Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Thơ nguyễn bình phƣơng từ góc nhìn của lý thuyết hậu hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THỊ DIỄM MY

THƠ NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG
TỪ GÓC NHÌN CỦA LÝ THUYẾT HẬU HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
THEO ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

HUẾ, NĂM 2018


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THỊ DIỄM MY

THƠ NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG
TỪ GÓC NHÌN CỦA LÝ THUYẾT HẬU HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành : VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số

:

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. HOÀNG THỊ HUẾ


HUẾ, NĂM 2018

2


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là Nguyễn Thị Diễm My, học viên cao học K25 – Văn
học, chuyên ngành Văn học Việt Nam, khóa 2016 – 2018. Tôi xin cam
đoan luận văn thạc sĩ “Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lý
thuyết hậu hiện đại” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao
chép dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn với
luận văn cao học của mình.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Diễm My

3


Lời Cảm Ơn
Được sự phân công của khoa Ngữ Văn – trường Đại học sư phạm Huế và
giảng viên hướng dẫn PGS.TS Hoàng thị Huế. Tôi đã thực hiện và hoàn thành luận
văn cao học với đề tài “ Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lý thuyết hậu hiện
đại”.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến
PGS.TS. Hoàng thị Huế, người đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn. Đồng thời tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô giáo khoa
Ngữ văn, những người đã hổ trợ cho tôi nguồn kiến thức vô tận và hữu ích trong hai năm học
vừa qua. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám Hiệu, phòng Đào tạo Sau
Đại học, Đại học sư phạm Huế - Đại học Huế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người luôn giúp
đỡ, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.
Huế, tháng 9 năm 2018
Học viên
Nguyễn Thị Diễm My

MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 7
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................... 7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 12
3.1. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................... 12
3.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 12
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................... 12
4


5. Đóng góp của đề tài............................................................................................. 12
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................................ 13
B. NỘI DUNG ........................................................................................................ 14
CHƢƠNG 1. NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG TRONG MẠCH NGUỒN THƠ
VIỆT NAM SAU 1986 .......................................................................................... 14
1.1 Thơ Việt Nam sau 1986 những tiếp nhận ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại .... 14
1.1.1 Khái lược về chủ nghĩa hậu hiện đại .............................................................. 14
1.1.2 Sự tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại trong thơ Việt Nam sau 1986 .............. 16
1.2 Nguyễn Bình Phương và những nổ lực đổi mới thơ về phía hậu hiện đại ........ 20
1.2.1. Nguyễn Bình Phương – đường đời và đường thơ ......................................... 20
1.2.1.1 Nguyễn Bình Phương – đường đời gắn liền nghiệp văn chương................ 20
1.2.1.2 Nguyễn Bình Phương – và cuộc tìm kiếm những cái mới lạ ...................... 23

1.2.2. Nguyễn Bình Phương – những cách tân thơ theo hướng hậu hiện đại ......... 27
CHƢƠNG 2. CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG
THƠ NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG NHÌN TỪ LÝ THUYẾT HẬU HIỆN ĐẠI
................................................................................................................................. 35
2.1. Cảm quan về hiện thực trong thơ Nguyễn Bình Phương ................................. 35
2.1.1. Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, “hỗn độn”, “phi lý”................................. 36
2.1.2 . Hiện thực kỳ ảo – sự mở rộng không biên độ .............................................. 42
2.2. Cảm quan về con người trong thơ Nguyễn Bình Phương ................................ 48
2.2.1. Con người “xa thân” với nhiều trạng thái khác nhau .................................... 49
2.2.2. Con người cô đơn, lạc lõng, mất phương hướng .......................................... 55
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG THƠ NGUYỄN
BÌNH PHƢƠNG NHÌN TỪ LÝ THUYẾT HẬU HIỆN ĐẠI .......................... 65
3.1. Ngôn ngữ .......................................................................................................... 66
3.1.1. Ngôn ngữ lạ hóa ............................................................................................ 67
3.1.2. Ngôn ngữ trò chơi ......................................................................................... 71
3.2. Giọng điệu ........................................................................................................ 75
3.2.1. Giọng điệu giễu nhại .................................................................................... 75
3.2.2. Giọng điệu triết lý ......................................................................................... 79

5


3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật ................................................................. 83
3.3.1. Lồng ghép không gian hiện thực và không gian huyền ảo ........................... 83
3.3.2. Lồng ghép thời gian của tự nhiên và thời gian thân phận con người............ 89
C. KẾT LUẬN ....................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 99

6



A.MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam từ khi hình thành và phát triển, để có được những
thành tựu văn học cho đến ngày nay, không thể không nói đến những con người,
nhân tố chính tạo nên những áng văn chương bất hủ. Mỗi nhà văn, nhà thơ là mỗi
người mẹ ấp ủ từ những thai nghén ban đầu, từ những nhìn nhận trực quan qua lăng
kính chủ quan về xã hội, về cuộc sống, về con người để tạo nên những đứa con tinh
thần mà họ gửi gắm vào đó những nỗi lòng thầm kín. Khi xã hội càng phát triển kéo
theo công nghệ thông tin, kinh tế, kỹ thuật cũng phát triển mạnh như vũ bão, tất yếu
văn học cũng sẽ có những sự phân luồng thành nhiều hệ tư tưởng, trường phái chủ
nghĩa khác nhau phù hợp với từng giai đoạn của văn học.
1.2. Sau năm 1986, văn học Việt Nam hiện đại đã có những bước định hình
mới đặc biệt là thơ, đi sâu vào bản chất của ngôn từ hơn, sáng tạo theo nhiều chiều
hướng mới, những cái tên tên như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Hưng, Inrasara,
Dương Tường,… là những tên tuổi tạo nên những nét mới ấy. Thế nhưng vào
những năm đầu thế kỷ XXI, do sự ảnh hưởng của văn hóa hậu hiện đại trong thế
giới phẳng, thơ Việt Nam cũng có sự lắp ghép, cắt dán, hỗn độn, đồng hiện, giễu
nhại… tất cả tái hiện lên đúng một bức tranh của hậu hiện đại.
Có thể nói rằng sự xuất hiện của lí thuyết “hậu hiện đại” đã mang đến những
màu sắc mới mẻ, khác xa với lối tư duy cũ của chủ nghĩa hiện đại. Các nhà thơ
đương đại Việt Nam đã không ngừng khám phá những ngóc ngách của xã hội,
những mặt trái của những tâm hồn chưa hoàn thiện đều được khai thác một cách
triệt để. Khi mới xuất hiện, các nhà thơ nhà văn hay nhà phê bình văn học đều rất
khó khăn trong việc tiếp nhận nó, nhưng họ đã không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu
và tiếp thu một cách tự nhiên nhất, sáng tạo nhất làm nên một sự cách tân mới
trong tho ca Việt nam đương đại. Họ khám phá những mảnh vỡ của cuộc sống để
chuyển tải nó vào tác phẩm của mình. Đại diện cho những gương mặt tiêu biêu
biểu trong thơ ca hậu hiện đại không thể không nhắc đến : Hoàng Hưng, Inrasara,
Nguyễn Bình Phương,Vi Thùy Linh …


