nhau
“phiên chợ trên tàu, với những thứ linh tinh và những hành khách, phản ánh đầy đủ
xã hội đến mức khi lên tàu người ta sẽ đối diện với tính cách quốc gia của nước đó”
[19,tr.317]. Toa tàu tái hiện rõ nét gương mặt, tính cách của mỗi đất nước trên
chặng đường đến phương Đông “tàu của Thái thì có vại nước tắm hình rộng tráng
men bên ngoài, tàu Ceylon thì có toa dành riêng cho các nhà sư, tàu Ấn Độ có một
nhà bếp ăn chay và sáu hạng khác nhau, tàu Iran có chiếu cho người ta quỳ cầu
nguyện, tàu Malaysia thì có quầy bán mì, tàu Việt Nam có kính chống đạn trên toa
đầu máy” [12,tr.317]. Ấn Độ mang dáng vóc quốc gia phức tạp bởi sự đa tôn giáo,
sắc tộc, tàu lửa có nét riêng trong cách phân bố các toa. Thái Lan mang bộ mặt
phong kiến xưa cũ, chi phối đến cách bài trí những vật dụng trên tàu. Việt Nam bất
khuất trong cuộc kháng chiến chống Mĩ hứng chịu những cuộc tấn công ác liệt của
kẻ thù. Mỗi toa tàu không đơn thuần là những khối vuông được lắp ghép với nhau
tạo thành phương tiện di chuyển mà phảng phất hương vị văn hóa của mỗi quốc gia.
Không gian trên tàu thay đổi qua từng đất nước, chuyến hành trình đến phương
Đông đầy ắp sắc màu văn hóa nhờ những “phiên chợ” thu nhỏ. Tàu lửa thể hiện rõ
nét cuộc sống bản địa với vật dụng quen thuộc làm nên phong vị phương Đông
trong chuyến đi.
Văn chương hướng đến giải phóng con người, du kí mở ra cánh cửa giao lưu
với thế giới rộng lớn bên ngoài. Không còn chịu bó hẹp trong một không gian sống
cố định, con người thoát khỏi thực tại nhờ những cuộc phiêu lưu trên trang sách du
kí. Lên đường trong một thời kì đầy biến động và khó khăn, Paul Theroux chọn văn
hóa là điểm tiếp xúc đầu tiên trong chuyến hành trình đến phương Đông. Không chỉ

là phương tiện, xe lửa chi phối lộ trình đồng thời quyết định phương thức tiếp cận
cuộc sống. Đoàn tàu là một phiên chợ phương Đông đặc trưng với những chi tiết
nhận diện riêng biệt. Đặc điểm và bản sắc kiến trúc ga tàu thể hiện ở giải pháp tổ
chức không gian theo tinh thần dân tộc, phù hợp với đặc thù khí hậu, cách ứng xử
với thiên nhiên, con người trong văn hóa đời thường và sinh hoạt tâm linh người
bản địa. Tiếp cận phương Đông trên dấu ấn những chuyến tàu, từng chi tiết trang trí

