Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy học đọc hiểu văn bản văn học chương trình ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

HOÀNG ĐÀO NGỌC TRINH

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
QUA DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC –
CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học bộ môn Văn – Tiếng Việt
Mã số: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HỮU PHONG

Huế, năm 2017

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: luận văn “Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
qua dạy học đọc hiểu văn bản văn học – chương trình ngữ văn 11” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất
kì một công trình nghiên cứu nào khác.
HUẾ, tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn
Hoàng Đào Ngọc Trinh


ii


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cá nhân Thầy: TS.

Trần Hữu Phong đã tận tình truyền đạt, động viên, chỉ bảo cho tôi
những kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm quý báu trong suốt
thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trường Đại học sư phạm

Huế, các thầy cô thỉnh giảng từ các trường đại học Sư phạm trong cả
nước đã giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập tại
trường Đại học sư phạm Huế.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu, giáo viên và học sinh
các trường THPT Lương Thế Vinh, THPT Quang Trung đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian khảo sát số liệu và thực
nghiệm sư phạm.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý đồng nghiệp và các bạn cùng lớp

Cao học Ngữ văn k24 – ĐHSP Huế.
Tôi xin gửi lời tri ân đến gia đình, người thân đã tạo điều kiện
cho tôi yên tâm học tập và hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc sức khỏe, hạnh phúc!
HUẾ, tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

Hoàng Đào Ngọc Trinh

iii



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GD KNS

: Giáo dục kĩ năng sống

GV

: Giáo viên

KNS

: Kĩ năng sống

HS

: Học sinh

PPDH

: Phương pháp dạy học

UNESSCO

:Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc

UNICEF

: Qũy nhi đồng Liên hợp quốc


VB VH

: Văn bản văn học

WHO

: Tổ chức Y tế thế giới

iv


MỤC LỤC
Trang phụ bìa ............................................................................................................ i
Lời cam đoan .............................................................................................................ii
Lời cảm ơn ............................................................................................................... iii
MỤC LỤC ..................................................................................................................1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................10
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................10
6. Giả thuyết khoa học ..............................................................................................11
7. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................11
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC KĨ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN
HỌC - CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 .............................................................12
1.1 Cơ sở lí luận .....................................................................................................12
1.1.1 Khái niệm kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống ....................................12

1.1.2 Vấn đề dạy học theo hướng tích hợp .........................................................17
1.1.3 Cơ sở tâm lí nhận thức của học sinh lớp 11 ..............................................21
1.2 Cơ sở thực tiễn .................................................................................................23
1.2.1 Nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống của học sinh lớp 11 ........................23
1.2.2 Tiềm năng tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong nội dung dạy học đọc
hiểu văn bản văn học chương trình 11 ...............................................................24
1.2.3 Thực trạng tích hợp giáo dục kĩ năng sống qua dạy học đọc hiểu văn bản
văn học – Chương trình ngữ văn 11 ...................................................................25
CHƢƠNG HAI BIỆN PHÁP TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH QUA DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC – CHƢƠNG
TRÌNH NGỮ VĂN 11 .............................................................................................31
2.1 Những nguyên tắc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong bài đọc
hiểu văn bản văn học .............................................................................................31
2.1.1. Nguyên tắc phát huy vai trò chủ thể của người học .................................31

1


2.1.2 Nguyên tắc dạy học đảm bảo quan hệ tương tác .......................................32
2.1.3 Nguyên tắc dạy học theo đặc trưng văn học .............................................33
2.1.4 Nguyên tắc đảm bảo về lượng ...................................................................35
2.2 Các phương diện tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy học
đọc hiểu văn bản văn học.......................................................................................36
2.2.1 Nội dung trong các văn bản .......................................................................36
2.2.2 Phương pháp, kĩ thuật dạy học tích hợp giáo dục kĩ năng sống của giáo viên
............................................................................................................................41
2.3 Cách thức xây dựng và tổ chức một bài dạy học đọc hiểu văn bản văn học có
tích hợp giáo dục kĩ năng sống. .............................................................................54
2.3.1 Xác định mục tiêu giáo dục kĩ năng sống .................................................54
2.3.2 Quy trình thực hiện....................................................................................56