7


1.3. Nhà thơ Nguyễn Bình Phương là một trong số những gương mặt cách tân
tiêu biểu của thơ Việt Nam sau 1986. Ông là một tác giả có quan niệm, tư tưởng
sáng tạo hết sức mới mẻ, độc đáo. Điều này chi phối rất rõ đến thế giới nghệ thuật
thơ ông, với hệ thống hình tượng cũng như bút pháp, ngôn từ, thi ảnh… riêng biệt,
không trộn lẫn. Nhắc đến thế hệ thơ đổi mới sau 1986 không thể không nhắc đến
Nguyễn Bình Phương
Chúng tôi lựa chọn khảo sát: “ Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lý
thuyết hậu hiện đại” xuất phát từ những đặc trưng hậu hiện đại trong thơ ông với
những nét cách tân cho thơ ca Việt Nam đương đại. Nguyễn Bình Phương được
nhắc đến khá nhiều với những tác phẩm văn xuôi như tiểu thuyết, truyện ngắn.. và
đó có thể là một mảng nổi bật nhất của ông. Nhưng thơ ca cũng là một cánh cửa
khác để người ta hiểu thêm về Nguyễn Bình Phương, một tâm hồn giản dị giữa
cuộc sống xô bồ của hậu hiện đại. Tìm hiểu “Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc
nhìn của lí thuyết hậu hiện đại,” chúng tôi muốn khám phá sâu hơn tư duy nghệ
thuật thơ ông trong diễn biến mới mẻ của văn chương hậu hiện đại trong nước
cũng như nước ngoài.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Chủ nghĩa Hậu hiện đại là một khuynh hướng văn học đầy những mới lạ,
không bình thường trong một cuộc sống bình thường, là sự lồi lõm, ngỗn ngang
giữa một thế giới phẳng. Và các nhà thơ Việt Nam đã không ngừng đối diện, tiếp
nhận nó để khám phá những điều mà lâu nay văn học chưa từng trải mình. Các thế
hệ nhà văn sau 1986 đã có được luồng sức mạnh của thời đại để thử sức với luồng
gió mới này của thế giới, cũng chỉ với một mục đích sẽ đưa thơ ca Việt Nam lên
một tầm đón đợi mới.
2.2. Nguyễn Bình Phương bước vào thế giới hỗn độn ấy một cách bình dị
nhất, ông lặng lẽ miệt mài với cuộc tìm kiếm không mệt mỏi của mình, những vần

thơ đầy sức ma mị đến khó hiểu nhưng dường như nó đang tuôn trào đầu ngọn bút
của người nghệ sĩ.
Trong bài viết “Thi ca và cuộc tìm kiếm mang tên Nguyễn Bình Phương” của
tác giả Dương Kiều Minh đăng trên báo Công an nhân dân tháng 12/2009 đã chỉ ra

8


rằng “thơ Nguyễn Bình Phương phảng phất cái huyền hoặc bí ẩn mang hương vị
đồng dao” [34] và tác giả bài viết cũng nói rằng thơ Nguyễn Bình Phương có nét gì
đó rất lạ lẫm, rất cuốn hút, nó mở ra một thế giới đầy cảm xúc trong sâu kín tâm
hồn của con người. Hơn nữa tác giả còn gọi tên cho hành trình sáng tác thơ của
Nguyễn Bình Phương là một “cuộc tìm kiếm” những cái mới và lạ
Tác giả Lê Hồ Quang trong bài “Đọc thơ Nguyễn Bình Phương” đăng trên
Tạp chí Thơ đã nhận định: “Đọc thơ Nguyễn Bình Phương không dễ…việc “đọc”
thơ Nguyễn Bình Phương là một hành trình tìm đường vào “cõi lạ” đầy nhọc nhằn,
với nhiều cảm giác bất an, nghi hoặc. Nhưng dù có lúc cảm thấy mê man, đuối sức
trên hành trình phiêu lưu vào thế giới ấy, ta vẫn khó phủ nhận vẻ đẹp đầy ma mị
của nó. Nó đánh thức và mở ra những đường biên ranh giới khác, độc sáng, trong
cách ta tri giác về thế giới”[37]. Tác giả Lê Hồ Quang tập trung tìm hiểu sâu về
ngôn ngữ - một trong những phương diện thể hiện khá rõ dấu ấn hậu hiện đại trong
thơ, tác giả đã ít nhiều bộc lộ rõ những dấu ấn hậu hiện đại đậm nét trong thơ
Nguyễn Bình Phương.
Tác giả Đoàn Minh Tâm với “Nguyễn Bình Phương – Một hồn thơ “tinh
quái”, lại đặc biệt chú ý đến dấu ấn của “thiền” tập trung ở tập thơ Buổi câu hờ
hững của Nguyễn Bình Phương. Theo tác giả: “Tâm thế Nguyễn Bình Phương trải
giữa một bên là hiện thực cuộc sống và một bên là những trạng thái tĩnh lặng mang
dấu ấn thiền - nỗi day dứt về tự thân bộc lộ qua câu thơ mà tôi cho là đề từ của thi
tập này: Đó là đời hay thơ/ Đó là anh hay Phật? Đôi lúc có cảm giác như ở bất cứ
đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, suy tưởng của Nguyễn Bình Phương đều hướng

về thiền”[53] . Một góc khác được suy xét trong thơ Nguyễn Bình Phương dấu ấn
“ thiền” ranh giới giữa hiện thực xô bồ và tĩnh lặng của cõi Phật, là nội tâm của
nhà thơ được tác giả bài viết khai sáng một cách trọn vẹn.
Đến với thơ Nguyễn Bình Phương ta sẽ cảm nhận thấy một không gian thơ
mở, mở ra với nhiều chiều kích khác nhau, với nhiều cuộc sống khác lạ mà chúng
ta cần khám phá. Ở đó dường như có một sức sống mà không phải bất kì ai cũng
có thể có được, một sự tươi mới của tuổi trẻ, nhưng cũng đầy sự chính chắn của
người từng trãi. Vậy nên nhà thơ Nguyễn Việt Chiến trong “Thế hệ nhà thơ Việt

9


Nam sau 1975” đã khẳng định một thời đại mới của thi ca (Trích trong “Thế hệ
nhà văn sau 1975 : Diện mạo và thành tựu” kỷ yếu hội thảo, 4/2016, NXB Hội nhà
văn) đã nói rằng: Nguyễn Bình Phương là một người thơ “không trẻ - không già”
và anh một trong những nhà thơ sớm nhất đã âm thầm khởi cuộc khai phá những
miền đất mới trong thơ đương đại Việt Nam đầu thế kỷ XX…”[12] Qua bài viết
này, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã khẳng định vai trò của Nguyễn Bình Phương
trong công cách tân thơ Việt Nam sau 1975, đây là một thế hệ nhà thơ với nhiều
đóng góp trong thơ hậu hiện đại. Một thế giới thơ độc đáo với những hình ảnh mới
mẻ, cách sử dụng ngôn từ đầy sáng tạo, giống như ta đang lạc vào một miền đất lạ,
một cuộc sống, một thế giới khác.
Cũng có người đã nhận xét về thế giới thơ Nguyễn Bình Phương như sau:
“Thế giới thơ của Nguyễn Bình Phương không phải là một hư cấu, nó là một hiện
thực khác. Nó có hệ sinh vật riêng, vừa trùng khít với không gian sống của con
người, vừa trở nên khác biệt: linh miêu, con hươu ma, những quả đồi lơ mơ, ngôi
nhà rét, sương mù, khuôn mặt xanh, những ngôi sao màu hung…”. Tác giả còn nhấn
mạnh: “Sự khó hiểu của thơ Nguyễn Bình Phương, nếu có, có thể có nguyên nhân từ
chính người đọc (thơ): chúng ta thường lơ là việc nhìn ngắm chính cảm giác của
mình đến nỗi, khi lạc vào một thế giới của một tâm hồn khác, ta vẫn giữ thói quen