12


và lối xây dựng tái hiện chân thực gương mặt dân tộc. Phương Đông lướt ngoài cửa
sổ khéo léo gợi lên bức tranh văn hóa châu Á sống động. Trải nghiệm những
chuyến tàu, đối thoại với nền văn hóa phương Đông trên “phiên chợ” di động,
người đọc nhận diện bản sắc dân tộc trong tín ngưỡng, chính trị địa phương.
1.1.2 Cuộc sống thu nhỏ bên trong toa tàu phƣơng Đông
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ là câu chuyện phiêu lưu trên những chuyến
tàu châu Á, mỗi chặng đường một cảm xúc, gợi mở sự tò mò của độc giả về một
khu vực rộng lớn được biểu hiện bằng hình thức văn chương. Theo lộ trình đến
phương Đông, tàu hỏa đưa nhân vật di chuyển trên vùng lãnh thổ rộng lớn, không
gian chủ đạo chiếm nhiều thời gian nhất trên chuyến đi chính là toa tàu. Mỗi toa tàu
là một mô hình cuộc sống thu nhỏ, nơi gặp gỡ, trò chuyện, thể hiện lối ứng xử đặc
trưng của từng vùng miền khác nhau. Con người trên chuyến tàu không hẳn là
những hành khách đơn thuần mà còn thể hiện lối sống riêng của dân tộc mình, họ
không chỉ mang sắc thái cá nhân mà thể hiện dấu ấn văn hóa bản địa rõ nét. Mỗi toa
tàu là một mảnh ghép tiêu biểu trong bức tranh toàn cảnh văn hóa châu Á với những
thói quen và hành động của hành khách.
Trên mỗi toa tàu, lối sống của dân tộc được thể hiện bởi hoạt động đặc trưng
của cư dân bản địa. Mỗi đất nước gắn liền với nhịp sống riêng được tái hiện rõ nét
trong Phương Đông lướt ngoài cửa sổ. Trên chuyến tàu xẻ ngang đất nước Ấn Độ,
Grand Trunk là thước phim sống động về cuộc sống con người Nam Á. Con tàu lê

lết dưới sức nặng của các loại hành lí nặng nề, tựa như một cuộc sơ tán gấp gáp
trước nỗi sợ vô hình nào đó, hành khách mang vác tất cả hành lí và tài sản của gia
đình leo lên chuyến tàu “như thể họ đang dựng nhà – họ mang cả dáng vẻ lẫn hàng
hóa của những người dọn về nhà mới” [14,tr.198]. Đoàn tàu lăn bánh, “đám đàn
ông cởi bỏ những chiếc quần rộng thùng thình và những chiếc áo khoác vải chéo, họ
mặc vào trang phục truyền thống miền Nam Ấn Độ: áo lót không tay và chiếc xà
rông mà họ gọi là lugi” [2,tr.199]. Bước qua cánh cửa xe lửa, họ rời xa những bộ
trang phục hiện đại họ trở về với chính diện mạo của mình, khoác lên mình dáng vẻ
địa phương, nét văn hóa đặc trưng của dân tộc. Chuyến xe lửa dường như dành
riêng cho người dân tộc Tamil, toa nằm là nhà của họ, toa ăn là nhà bếp của gia
13


đình, mặc sức thoải mái tận hưởng cảm giác quen thuộc. Trong khi đó, cuộc sống
trong tàu Nhật Bản mang dáng vẻ hoàn toàn khác biệt “những nhân vật im lặng trên
con tàu sáng choang, những người di chuyển tựa như điều khiển các bóng bán dẫn
này” [18,tr.418]. Trên chuyến tàu hiện đại, phủ lên không gian bị bao bọc bởi ánh
điện là sự im lặng đến khó thở, những ánh mắt mơ hồ nhìn nhau, họ không nói trên
cả chuyến đi. Hành khách trên chuyến tàu là người đàn ông, đàn bà công sở với
những lần cúi đầu chào hỏi lịch sự, con người đắm chìm trong thế giới của riêng
mình. Mỗi cộng đồng gắn với những hoạt động mang tính biểu trưng cho dân tộc,
đoàn tàu tốc hành dễ chịu từ Paris đã biến thành tàu địa phương Thổ Nhĩ Kì rất khó
chịu và bực mình. Trên chuyến tàu “chỉ người Thổ ở trong các toa hạng cao cấp.
Khác hẳn với quan điểm của những người hay đi du lịch vẫn cho rằng người địa
phương không xài hạng sang. Như sợ bị lây nhiễm từ các khu vực khác trên tàu, nên
những người Thổ ít khi ra khỏi toa ghế nằm của mình và cũng chẳng ra khỏi
khoang” [11,tr.78]. Người dân bản địa ngồi yên vị trong toa nằm suốt cả chặng
đường, họ không ra khỏi cánh cửa đã được khóa kín tựa như đang tránh né một cơn
đại dịch khủng khiếp có thể lây lan hay một đám cướp dã man hung hãn. Chính vì
sự ngoan cố không rời khỏi toa nằm khiến những căn phòng trở nên chật chội và