quan sát và nhìn ngắm một cái gì xa lạ, một cái gì ngoài ta” [64]. Bài viết đã đi sâu
vào tìm hiểu thế giới khác trong thơ Nguyễn Bình Phương, một thế giới mang nhiều
điều bí ẩn chưa thể giải mã hết.
Luận văn thạc sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bình Phương” của Phạm
Ngọc Lan, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã đi sâu tìm hiểu thế giới thơ
của tác giả Nguyễn Bình Phương, phân tích các yếu tố làm nên thế giới nghệ thuật
thơ trên các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Đồng thời luận văn
cũng chỉ ra mối quan hệ giữa thế giới nghệ thuật thơ và thế giới nghệ thuật tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương [32]
Nông Hồng Diệu trong bài viết “Nguyễn Bình Phương: Sống bình thường,
viết không bình thường”, đã nhận định: “Chẳng dại khen văn chương Nguyễn Bình
Phương. Ngay khi tập thơ “Buổi câu hờ hững” xôn xao văn đàn, trước cơn mưa ca

10


tụng, anh chỉ buông câu: “Tôi thấy đã làm một việc là gói lại một quãng thời gian
sáng tác”. Nhưng cũng chẳng chê Nguyễn Bình Phương làm gì cho nhọc. Anh thú
nhận: “Ở góc độ khen, chê, tôi là người bảo thủ. Tôi chỉ nghe chính tôi” [14].
Ngoài ra còn khá nhiều những bài viết và khóa luận tốt nghiệp đại học cũng đã
dành thời nghiên cứu thơ Nguyễn Bình Phương, những chủ yếu chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu nghệ thuật, thi pháp trong thơ ông.
Quá trình cách tân thơ của Nguyễn Bình Phương là hành trình giải mã những
bí ẩn của cuộc sống, với những dấu ấn đậm nét của thơ ca Việt Nam đương đại.
Tác giả Hoàng Thị Huế trong bài viết : “ Ánh xạ từ biểu tượng cái tôi trong thơ
Việt đương đại” đăng trên tạp chí khoa học, Đh Khoa học Huế, số 5/2016 cũng đã
nói rằng: Sau đổi mới thơ ca đương đại đã có bước ngoặt lớn trong tư duy sáng tác,
trong cái nhìn thế giới, con người, không gian, thời gian chi phối sự lựa chọn
phương thức trữ tình mới mẻ với một giọng điệu riêng và khác lạ, đặc biệt là sự
góp mặt của những gương mặt thơ tiêu biểu Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn,

Vi Thùy Linh.. Trong xu hướng đổi mới chung, các nhà thơ tìm tòi cho mình một
hướng đi riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của một cái tôi đa chiều kích, đầy kiêu
hãnh và độc lập”[22]. Hành trình khám phá, nghiên cứu thơ Việt nam dưới góc
nhìn hậu hiện đại, tác giả bài báo đã cho chúng ta thấy được những đóng góp mới
mẻ trong cách tân nghệ thuật của các nhà thơ sau 1986, một trong những yếu tố
quan trọng để tạo nên thành công của họ chính là tư duy sáng tạo của cá nhân mỗi
người.
Nhìn chung các bài viết đi trước đã mở ra một hướng đi mới cho thơ ca Việt
nam đương đại nói riêng và thơ Nguyễn Bình Phương nói chung, khẳng định được
vai trò to lớn của ông trong hành trình cách tân thơ ca đương đại. Rất nhiều bài
viết khai thác nhiều góc cạnh khác nhau trong thơ Nguyễn Bình Phương nhưng các
tác giả mới chỉ dừng lại ở việc gợi mở, còn đặt tác phẩm từ góc nhìn hậu hiện đại
thì vẫn đang còn bỏ ngỏ. Do đó việc lựa chọn đề tài : “Thơ Nguyễn Bình Phương
từ góc nhìn của lý thuyết hậu hiện đại”. Chúng tôi mong muốn sẽ góp được một
phần công sức trong việc khai thác triệt để thơ Nguyễn Bình Phương từ nhiều

11


phương diện khác nhau, khẳng định những sáng tạo với lối tư duy mới mẻ của tác
giả.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu thơ của Nguyễn Bình Phương, chúng tôi tập
trung chủ yếu vào việc khảo sát các tập thơ sau:
- Lam chướng (1992)
- Khách của trần gian (1996)
- Xa thân (1997)
- Từ chết sang trời biếc (2001)
- Thơ Nguyễn Bình Phương (2004)

- Buổi câu hờ hững (2011)
- Tuyển thơ xa xăm gõ cửa (2014)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn “Thơ Nguyễn Bình Phương dưới góc nhìn của lý thuyết hậu hiện
đại” nghiên cứu trên hai bình diện: Cảm quan hiện thực, con người, và phương
thức nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bình phương từ góc nhìn hậu hiện đại.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn chúng tôi triển khai bằng các phương pháp sau:
- Phương pháp vận dụng lý thuyết hậu hiện đại, lý thuyết thi pháp học: Với
đề tài này chúng tôi vận dụng lý thuyết hậu hiện đại, lý thuyết thi pháp học soi
chiếu vào tác phẩm, từ đó làm nổi bật yếu tố hậu hiện đại được thể hiện trong thơ
Nguyễn Bình Phương.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh
đồng đại để thấy rõ hơn những nét tương đồng và khác biệt trong nội dung và nghệ
thuật sáng tác thơ của Nguyễn Bình Phương.
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: Chúng tôi đặt tác phẩm trong hệ thống của
khuynh hướng hậu hiện đại để nhận xét, đánh giá và khái quát hiện tượng.
Ngoài ra người viết đã vận dụng một số thao tác khác nhằm khai thác một
cách triệt để thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lý thuyết hậu hiện đại.
5. Đóng góp của đề tài
12


- Nghiên cứu “Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lý thuyết hậu hiện
đại” góp phần làm rõ những nét khác biệt trong thơ ông, khẳng định giá trị nghệ
thuật thơ Nguyễn Bình Phương.
- Nghiên cứu về cảm quan hiện thực và con người trong thơ Nguyễn Bình
Phương để nhằm khám phá những đặc trưng của thơ hậu hiện đại nhìn từ một tác
giả tiêu biểu.
- Luận văn tìm hiểu cách tân trong tư duy nghệ thuật mang đậm màu sắc hậu

hiện đại của thơ Nguyễn Bình Phương để khẳng định những đóng góp của ông
trong tình hình phát triển thơ Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần kết luận ra, cấu trúc của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Nguyễn Bình Phương trong mạch nguồn thơ Việt Nam sau 1986
Chương 2: Cảm quan về hiện thực và con người trong thơ Nguyễn Bình
Phương nhìn từ lý thuyết hậu hiện đại
Chương 3: Phương thức nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bình Phương nhìn từ lý
thuyết hậu hiện đại

13


B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. THƠ NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG
TRONG MẠCH NGUỒN THƠ VIỆT NAM SAU 1986
1.1 Thơ Việt Nam sau 1986 những tiếp nhận ảnh hƣởng của chủ nghĩa
hậu hiện đại
1.1.1 Khái lược về chủ nghĩa hậu hiện đại
Được khởi phát từ nửa sau thế kỷ XX (những năm 1960-1970), chủ nghĩa
hậu hiện đại là hiện tượng văn hóa có nguồn gốc từ phương Tây. Là một trong
những lý thuyết mới nhất và độc đáo nhất của phê bình văn học, chủ nghĩa hậu
hiện đại trở thành một hiện tượng văn hóa có độ bao phủ rộng khắp ở hầu hết mọi
lĩnh vực như mỹ thuật, văn học, âm nhạc, kịch, kiến trúc và triết học. Sự ảnh hưởng
của chủ nghĩa hậu hiện đại đã tạo nên một làn sóng cộng hưởng và có sức lan tỏa
mạnh mẽ trên toàn thế giới. Nói như Lyotard: “chúng ta đang sống trong thời hậu
hiện đại, thời mà tất cả những lý thuyết có từ thời ánh sáng đều bị đổ vỡ”[31]. Bản
chất thật sự của hậu hiện đại chính là vậy, nó khởi đầu từ sự đổ vỡ của các thể chế cũ,
những sự đối lập mẫu thuẩn trong xã hội loài người, từ sự đấu tranh sắc tộc, … kèm
theo đó là sự xuất hiện của những phát minh khoa học với các lý thuyết mới ra đời: lý

thuyết hỗn độn, hình học fractal… Hậu hiện đại là một cách gọi để chỉ về một sự
vận động , mà sự vận động đó đang tạo thành một hệ hình tư duy mới, tiếp nối hệ
hình tư duy của hiện đại.
Tuy nhiên, khó có thể đưa ra một định nghĩa chính xác thế nào là chủ nghĩa
hậu hiện đại. Và trong thực tế, các triết gia đã có rất nhiều lý thuyết thể hiện các
quan niệm khác nhau về chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo Lyotard thì: “Nói thật đơn
giản, hậu hiện đại là sự hoài nghi với các siêu tự sự”[31]. Còn theo Iba Hassan,
thay vì chuẩn mực của chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại thiên về sự trớ
trêu của các sự vật rơi vãi, hỗn loạn, không tuân theo bất cứ một chuẩn mực nào.
Cũng chính vì tính chất này và tính chất tan rã của các đại tự sự, nên hậu hiện đại
không xác lập được cho mình một nền tảng lý thuyết vững chắc, một “đại tự sự”
như văn học ở các thời kỳ khác. Fredric Jameson cho rằng đó là sự thay thế từ “ sự

14


tha hóa của chủ thể” trong chủ nghĩa hiện đại bằng “ sự phân mảnh của chủ thể”
trong chủ nghĩa hậu hiện đại ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản muộn. Còn ở một góc độ
khác U.Eco xem hậu hiện đại là “ một phạm trù tinh thần, hoặc tốt hơn, một
Kunstwollen – một phương thức thao tác” (1996)...
Và thật ra ý nghĩa lớn nhất của thuật ngữ hậu hiện đại không chỉ đơn thuần là
một định lượng về “thời gian” (“hậu” = “sau” thời hiện đại), mà chính là ở “tính
chất” của nó. Hậu hiện đại là một học thuyết phức tạp, bên cạnh đó nó lại có mối
quan hệ với các chủ nghĩa khác. Do đó việc đưa ra một khái niệm chung là rất khó,
chính vì xuất phát cơ sở và chủ trương ban đầu của chủ nghĩa hậu hiện đại, là chối
bỏ các đại tự sự và không xây dựng học thuyết riêng cho mình.
Tuy vậy, chúng ta có thể nhận ra rằng, lý thuyết về chủ nghĩa hậu hiện đại
vừa là bước phát triển tất yếu, là kết quả của “hiện thực thậm phồn” - cuộc cách
mạng kỹ thuật và công nghiệp, là sự nối tiếp của các chủ nghĩa khác và chủ nghĩa
hiện đại trên cơ sở tinh thần của các lý thuyết ấy.

Như vậy, có thể đưa ra một khái quát chung cho chủ nghĩa hậu hiện đại, là sự
phá vỡ các đại tự sự đồng thời từ chối luôn khả năng trở thành một đại tự sự, bởi
vậy nên hậu hiện đại luôn tránh né trong việc biến mình trở thành một học thuyết một đại tự sự mới. Song song với đó, chủ nghĩa hậu hiện đại hướng tới các tiểu tự
sự, chú tâm khai thác những yếu tố có tính chất ngoại biên, phá vỡ cái trung tâm,
đưa ngoại biên xích gần lại với trung tâm. Tuy nhiên, những ngoại biên ấy không
trở thành một trung tâm khác thay thế trung tâm mà nó đã phá vỡ. Đặc biệt, trong
khi chủ nghĩa hiện đại tham vọng tạo lập một thế giới hoàn thiện, bất biến, đối lập
với thực tại hỗn loạn, phi lý và kỳ vọng vào sự tồn tại của một hiện thực nào đó
nằm đằng sau các ký hiệu, thì chủ nghĩa hậu hiện đại lại giễu cợt vào những ảo
tưởng ngây thơ, song vĩ đại của bậc tiền bối và đưa ra quan niệm: sau những ký
hiêu là hỗn loạn và cách khắc phục tốt nhất là “ làm hòa” với nó. Đối thoại với hỗn
loạn chính là chiến lược nghệ thuật của hậu hiện đại. Chủ nghĩa hậu hiện đại được
xem là một trào lưu văn hóa và là một thời kỳ lịch sử.
Cũng có thể thấy, trong văn học, có thể coi một số tính chất sau trở thành đặc
trưng chủ đạo của chủ nghĩa hậu hiện đại như: sự giễu nhại, sự mỉa mai châm

15


biếm, sự cắt dán lắp ghép, tính ngẫu nhiên, sự coi trọng quá trình chứ không phải
là kết quả, ngụy tạo... Những tính chất này đã xuất hiện ở chủ nghĩa hiện đại, tuy
nhiên, với chủ nghĩa hậu hiện đại, chúng trở thành những nguyên tắc sáng tạo. Và
bản thân mỗi đặc trưng ấy lại có những khác biệt so với chính nó ở chủ nghĩa hiện
đại. Hoặc, trong cách nhìn nhận thế giới khách quan, nói theo cách của Bùi Văn
Nam Sơn, nếu như chủ nghĩa hiện đại than khóc, đau buồn trước hiện thực, trước
những “cái chết” của sự đổ vỡ các giá trị, thì chủ nghĩa hậu hiện đại lại tiễn đưa
những “cái chết” ấy với thái độ vui vẻ.
Chủ nghĩa hậu hiện đại đề xuất nhiệm vụ đi tìm bản nguyên của con người và
vũ trụ, đi tìm nền tảng của nhận thức và cả cách tri thức. Văn học Việt Nam chịu
thêm luồng ảnh hưởng của văn học phương Tây kéo theo sự chuyển mình theo