“mang bầu không khí ô nhiễm chẳng khác gì những toa hạng ba mà mấy vị khách
du lịch cố tránh xa” [23,tr.78]. Khung cảnh nhốn nháo trong không gian chật chội,
con người vật vã trên chuyến đi, có kẻ chán ghét tiếng ồn, có người mệt mỏi vì mùi
khói dầu, có đám người bị soi mói với ánh mắt kì thị. Thói quen cá nhân định hình
lối sống dân tộc, từng cử chỉ, hành động của hành khách trên chuyến tàu mang dáng
vẻ văn hóa bản địa. Hành động nảy sinh và lặp lại qua thời gian dài, con người theo
thói quen tạo nên hình ảnh đặc trưng của mỗi quốc gia. Lối sống con người bản địa
chính là sự hoá thân của các đặc điểm truyền thống dân tộc mang nét riêng bản sắc
văn hoá. Mỗi đất nước khu vực đều nảy sinh lối sống khác nhau, nếu Iran giàu màu
sắc tâm linh thì Ấn Độ nhốn nháo trong cảnh đông dân, Nhật Bản lạnh lùng với lối
sống hiện đại. Phương Đông lướt ngoài cửa sổ khơi dậy rung cảm thẩm mĩ từ
những thông tin văn hóa, phác họa chân dung mỗi đất nước châu Á trong thời kì
khốn khó.

14


Cuộc sống thu nhỏ trong mỗi chuyến tàu phản ánh chân thực vấn đề chính trị
xã hội của đất nước bản địa. Lịch sử hình thành và phát triển dân tộc cũng là mốc
thời gian xuất hiện và lưu giữ lối sống con người. Nó được vun đắp được thông qua
hoạt động lao động sản xuất, chiến đấu, học tập, giao tiếp xã hội và giao lưu văn
hoá với các dân tộc khác. Mối đất nước với đặc điểm riêng về kinh tế xã hội nảy
sinh nhịp sống đặc trưng. Cuộc sống rộng lớn bên ngoài được tái hiện rõ nét bằng
hình ảnh, âm thanh trong mỗi chuyến xe. Vùng cao biên giới Miến Điện thường
xuyên chịu cuộc phục kích của thổ phỉ và lính nổi dậy, trong toa tàu Lashio “những
khẩu súng trường Enfields kiểu cũ vứt bừa bãi trên các dãy ghế gỗ, mảnh che tai
bằng len trên mũ họ bay lật phật; họ nằm trườn ra, ăn chuối, bổ cau ra sàn nhà đỏ
choét; và họ hi vọng sẽ bắn được một kẻ phiến loạn hoặc một tên trộm” [6,tr.303].
Những người lính ăn vận quân phục nhưng chẳng có chi tiết nào giống nhau, tựa
như kẻ trộm mới cướp được ở đâu đó. Không canh gác cũng chẳng lui tới hành

lang, đám người này lôi thôi nằm nhếch nhác, có kẻ ăn, đọc sách hay đánh nhau vui
vẻ cứ như thưởng ngoạn chuyến đi. Gương mặt bất an và bất lực của hành khách
trên chuyến tàu tỉnh lẻ phản chiếu một hiện thực chẳng mấy sáng sủa ở quốc gia
nhỏ bé xứ Đông Dương. Mỗi chuyến tàu, mỗi toa với những hành khách tái hiện
cuộc sống thu nhỏ ở miền đất xa lạ. Chuyến tàu khách Sài Gòn – Biên Hòa “phần
lớn hành khách đều đứng. Họ mỉm cười, ôm những con vịt con gà cực kì sợ sệt và
cả những đứa con lai Mỹ cháy nắng thảm hại của họ” [4,tr.372]. Toa tàu ọp ẹp với
những dãy ghế xanh hẹp chạy dài khiến hành khách đứng trên một chặng đường
xuyên tỉnh. Những người dân chất phác, mang theo tài sản to lớn là đám gia cầm
trên tay đứng yên lặng trên chuyến hành trình dài. Hứng chịu những cuộc chiến
triền miên, con người bản địa mang vết thương khó ngày lành lặn, cánh tay đã mất,
đôi chân đã lìa, họ là hình ảnh đau đớn mà nơi này phải đối mặt sau cuộc chiến.
Thay vì trốn chạy, người Việt Nam đối mặt với chiến tranh. Vẫn nhịp sống bình
thường, đi trên những chuyến tàu đầy hiểm nguy, họ hiên ngang trước sự tàn ác của
quân giặc “dường như là không thể tin nổi, nhưng ở đây có những em học sinh gái
đeo cặp sách, phụ nữ mang những bọc rau bự, đàn ông xách gia cầm bị trói và
những người khác nữa, đứng ở cửa của một thứ về cơ bản là toa vận tải, đi tới làm