hướng hậu hiện đại, tuy rằng chưa thể phân chia thành nhiều khuynh hướng trường
phái, nhưng nền văn học nước ta cũng đã có những dấu ấn hậu hiện đại đậm nét.
1.1.2 Sự tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại trong thơ Việt Nam sau 1986
Chủ nghĩa hậu hiện đại đã xuất hiện trên thế giới từ giữa thế kỷ trước, Việt
Nam dù chưa có đầy đủ các tiền đề về kinh tế và xã hội, nhưng những dấu ấn hậu
hiện đại trong cuộc sống xã hội với tâm thức của mỗi cá nhân trước thời cuộc đã
xuất hiện. Nó cũng hiển nhiên xuất hiện trong những sáng tác văn học, đặc biệt
giai đoạn từ sau 1986 (khi đất nước đổi mới) đến nay. Trước đây khi nói đến chủ
nghĩa hậu hiện đại trong văn học, đã có rất nhiều các quan điểm trái ngược nhau,
số phản đối, số không đồng tình, số thì cho rằng đó chỉ là một yếu tố hậu hiện đại
trong sáng tạo nghệ thuật ở nước ta mà thôi. Vốn dĩ sáng tác văn học là một hoạt
động sáng tạo không ngừng. Đó là ý thức của người cầm bút và cũng là nhiệm vụ
sống còn của họ. Trong quá trình đi tìm tòi những phong cách sáng tác mới, những
ý tưởng mới nảy sinh, và ngẫu nhiên, nó mang dấu ấn hậu hiện đại. Điều này cũng
không có gì là khó hiểu. Nhà văn vốn là những người “viết lịch sử” bằng văn học.
Họ tái hiện lại cuộc sống hiện tại bằng cảm quan văn học. Sống trong thời đại, xã
hội nào, tất yếu họ sẽ phản ảnh thời đại, xã hội ấy trong sáng tác của mình.
Sau năm 1986, trên đà hội nhập và đổi mới, văn học nước ta có sự chuyển
biến rõ rệt. Đặc biệt với sự ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn

16


học thế giới, tạo thành một trào lưu văn học mới, thì văn học Việt Nam không thể
tránh khỏi sức ảnh hưởng lớn đó. Mặc dù trong nền văn học nước ta chưa thể hình
thành các khuynh hướng hay trào lưu hậu hiện đại như các nước trên thế giới
nhưng chúng ta vẫn thấy được những dấu ấn về hậu hiện đại trong một số sáng tác
của một vài cây bút tiêu biểu. Các nhà văn xây dựng cho mình một màu sắc hậu
hiện đại cho con đẻ, họ không ngừng đào sâu tìm tòi, lắp ghép những mảnh vỡ
trong cuộc sống để tạo những đề tài với những dấu ấn riêng. Những gương mặt

tiêu biểu như Đặng Đình Hưng, Nguyễn Thúy Hằng, Nguyễn Bình Phương, Hoàng
Hưng, Vi Thùy Linh… Có thể nói hậu hiện đại trong những sáng tác hiện nay phần
lớn là những biểu hiện cảm thức hậu hiện đại, ghi lại những dấu ấn vừa thể hiện tư
duy cá nhân vừa mang tinh thần hội nhập quốc tế.
Nhờ vào sự vận động và biến đổi không ngừng của đời sống xã hội trong thời
kì đổi mới, cùng với nghị quyết, chính sách đường lối của Đảng và nhà nước đã thúc
đẩy sự xuất hiện của đội ngũ nghiên cứu phê bình đông đảo, hoạt động tích cực, mở
đường cho văn học tiếp nhận, ứng dụng lý thuyết hậu hiện đại trong sáng tác, phê
bình. Bằng sự nhạy bén hội nhập, các nghệ sĩ đã kịp thời bắt được mạch đập của xu
thế toàn cầu đưa văn học dân tộc hòa cùng thời cuộc. Những cuộc cách tân văn học
theo xu hướng hậu hiện đại bắt đầu với những bản hòa ca nhiều âm điệu.
Cuối thập niên 80, xuất hiện nhiều cây bút mới nổi bật với nhiều lối viết đa
dạng hơn như Lê Đạt, Trần Dần, Nguyễn Bình Phương, Đặng Đình Hưng, Nguyễn
Thúy Hằng… Họ có những cách tân trong lối viết đầy mới lạ, lạ trong với chính
bản thân họ trước đó và cả với những nhà văn nhà thơ cùng thời khác. Những sáng
tác của họ theo khuynh hướng mới, khuynh hướng hậu hiện đại tạo nên một bước
ngoặt cho chính sự nghiệp văn chương của họ và của cả văn chương Việt Nam.
Hậu hiện đại không chỉ đơn thuần là vậy mà còn là ở cảm quan về thế giới và con
người của người nghệ sĩ. Mỗi tác phẩm văn học là một mảnh ghép vừa của cuộc
sống, và trong mảnh ghép đó còn có vô vàn những mảnh ghép nhỏ hơn của cuộc
sống đa chiều kích. Mà ở đó nhà văn mặc sức thể hiện rõ tâm trạng của mình, giải
bày những cảm xúc về những góc khuất trong xã hội mà ít ai có thể chạm đến hoặc
chạm đến những không dám phơi bày. Thơ Nguyễn Bình Phương là những ám ảnh

17


về mất niềm tin vào con người, sự đỗ vỡ của những trật tự xã hội, gia đình, sự
băng hoại đạo đức, khiến con người rơi vào cảnh bất an, mất phương hướng.
Bởi đặc điểm của văn học hậu hiện đại rất phức tạp nên nghệ thuật thể hiện

của nó cũng mang tính chất đặc thù với nhiều sự đa dạng hóa hơn như xây dựng
cốt truyện phân mảnh, lắp ghép, sự dịch chuyển của các điểm nhìn trần thuật, sự
chuyển dịch, pha trộn đứt gãy của nhiều giới hạn thể loại truyền thống, sự dung
hợp nhiều thể loại như hội họa, âm nhạc, điện ảnh..,
Thơ Việt Nam trong khoảng mười năm gần đây cũng đã có những bước tiến
mới, dần dấn thân vào ranh giới của thơ ca hậu hiện đại. Những ảnh hưởng từ cuộc
phát triển như vũ bão của thông tin đại chúng và đặc biệt là thời đại công nghệ lên
cao. Nhu cầu sống của con người cũng như nhu cầu đọc của công chúng cũng dần
thay đổi theo cho phù hợp. Như một tất yếu của giới trẻ, các nhà sáng tác trẻ lần
lượt khẳng định mình trên văn đàn bằng những tiếp thu các nền văn học trên thế
giới, những trào lưu mới lạ đều được họ khai thác một triệt để. Họ “ mở mắt mở trí
mở hồn. Để cuối cùng soi lại mình, họ nhận thức ra rằng bao giá trị hôm qua cha
ông họ và cả chính bản thân họ ra sức bảo vệ bỗng chốc đổ rụm, không thể cứu
vãn được nữa. khủng hoảng niềm tin đồng lúc với sự hình thành một cảm thức
khác đi”[69]. Thơ hậu hiện đại có sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất
lượng. Các nhà thơ không ngừng tìm tòi, thể nghiệm đổi mới không chỉ ở nội dung
mà cả hình thứC, góp phần làm phong phú hơn cho thơ ca Việt Nam hội nhập với
thơ ca thế giới. Theo Phương Lựu “Trước hết là loại thơ không mang đến việc kết
tinh ý nghĩa, không hẳn vô nghĩa, nhưng hiểu sao thì tùy. Chủ nghĩa hậu hiện đại
phủ nhận bên trong hiện tượng có bản chất, bên cạnh ngẫu nhiên có tất yếu, bên
dưới vô thức có ý thức, bên sau lớp từ là ngôn ngữ. Chính vì thế cứu cánh của
hành động đan dệt ngôn từ trong sáng tạo thơ không cần thiết mà cũng không thể
kết tinh tinh thành một nội dung, ý nghĩa` chủ đạo nào cả”[28].
Thơ hậu hiện đại ở nước ta có thể được đánh dấu từ Bùi Giáng, một nhà thơ
được xem là người đầu tiên sáng tác theo cảm thức hậu hiện đại, đó là ách sử dụng
lối ngôn ngữ vừa độc và lạ , với những chuỗi âm thanh chồng chéo, đan xen, trộn
lẫn vào nhau, tạo nên một bức tranh hỗn độn không trật tự và không có ý nghĩa.

18



Đọc thơ ta cảm nhận giống như đang chơi một trò chơi mà nhà thơ đã soạn sẵn
kịch bản, và đó là một trò chơi của ngôn ngữ, một trò đùa bất tận và có hồi kết. Ở
đó “thi sĩ phó thác mình cho ngôn ngữu thao túng”. Những cái tên như Trần Dần,
Lê Đạt, Thanh Thảo, Hoàng Hưng, Mai Văn Phấn… đã để lại những dấu ấn hậu
hiện đại đậm nét trong ca Việt Nam giai đoạn này.
Có thể nói thơ hậu hiện đại Việt Nam là “phản tỉnh mang tính phê phán hiện
thực, thực tế đất nước và thực trạng văn chương”. Với tư tưởng tự do, các nhà thơ
hậu hiện đại luôn có tiếng nói phản biện xã hội đương thời, bóc trần sự mêm hoặc
mà thông tin đại chúng muốn tác động vào xã hội… đồng thời tự thân mang ý
hướng phi tâm hóa, xóa bỏ mọi sự phân biệt trong đội ngũ sáng tác. Mang tư tưởng
tự do, nhà thơ hậu hiện đại luôn có tiếng nói phản biện xã hội đương thời, bóc trần
sự mê hoặc mà thông tin đại chúng muốn tác động vào xã hội. Đội ngũ sáng tác thơ
cũng có những gương mặt mới với sự xuất hiện của nhiều cây bút nữ như Vi thùy
Linh… đây là những cây bút nữ trẻ mang nhiều hơi thở mới của thơ ca hậu hiện đại,
họ mang một phong cách riêng độc đáo thể hiện đúng cá tính của mỗi người. “Từ bỏ
lối thơ “ khăn đóng áo the” truyền thống, là thể loại năng động, thơ Việt đương đại
đã nhanh chóng mở rộng hình thức câu thơ để có thể ôm chứa được hiện thực cuộc
sống, đời tư của con người với muôn chiều kích ý thức, vô thức, tiềm thức… phản
ánh con người hiện đại trong sự truy vấn và phản tỉnh …” [21]. Đồng thời với xu
hướng đổi mới thơ một cách triệt để, từ hình thức cho đến nội dung theo hướng hậu
hiện đại gắn liền với những cái tên như Khế Iêm, Trần Tuấn, Inrasara, Bùi Chát,…
đặc biệt là thơ tân hình thức, thơ văn xuôi, kịch đường phố, thơ trình diễn… những
sáng tác của họ mới chỉ là bước dạo đầu đi tìm cái mới, nhưng mỗi sáng tác là một ý
thức cách tân thơ theo hướng hậu hiện đại với nhiều góc nhìn mới mẻ trên nền thơ
ca truyền thống.
Mặc dù nhìn trong một không gian chung thơ ca Việt Nam sau 1986 đã có
những cách tân hiệu quả mang tầm vóc thời địa, hòa mình cùng sự phát triển của
thơ ca hậu hiện đại thế giới, nhưng những sáng tác của chúng ta mới chỉ được xem
như là “yếu tố”, “ dấu ấn” hậu hiện đại mà thôi. Bởi lẽ một phần yếu tố xã hội của

nước ta là nước phương Đông mang nhiều truyền thống, các nhà văn nhà thơ ít

19


nhiều còn e ngại trong lối viết của mình, với những điều khó hiểu mà hậu hiện đại
mang lại dẫn đến nhu cầu đọc của độc giả còn nhiều sự hạn chế. Từ đó tạo nên làn
sóng hoài nghi, tranh cãi trong giới phê bình nghiên cứu. Nhưng không thể phủ
nhận một điều rằng thơ ca Việt Nam sau 1986 nói riêng và văn học Việt Nam sau
1986 nói chung đã có những bước tiến mới để song hành cùng với thế giới, các nhà
văn, nhà thơ đã đóng góp cho văn học nước nhà một phong trào cách tân văn học
mang hơi thở hậu hiện đại.
1.2. Nguyễn Bình Phƣơng và những nổ lực đổi mới thơ về phía hậu hiện đại
1.2.1. Nguyễn Bình Phương – đường đời và đường thơ
1.2.1.1 Nguyễn Bình Phương – đường đời gắn liền nghiệp văn chương
Nguyễn Bình Phương tên khai sinh là Nguyễn Văn Bính, sinh ngày
29/2/1965 tại Thái Nguyên. Trong chiến tranh gia đình anh sơ tán về Linh Nam,
thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Đến năm 1979 mới trở lại thành phố
Thái Nguyên.
Nguyễn Bình Phương học hết phổ thông trung học năm 1985 rồi vào bộ đội;
học khóa IV trường viết văn Nguyễn Du, bắt đầu viết từ năm 1986. Sau khi ra
trường, Nguyễn Bình Phương công tác ở Đoàn kịch nói quân đội, tiếp đó làm biên
tập viên của Nhà xuất bản Quân đội. Hiện nay, ông là Tổng biên tập Tạp chí Văn
nghệ Quân đội. Nguyễn Bình Phương được đánh giá là một trong những gương
mặt văn xuôi đương đại nổi bật.
Trong Đại hội Hội nhà văn Việt Nam lần thứ 9 diễn ra tại Hà Nội từ ngày 9
đến ngày 11 tháng 7 năm 2015, Nguyễn Bình Phương đã được bầu vào Ban chấp
hành Hội nhà văn Việt Nam. Ông đứng giữa những bậc lão luyện trong nền văn
chương Việt Nam hiện đại và trở thành người trẻ tuổi nhất trong 6 tác giả được bầu
vào Ban chấp hành.

Về Nguyễn Bình Phương, có thể gói gọn trong một chữ “lặng”. Là một nhà
văn được tôi luyện trong môi trường quân đội, ông chọn cho mình lối sống trầm
lặng, không ồn ào, ngại tiếp xúc và ít xuất hiện chốn đông người. Trong cuộc trò
chuyện với Hạnh đỗ, phóng viên báo Tiền Phong, Nguyễn Bình Phương đã chia
sẽ:“ Tôi vẫn gặp gỡ, uống rượu với bạn bè. Nhưng không ham. Vài ba người tụ tập