15


việc ở Biên Hòa. Sau rất nhiều năm, người ta tưởng như họ sẽ gục ngã; đáng ngạc
nhiên là họ còn hơn cả những người sống sót” [12,tr.377]. Người dân bản địa dường
như chẳng khiếp sợ trước sự đàn áp của kẻ thù mà còn lấy đó làm động lực để đứng
lên, họ sống với quyết chí đánh đuổi bọn xâm lược. Được hình thành do điều kiện
địa lý, kinh tế, chính trị, tâm lý và văn hoá, lối sống bên trong mỗi toa tàu là hình
ảnh thu nhỏ của một dân tộc. Đọng lại trên trang sách là hình ảnh về những đất
nước phương Đông xa lạ với cuộc sống chịu ảnh hưởng hiện thực đương thời. Văn
học mở ra nhiều cánh cửa tiếp cận cuộc sống, du kí tái hiện bức tranh phương Đông
dưới hình thức lí giải những tín hiệu văn hóa. Khai thác hình ảnh biểu trưng xe lửa,

Paul Theroux nhận ra mỗi chuyến tàu là một bức tranh nhịp sống châu Á.
Nếu tiểu thuyết khai thác hành động mang tính cá biệt của con người nhằm
miêu tả thế giới nội tâm đầy phức tạp thì du kí hướng đến những hành động đặc
trưng để nhận diện gương mặt của một cộng đồng. Sự tương đồng về điều kiện tự
nhiên, không gian địa lí và khí hậu khu vực châu Á tạo nên sự gần gũi, thống nhất
về văn hóa. Nhưng mỗi quốc gia, dân tộc chịu sự ảnh hưởng của tôn giáo và chính
trị đã kiến tạo nên bản sắc riêng. Mỗi toa tàu với hành khách tạo nên vô vàn hình
ảnh cuộc sống. Có vui, có buồn, có bình yên có hờn giận, hành khách thể hiện thói
quen, suy nghĩ. Mỗi chuyến tàu đưa người đọc đến với một dân tộc, một hạng người
với những kiểu sống khác nhau. Từng dòng người nối đuôi nhau leo lên chuyến tàu
với lối sống đặc trưng của đất đước. Mang phong vị văn hóa bản địa, hành khách
trên chuyến đi khắc họa tâm hồn quốc gia: Singapore với sự hòa hợp dân tộc thể
hiện trong lối sống phóng khoáng, cuộc sống trên toa tàu Malaysia bị bủa vây bởi
sự kì thị sắc tộc, Afghanistan chịu áp lực nặng nề từ chiến tranh với những cuộc
trốn chạy trên xe, Pakistan đầy bất ổn với những cuộc cãi vã, bạo lực của người địa
phương, Miến Điện quay quắt giữa tư tưởng hiện đại và lối sống truyền thống…
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ tựa như một đĩa phim cũ quay lại những khoảnh
khắc, những chuyến đi và cuộc sống một thời đã qua. Mỗi phiên chợ di động trên
đường ray gợi tả một dân tộc, đất nước phương Đông. Viết về chuyến đi có thực
trong quá khứ, mỗi dòng chữ trở thành chìa khóa mở cánh cửa thời gian quay trở lại
miền kí ức xa xăm về phương Đông.

16


1.2 Phƣơng Đông – Bức tranh cuộc sống hai bên đƣờng ray xe lửa
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ ghi lại chân thực những cảnh đẹp bình dị của
cuộc sống. Sự hấp dẫn của khung cảnh thiên nhiên níu bước chân lữ khách, len lõi
vào trang du kí hết sức tự nhiên. Mỗi cánh rừng, một đồng cỏ, dòng sông, thung
lũng đều hấp dẫn bởi những vẻ đẹp riêng. Phiêu lưu cùng các trang sách du kí, độc

giả như được thưởng ngoạn muôn vàn cảnh trí, mở rộng tầm mắt của mình. Paul
Theroux đặc biệt chú ý đến cuộc sống nơi mình đến, những hình ảnh quen thuộc
của cuộc sống bản địa. Cảnh sắc khác biệt của mỗi vùng đất dần hiện lên theo
những bánh tàu chuyến xe lửa phương Đông.
1.2.1 Cảnh sắc thiên nhiên đa dạng của châu Á
Du kí tái hiện bức tranh thiên nhiên trên lộ trình, chuyến đi dài gắn với trải
nghiệm không gian rộng lớn. Những hình ảnh sống động, cảnh quan chân thực biểu
hiện bằng hình ảnh miêu tả qua lăng kính cảm xúc là nội dung thẩm mĩ độc đáo của
thể loại. Không chỉ chú ý đến những phong cảnh đẹp nổi tiếng được quảng cáo hấp
hẫn trên cuốn sách du lịch như một hành khách thông thường, Paul Theroux tìm
kiếm vẻ đẹp giản dị, bình yên trong bức tranh thiên nhiên trên chuyến hành trình.
Cảnh quan châu Á phong phú và đa dạng, sự phân hóa cảnh quan, khí hậu vô cùng
phong phú: từ băng giá vĩnh cửu, rừng lá kim đến hoang mạc nóng bỏng, rừng
rậm nhiệt đới xanh um gắn với các khu vực địa lý tự nhiên có đặc điểm hoàn toàn
khác nhau như Bắc Á, Trung Á, Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á... Chuyến hành
trình đến phương Đông là sự gợi tưởng khéo léo về một thế giới tự nhiên với đong
đầy sắc màu, âm thanh và mùi hương.
Khi rào cản về không gian bị phá vỡ bởi phương tiện di chuyển, giao tiếp được
mở rộng nhờ những chuyến đi, con người có ý thức phóng chiếu tầm nhìn vượt ra
ngoài biên giới đất nước đến những chân trời rộng lớn. Cảnh quan trở thành đối
tượng nhận diện sự khác biệt giữa mỗi vùng miền, khu vực. Du kí gợi tả thiên nhiên
với tâm thế của kẻ lên đường đầy háo hức. Trên chặng đường đầu tiên, bao phủ
không gian châu Á là khung cảnh cao nguyên bao la vùng Tây Á và Trung Đông.
Vùng đất chịu ảnh hưởng của khí hậu nắng nóng và vị trí địa lí kiến tạo nên vùng

17


cao nguyên rộng lớn. Trải dài không gian là những ngọn đồi khô cằn, thiếu sức sống
“một dải dài những ngọn đồi trọc trải tới chân trời; trước mặt chúng tôi là một đồng