20


có thể là tinh túy, nhưng năm người trở lên là nhức đầu”[70]. Phạm Ngọc Tiến
cũng đã có nhận xét về Nguyễn Bình Phương như sau: “Những ai biết và chơi với
Nguyễn Bình Phương đều thấy ở con người này luôn có sự trầm tĩnh và suy lắng ở
cả hành động lẫn hình thể. Khuôn mặt như thường trực đeo trên đó một nghĩ suy
nào đó với cặp mắt nheo nheo tinh anh nhưng xa lạ với người đối diện”. Cái ấn
tượng ban đầu là vẻ rụt rè, khó tính, khô khan, ngại giao tiếp của Nguyễn Bình
Phương khiến chúng ta cũng khó có thể hình dung một cách toàn vẹn về con người
này. Hạnh Đỗ đã nhận xét rằng: Nguyễn Bình Phương có dáng vẻ nhỏ nhắn, thư
sinh, mang vẻ nghệ sĩ hơn là nhà quản lý của tác giả khi gặp trực tiếp mặt đã xóa
nhòa ấn tượng về sự khó gần ấy. Nói về bản thân mình, nhà thơ tự nhận “Là một
công chức đơn điệu điển hình. Sớm vác ô đi, tối vác về”. [69]. Nguyễn Bình
Phương cũng tự nhận “ tạng” của mình “có lẽ hơi u uất một chút”. Thực tế theo
cảm nhận của Việt Quỳnh: “Gần anh, sẽ cảm giác một sự chan hòa, ấm áp và giản
dị, gần gũi từ ánh mắt đến nụ cười. Anh thường ít nói, nhưng câu nào cũng ngấm
vào lòng người nghe” [63]. Sách là một phần không thể thiếu được trong cuộc
sống của ông. Ông ham đọc sách, có thể dành cả đêm để đọc sách và nghiền ngẫm
về chúng. Ban ngày chính là thời điểm sáng tác của ông. Nguyễn Bình Phương là
một người rất “thèm” viết, cẩn thận và tỉ mỉ trong sáng tác. Viết đối với Nguyễn
Bình Phương giống như đi theo “ giống như đi theo một lực hút bí ẩn không biết
phía trước là gì. Tôi kệ bản năng dẫn dắt. Để nó trôi dạt lênh đênh” [70]. Nhà thơ
chia sẽ: “Viết ra được thì thích. Thấy người khỏe ra” [69]. Chúng ta biết đến

Nguyễn Bình Phương qua những trang viết trữ tình đầy ma mị, mang một chút
mông lung mờ hư thực, nhưng bên cạnh đó ít ai biết được rằng nhà thơ đã dành cả
thanh xuân của mình trong quân đội. Có lẽ bởi chính những bộn bề của cuộc sống
được ông lột tả trong thơ khiến người đọc như chúng ta không thể nào hình dung
ra nổi điều đó. Một con người xem văn chương là nghiệp cả cuộc đời dành trọn
cho nó Nguyễn Bình Phương đã bộc bạch rằng: “ Nếu thật sự chọn văn chương là
nghiệp, thì nhất định anh sẽ đi được tới giới hạn cuối của mình – đi đến kiệt sức,
để khi dừng bút thì gò đồi văn nghiệp mới thật sự nổi lên. Giá trị của tác phẩm
phải được tính qua độ lùi của thời gian. Thời trẻ, tôi viết hừng hực khí thế, nhưng

21


đôi khi cũng … liều mạng. Còn thời điểm này, tôi đang ở giai đoạn viết một cách
bình tĩnh, tiết chế được mọi cảm xúc, không còn hồ đồ, đã cân đối được mọi lựa
chọn thể hiện”. [70]
Đọc tác phẩm cuả ông ta có thể cảm nhận được những trải nghiệm và chắt lọc
tinh tế từ lý trí đến tận trái tim con người. Nguyễn Bình Phương không đơn giản
chỉ là viết mà mỗi bài viết của mình, ông luôn ý thức tìm tòi, tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau. Dù là văn xuôi hay trữ tình thì tác giả cũng luôn chuẩn bị cho
mình một góc riêng của cái tôi để tiếp nhận, thích nghi và “ chiều lòng” nó.
Nguyễn Bình Phương được biết đến là một nhà văn viết tiểu thuyết, là một
trong những gương mặt văn xuôi đương đại nổi bật, một nhà văn có sức sáng tác
dồi dào. Hầu hết các tác phẩm mới của ông ra đời đều được đón nhận một cách
nồng nhiệt và có một sức hút đặc biệt đến nhiều đối tượng độc giả và cả giới
nghiên cứu phê bình văn học, dư luận và báo chí.
Sống giữa xã hội có nhiều biến đổi theo chiều vẫn động cùng sự phát triển
của thế giới, văn học Việt Nam cũng có nhiều sự biến đổi định hình hòa nhập với
tiến trình văn học thế giới. Cuộc vận động này đã thúc đẩy các tác giả cần phải ra
sức tìm hiểu, sáng tạo trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Những cái tên như

Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh… đã đánh dấu một bước
trưởng thành cho văn xuôi Việt Nam đương đại. Và Nguyễn Bình Phương cũng là
một trong những cây viết trẻ đóng góp cho sự đổi mới của văn học thời kì đổi mới,
cho công cuộc hiện đại hóa tiểu thuyết.
Lối viết hấp dẫn, độc, lạ những cuốn tiểu thuyết: Vào cõi (1991), Những đứa
trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn ( 2000), Ngồi (2006),
Mình và Họ (2014)… đã ghi nhiều dấu ấn trong lòng người đọc và giới phê bình.
Mỗi cuốn tiểu thuyết đi qua đánh dấu một bước trưởng thành trong cách viết, cách
cảm của nhà văn. Ông luôn tiếp thu cái mới, và có những liều lĩnh trong sáng tạo
để khai mở vùng đất mới với những cách tân độc đáo về nội dung và cả phương
thức biểu hiện.
Trước khi đến với tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đã gắn bó với thơ. Thơ là
nơi mà tác giả tự do thể hiện mình, thể hiện cái tôi cá nhân trải nghiệm. Và Thơ

22


chính là bản ngã sáng tác chính của ông. Nhà thơ đã xây dựng cho mình một
phong cách riêng, khó trộn lẫn với bất kì nhà thơ đương đại nào. Bằng tư duy nhạy
bén và khả năng tiếp cận mọi bề mặt của cuộc sống, Nguyễn Bình Phương đã
không mất quá nhiều thời gian trong việc tìm kiếm thủ pháp nghệ thuật hay
khuynh hướng sáng tác của mình. Những có lẽ bởi cái quá riêng biệt trong phong
cách sáng tác dẫn đến thơ ông mang một vẻ huyền bí, khó hiểu, khó có thể giải mã
nổi. Đó cũng là một điều làm ảnh hưởng đến sự tiếp cận của độc giả. Tuy nhiên,
khi cảm về thơ Nguyễn Bình Phương, ta vẫn dễ dàng nhận thấy một điều thoáng
buồn, hụt hẫng, trái với cái mơ mộng, chập chờn trong tiểu thuyết. Ở thơ còn có
một miền thẩm mỹ khác với đời sống bộn bề, cô đơn của thực tại đã làm nên sức
hút khó cưỡng trong công chúng yêu thơ văn Nguyễn Bình Phương.
Mỗi tập thơ là một ngã rẽ khác nhau, một cái nhìn khác nhau trong tâm hồn
của tác giả. Từ Lam chướng (1992), Xa thân (1997), Từ chết sang trời biết (2001),