bằng cằn cỗi, bị che phủ bởi bụi màu hung đỏ” [18,tr.82]. Do ảnh hưởng yếu tố khí
hậu nên địa hình nơi đây phần lớn là những dãy núi đá lởm chởm chia tách các khu
vực và cao nguyên và thung lũng cằn cỗi. Những ngọn đồi không sức sống nối tiếp
cánh đồng hiu quạnh, không có màu xanh của cây cối đất đai bị phủ lớp đất bụi đỏ.
Cảnh quan không có sự khác biệt giữa những đất nước lân cận “địa hình các vùng
tương đối giống nhau, càng đi càng thấy rộng lớn hơn, khô cằn hơn và trống trải
hơn” [24,tr.86]. Cao nguyên khô hạn bao phủ một vùng lãnh thổ rộng lớn được
miêu tả rõ nét dưới sự quan sát tỉ mỉ của người đi đường. Vùng đất phía Trung, Tây
Á mang nét đặc trưng trong cảnh quan, khắp khu vực là những đồng bằng thiếu sức
sống. Cảnh vật quen thuộc của người bản địa trở thành không gian mới lạ đầy thú vị
với người lữ khách, nhân vật bị mê hoặc bởi vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc của quang
cảnh phương Đông. Lên đường và ghi lại, Paul Theroux tái hiện cảnh quan phương
Đông sinh động, giàu màu sắc.
Du kí lôi cuốn người đọc bằng bức tranh thiên nhiên giản dị của những vùng
miền xa lạ. Mỗi khu vực mang một diện mạo đặc trưng, Đông Nam Á xuất hiện
trong du kí Phương Đông lướt ngoài cửa sổ với những khu rừng nhiệt đới rậm rạp
và hùng vĩ. Vùng đất phía Đông với những cơn mưa quanh năm tạo nên cảnh quan
đặc trưng của xứ nóng. Đông Nam Á được thiên nhiên ban tặng những dãy núi chót
vót và thác nước khổng lồ “làn mây hình thuyền bay nhanh từ sườn đồi này sang
sườn núi khác, những dải hơi nước dài ngắn khác nhau hầu như không chuyển
động” [22,tr.309]. Không gian núi rừng hùng vĩ với tiếng vọng oai hùng từ những
ngọn thác, vùng cao xứ Đông Dương tựa một khu rừng huyền bí ít ai đặt chân đến.
Vùng lãnh thổ rộng lớn được thượng đế ưu ái với bức tranh “mặt trời chiếu sáng
trên một hố bom trong rừng và cạnh đó khói tỏa khắp lòng thung lũng, cột mưa của
một đám mây phù du đang đổ nghiêng xuống một sườn núi khác; và màu xanh da
trời phai nhạt đi trước màu lá xanh sẫm, màu xanh lá mạ trên những cánh đồng lúa
non bằng phẳng, và qua một dải cát, màu xanh đó thành màu xanh thẳm của đại
dương” [21,tr.391]. Thung lũng mang dáng vẻ bí ẩn được bao bọc bởi những làn

18



khói tỏa tựa như xứ xở thần thiên bí mật lạc giữa trần thế. Không gian được bao phủ
trọn vẹn trong sắc xanh, xanh da trời, xanh lá, xanh lá mạ và xanh thẳm. Vùng đất
nhiệt đới tươi đẹp ôm trọn những sắc màu của thiên nhiên, từ màu của nắng, của
mây, của khói hòa trong âm thanh của biển Đông. Điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều và
gió mùa là hằng số tự nhiên kiến tạo hệ cảnh quan tiêu biểu của Đông Nam Á. Du
kí khơi dậy cảm giác nếm trải không gian, khi mỗi câu chữ miêu tả cảnh quan đều
gợi mở hình ảnh về vùng đất chưa có dịp đặt chân đến.
Cảm hứng về thiên nhiên là dòng chảy xuyên suốt trong dòng chảy văn học.
Mỗi thể loại lại có cách tiếp cận riêng, nếu thơ chọn thiên nhiên để gửi gắm tâm tư
tình cảm của người viết thì du kí lại miêu tả chân thực như một đối tượng phản ánh
khách quan. Phương Đông lướt ngoài cửa sổ là sự mở rộng khám phá nét đa dạng
và sinh động của cảnh quan. Phía Bắc châu Á mang dáng vẻ khác biệt, không còn
những cao nguyên cằn cỗi, cánh rừng nhiệt đới xanh um mà được thay thế bằng
khung cảnh băng giá. Bắc Á có khí hậu hàn đới, những ngọn núi phủ đầy tuyết
trắng và dòng sông băng trải dài trở thành cảnh quan đặc trưng của khu vực. Qua
chặng đường dài, cơn nóng hầm hập tan biến thế chỗ cho cái lạnh tê tái “tuyết bắt
đầu thổi qua cửa sổ, những bông tuyết bé xíu đậu trên những vệt khói dài”
[20,tr.492]. Du kí mang dư âm của cơn gió lạnh tê buốt của tuyết trắng vùng biên
giới. Cảnh sắc thiên nhiên lạnh giá hòa quyện trong buổi bình minh “một vầng sáng
nhỏ hình bán nguyệt giống như hình lớp thịt hồng hào bên dưới móng tay xóa tan vẻ
ảm đạm nơi chân trời. Một tiếng sau, vầng sáng ấy bắt đầu đỏ ửng, hào quang mùa
đông hiện lên trên mặt băng bằng phẳng của vùng Primorsk” [9,tr.417]. Bao phủ
không gian rộng lớn là những đồng bằng băng giá khổng lồ trắng xóa một vùng trời.
Những tia hồng buổi sớm mai dần dần được thay bằng sắc đỏ chói chang của mặt
trời lan tỏa trên cánh đồng băng rộng lớn xóa tan cảm giác lạnh lẽo, buốt giá của
vùng quê ven biển. Cảnh quan trên chặng đường đến phương Đông được tô điểm
với sắc màu mới, cái lạnh tê buốt trong không gian phủ đầy tuyết vẽ nên bức tranh
tươi đẹp về châu Á. Du kí hé mở cánh cửa giúp con người hòa vào tự nhiên mà

không cần di chuyển, hòa quyện trong cảnh quan phương Đông là sự liên tưởng,
tưởng tượng của người đọc về một bức tranh thiên nhiên xa lạ.

19


Phương Đông lướt ngoài cửa sổ đưa người đọc du ngoạn trong không gian
bao la với sự gợi tả cảnh quan đa dạng, từ cao nguyên khô cằn đến những cánh rừng
nhiệt đới xanh um, vùng đất chìm ngập trong băng tuyết. Với lối viết chân thực,
giản dị tác giả tái hiện sinh động cảnh quan của thế giới rộng lớn bên ngoài. Tác
phẩm tựa một chuỗi bức tranh thiên nhiên nối tiếp nhau trên chặng đường xuyên Á,
khi mỗi đất nước, khu vựa lại mang dấu ấn đặc trưng riêng: Thổ Nhĩ Kì khô cằn,
biên giới Afghanistan tươi tốt với những ngọn đồi cao chót vót, Việt Nam lưu dấu
với cánh rừng nhiệt đới rậm rạp, Nga bị bao phủ bởi lớp tuyết dày mùa đông…
Cảnh vật trên từng chặng hành trình thay đổi theo vị trí địa lí, mỗi mảnh đất là một
sắc màu khác nhau, phong phú và đa dạng. Những cao nguyên cằn cỗi trơ trụi, đồng
bằng bạc màu kiệt quệ, cánh rừng đẫm sương, dòng sông vắt mình qua mảnh đất
rộng lớn, cảnh vật tự phơi mình trước sự quan sát kĩ lưỡng của nhân vật trải
nghiệm.
Du kí ghi lại chuyến đi của nhân vật trải nghiệm dưới hình thức nhật kí hành
trình nhằm tái hiện cuộc sống đồng thời bày tỏ cảm xúc về những sự kiện xảy ra.
Lấy thiên nhiên làm điểm tựa, người lên đường miêu tả bức tranh phong cảnh nơi
xứ lạ. Phương Đông lướt ngoài cửa sổ khắc họa cảnh quan đa dạng với bút pháp
miêu tả điêu luyện. Đào sâu chất liệu thiên nhiên, mỗi trang du kí thấm đẫm tinh
thần phương Đông. Phương Đông lướt ngoài cửa sổ như một bộ phim tài liệu được
dàn dựng công phú mang lại lượng thông tin phong phú, nét khác biệt giữa những
vùng đất châu Á. Cuộc hành trình kéo dài nửa vòng trái đất là một khám phá bất
ngờ, thú vị về phong cảnh phương Đông. Cảnh quan trong du kí không mang nặng
tâm tư, tình cảm của người viết, không ưu sầu nỗi đau của thời đại mà hiển hiện như
chính nó. Thiên nhiên mang sắc thái khách quan, chân thực.