Buổi câu hờ hững (2011), Gõ cửa xa xăm (2015) đã tạo nên một hiện tượng trong
thơ Việt Nam đương đại, với lối viết khá sáng tạo dù mang nhiều tâm sự hoang
hoá buồn, nhưng thể nào, trong thơ Nguyễn Bình Phương cũng lấp lánh ánh sáng
của sự sống. “Với anh, sau cái chết đời người không phải là cát bụi, mà hẳn nhiên
đó là những hồi sinh” [62]
Thơ của Nguyễn Bình Phương, mang một sự rung cảm lạ lùng, một dòng
chảy năng lượng kết nối từ tiềm thức tới hiện tại, cứ neo bám lấy tâm não người
đọc sự xúc động trong lặng yên. Thơ viết phóng khoáng, không dừng lại bất cứ
chuẩn mực nào, những câu từ sử dụng chắt lọc, đều hướng tới việc sao cho chuyển
được cảm giác của anh thành ngôn ngữ. Điều đó khó, nhưng Nguyễn Bình Phương
làm được. Và câu chữ cứ nâng tâm hồn người đọc, đẩy mạnh kích thích sáng tạo từ
bên trong. Từ tâm hồn đến tâm hồn, từ tác phẩm sinh thành nên tác phẩm, đó mới
thực sự là giá trị của văn chương đích thực mang lại.
1.2.1.2 Nguyễn Bình Phương – và cuộc tìm kiếm những cái mới lạ
Như đã nói ở trên nhà thơ chọn cho mình một lối đi riêng, một phong cách
khó trộn lẫn trong biết bao gương mặt thơ tiêu biểu hiện nay. Phong cách này đã

23


làm cho thơ của Nguyễn Bình Phương khó để hiểu và mọi cố gắng giải mã thơ ông
theo lối thông thường đều không thành công.
Ông đã có những bước đi mạo hiểm để có thể đạt được những thành công
mới. Sự cách tân thơ được thể hiện rõ qua từng tập thơ mà ông đã sáng tác. Từ
Khách của trần gian, Lam Chướng, Xa thân.. và gần đây nhất là tuyển tập thơ Xa
xăm gõ cửa là sự thể hiện một cách độc đáo, đầy mới lạ trong hồn thơ Nguyễn
Bình Phương. Có thể nói mỗi tập thơ là một hành trình trở về miền đất tâm linh, vô
thức của cái tôi trữ tình, hành trình tìm về với bản thể. Đó là một hành trình gian
nan, vất vả, đơn độc và luôn bị ám ảnh bởi máu, cái chết và những dự cảm bất an,
mơ hồ, vô định. Đọc thơ ông, ta có nhiều lối để đi, nhưng lại không có lối để thoát,

những ám ảnh ma quái, những mảnh vỡ hỗn độn khiến cho người đọc, người nghe
bị cuốn vào cõi hư hư thực thực.
Lam chướng (1992) là tập thơ mở đầu cho hành trình thơ của Nguyễn Bình
Phương. Khi mới ra mắt độc giả, tập thơ đã nhận được nhiều thiện cảm, bởi xúc
cảm tinh tế, liên tưởng tự do, câu chữ được chọn lọc kỹ lưỡng, nhưng không gò
gẫm, cố ý, tạo nên một phong vị thơ rất riêng, đầy trẻ trung. Ngay từ những vần
thơ đầu tiên, thơ ông đã mang tới một sức hút khó cưỡng. Đó là bầu không khí
bảng lảng, cái mờ mờ, ảo ảo của màn sương. Chìm trong bầu không khí ấy có sắc
màu lạnh lẽo của lam chướng, vẻ mịt mù của sông nước, cái thâm u, lạnh lẽo cô
đơn của: một ngôi sao chết trắng, những giông bão u uẩn, những lối mòn mất hút
giữa vườn khuya, ... Lam chướng không chứa một giọng thơ liền mạch, các hình
ảnh và biểu tượng trong thơ chỉ là sự vu vơ, sự lắp ghép ngẫu nhiên của ngôn từ.
Lam chướng như được Nguyễn Bình Phương giăng mắc bởi một tấm màn
được dệt đan bởi mưa và hơi sương, trong đó nổi lên là cảm giác đầy ám ảnh bởi
vẻ âm u, hoang lạnh của núi rừng, vẻ ma mị của đêm vắng với những vệt lân tinh
nhẹ bẫng trong các ngôi làng, sắc màu kỳ dị của cảnh vật nơi chân trời dĩ vãng.
Trong Lam chướng, ta bắt gặp những trạng thái cảm xúc đa dạng. Đó
chính là cảm xúc của con người ở một vỉa tầng sâu nhất của vô thức, tâm linh.
Tiếp nối là những trạng thái cảm xúc, cảm giác liên tục ùa vào cả chùm thơ: sự
trống vắng, cô đơn, cảm giác cô quạnh, những hoài niệm và sự xuất hiện dày

24


đặc của những giấc mơ, ... Tất cả những biểu tượng và cảm giác trên đã mở ra
một thế giới mới lạ trong thơ Nguyễn Bình Phương.
Khách của của trần gian (1996). Ngay nhan đề tập thơ đã giúp chúng ta thấy
được phần nào ý niệm về thế giới và về con người của tác giả. Với Nguyễn Bình
Phương, sự tồn tại của con người trong cuộc sống này giống như một vị khách của
trần gian, dễ đến, dễ đi, không ràng buộc, không lưu luyến, con người sống tạm và

gửi nhờ thế giới này.
Qua Khách của trần gian, ta cảm nhận cuộc đời của con người giống như
một chuyến hành trình dài mà trên chuyến đi ấy, con người phải đối mặt với
nhiều biến chuyển trong cảm xúc. Đó là cảm giác ngột ngạt khó thở, sự giãy
giụa của vô thức đang quẫy đạp trong chính những vần thơ đầy ám ảnh của
Nguyễn Bình Phương. Ám ảnh về máu, về cái chết, sự biến mất đột ngột, sự tan
rã của thế giới xung quanh đã gợi lên cảm giác bị bào mòn của vô thức.
Tiếp nối Lam chướng, với Khách của trần gian, Nguyễn Bình Phương lại
mang đến cho độc giả một sự mê hoặc khó cưỡng. Khách của trần gian vẫn là một
thế giới thơ đầy hư ảo, kỳ dị, khác thường, một thế giới đầy những giấc mơ lạ lùng.
Tuy nhiên, ở tập thơ này, tất cả vẻ lạ lùng, hư ảo ấy lại được tô đậm lên rất nhiều,
những giấc mơ không chỉ xuất hiện nhiều lần mà chúng kỳ lạ hơn, khó lý giải hơn:
Mơ:/ Cái tai cưỡi trên lưng ngựa già/ Phi vào bể sương (Bước khởi đầu nan)
Trong Khách của trần gian, trí tưởng tượng của tác giả đã được đẩy tới mức
cao nhất. Thế giới vẽ ra trong thơ chính là một vùng đất thực - Linh Sơn. Linh Sơn
đã khơi nguồn cảm hứng cho Nguyễn Bình Phương phóng bút và tạc lên những
đường nét ám ảnh, lại ẩn chứa đầy bí mật của rừng thiêng u lạnh, hoang vu với
những sự vật, hiện tượng kỳ dị, lạ lùng, thế giới ngập tràn sự chết chóc, thế giới
của những người điên. Khách của trần gian vẽ ra một thế giới trong tâm linh, tiềm
thức của tác giả với những mạch liên tưởng ngồn ngộn, những điều khó lý giải.
Nếu như ở Lam chướng và Khách của trần gian, người đọc bị ám ảnh bởi
khói lam chướng, vẻ ma mị của cảnh vật, những cái chết, máu thì đến Xa thân,
cảm hứng của tác giả đã nghiêng về bộc lộ những trạng thái tinh thần phổ quát của
cái tôi.

25


×