1.2.2 Cuộc sống qua ô cửa sổ tàu tốc hành phƣơng Đông
Du kí vừa mang lại những câu chuyện thú vị, độc đáo về miền đất xa xôi vừa
đem đến cho độc giả khả năng rời xa không gian, thoát khỏi cuộc sống hằng ngày
mà không cần phải di chuyển. Tác phẩm hướng đến khám phá, quan sát, phiêu lưu
và trải nghiệm cuộc sống mới lạ bên ngoài. Điều làm nên sức hấp dẫn của Phương
Đông lướt ngoài cửa sổ là những khoảnh khắc đẹp mà tác giả bắt được, hoặc giản

20


dị, đơn sơ hoặc lộng lẫy, quyến rũ nhưng đều tràn đầy cảm hứng về cuộc sống Châu
Á. Mỗi mảnh đất đi qua là một nét vẽ ngọt ngào, đầy đủ hương vị, âm thanh và màu
sắc lên bức tranh mà nhân vật đang ôm ấp, quyết chí phải vẽ ra - cuộc sống trên
hành trình hướng về phía Đông địa cầu.
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ là bức tranh lao động của con người châu
Á. Cái đẹp của du kí trước hết nằm ở hiện thực được phản ánh. Tác phẩm thu hút
độc giả bởi hình ảnh đời sống chân thật, gần gũi. Ngắm nhìn cuộc sống bên ngoài
qua ô cửa kính, bức tranh hiện thực hai bên đường ray xuất hiện bình dị, giản đơn
với những phút giây làm việc hăng say của con người. Không khắc họa rõ nét, con
người xuất hiện mờ nhạt vút qua trong tầm mắt nhân vật, những khuôn mặt xa lạ từ
từ xuất hiện, cuộc sống đơn giản bình dị với hình ảnh chân thực về nhịp sống lao
động của con người. Bên ngoài ô cửa tàu tốc hành đến phương Đông là hình bóng
con người chăm chỉ làm lụng trên những cánh đồng rộng lớn. Con người xuất hiện
mờ nhạt với cách định danh chung “những người đàn bà, đa phần nhiều tuổi, họ
choàng khăn chống nắng và buộc vào người những can nước tưới màu xanh”
[12,tr.47]. Con người chăm chỉ làm lụng trên cánh đồng bất chấp thời tiết nóng nực,
trên thửa đất của gia đình, người đàn bà tưới nước, người đàn ông cấy cày. Bức
tranh cuộc sống yên bình được tái hiện rõ nét “khoảng năm con bò đứng bất động,
một người chăn gia súc chống gậy trông lũ bò, chúng cũng còm cõi như những hình
nhân bù nhìn – hai túi ni lông bọc ngoài hai thanh ngang làm khung xương”

[16,tr.47]. Sự xuất hiện của vật nuôi tưởng chừng đỡ bớt hiu quạnh cho mảnh đất
cằn cỗi nhưng cũng chỉ là những con vật gầy guộc không có sức sống. Hai bên
đường ray là thửa đất rộng lớn với đám hoa màu thiếu sức sống phụ lòng con người
hăng say làm lụng. Mỗi người đều có một việc, người lớn trông bò, trẻ em trông gà,
những người phụ nữ tưới những luống hồ tiêu dài tít tắp. Nhịp sống đời thường
chốn vùng quê hiện lên thoáng chốc với con người nhỏ bé. Bên ô cửa sổ tàu hỏa
“một người đàn ông, không đầu, chúi người trong cánh đồng ngô, bị những thân cây
ngô cao hơn anh ta che phủ... họ có vẻ lọt thỏm giữa những cánh đồng này”
[6,tr.49]. Con người thoát ẩn thoát hiện trong thiên nhiên, chỉ xuất hiện lướt qua
trong tầm mắt như từng chấm nhỏ trên cánh đồng rộng lớn. Bóng dáng con người

21


×