2.3.3 Tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong kiểm tra đánh giá ..........................58
2.4 Những yếu tố bổ trợ, nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
qua dạy học đọc hiểu văn bản văn học - chương trình Ngữ văn 11 ......................59
2.4.1 Giáo viên là tấm gương trực tiếp về kĩ năng sống tích cực cho học sinh .59
2.4.2 Hoạt động ngoại khóa................................................................................60
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM .........................................................62
3.1 Mục đích thực nghiệm .....................................................................................62
3.2 Tổ chức thực nghiệm .......................................................................................62
3.2.1 Đối tượng thực nghiệm..............................................................................62
3.2.2 Thời gian thực nghiệm ..............................................................................62
3.2.3 Nội dung thực nghiệm ...............................................................................62
3.2.4 Phương pháp thực nghiệm.........................................................................69
3.3 Tổng hợp và đánh giá kết quả thực nghiệm.....................................................69
3.3.1 Đánh giá qua quan sát các giờ dạy học .....................................................69
3.3.2 Đánh giá qua các bài kiểm tra của học sinh ..............................................69
3.3.3 Đánh giá kết quả thực nghiệm ...................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................76
PHỤ LỤC ................................................................................................................ P1

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Toàn cầu hóa”, hội nhập là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới. Sự hội
nhập ấy diễn ra trên tất cả lĩnh vực trong đó giáo dục. Báo cáo của Hội đồng giáo dục
thuộc Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESSCO) nói về
“Giáo dục thế kỉ XXI” với tên gọi: “Học tập – một kho báu tiềm ẩn” đã nhấn mạnh
thông điệp: học tập suốt đời như một chìa khóa để mỗi cá nhân thích ứng với những

thách thức của thế kỉ XXI đồng thời chỉ ra bốn trụ cột của giáo dục: Học để biết là nắm
những công cụ để hiểu; Học để làm là phải có những khả năng hoạt động sáng tạo tác
động vào môi trường sống của mình; Học để cùng chung sống là tham gia và hợp tác
với những người khác trong mọi hoạt động của con người; Học để làm người là sự tiến
triển quan trọng nảy sinh từ ba loại hình trên. Thực chất của việc giáo dục theo hướng
trên chính là hình thành và rèn luyện các kĩ năng sống (KNS), phát triển năng lực của
người học. Không chỉ nền giáo dục ở các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Hàn
Quốc... mới chú trọng nội dung giáo dục kĩ năng sống (GD KNS) cho học sinh mà vấn
đề này đã thực sự mang tính phổ quát, toàn cầu. Hiện nay, có hơn 155 nước quan tâm
đến GD KNS trong nhà trường trong đó có 143 nước đã đưa vào chương trình chính
khóa ở phổ thông. Nó vừa là mục tiêu, vừa là tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục ở
nhiều nước trên thế giới. Điều này được thể hiện rõ trong báo cáo Giám sát toàn cầu
giáo dục cho mọi người năm 2009 của UNESCO. Cụ thể, mục tiêu 3 của báo cáo có
nêu: “Đảm bảo đáp ứng tất cả mọi nhu cầu học tập của thanh thiếu niên và người lớn
thông qua tiếp cận bình đẳng với các chương trình học tập và kĩ năng sống phù hợp ”
còn mục tiêu 6 ghi rõ: “Cải thiện tất cả mọi khía cạnh của chất lượng giáo dục và đảm
bảo chất lượng tốt nhất sao cho mọi đối tượng đều đạt được kết quả học tập, được công
nhận được và đo lường được, nhất là khả năng đọc, viết, làm tính và kĩ năng sống cơ
bản”. Trong báo cáo Giám sát toàn cầu giáo dục cho mọi người năm 2016, khi làm rõ
mối liên hệ điển hình giữa giáo dục với các mục tiêu phát triển bền vững khác, các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra: “Giáo dục có thể trang bị cho con người các kĩ năng để cùng
tham gia hình thành và duy trì những thành phố bền vững hơn đồng thời nâng cao khả
năng ứng phó trong các tình huống thảm họa”(mục tiêu 11). Như vậy, GD KNS là một
nội dung dạy học có tính toàn cầu mà giáo dục Việt Nam không thể đứng ngoài.

3


Mục tiêu của giáo dục phổ thông ở Việt Nam được nêu trong điều 2 luật giáo
dục ban hành năm 2005 như sau: Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,

có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Theo đó, có thể khẳng định, giáo dục Việt Nam luôn coi trọng phát triển năng lực
con người mà KNS là một trong những năng lực cơ bản. Nếu nền giáo dục chỉ chăm
chăm theo hướng hàn lâm, luôn đề cao việc truyền nhận kiến thức mà không quan
tâm vấn đề thực hành, không gắn việc học với thực tiễn đời sống thì sản phẩm đào
tạo của nền giáo dục luôn luôn lệch pha với nhu cầu con người của quốc gia thậm
chí trở thành gánh nặng của quốc gia đó. Bởi vậy, GD KNS cho người học là một
trong những hướng đổi mới thiết thực, cấp bách mà ngành giáo dục đang nỗ lực
thực hiện để thực hiện mục tiêu, sứ mạng của mình.
Giáo dục chịu nhiều tác động từ xã hội nhưng một nền giáo dục ưu việt là phải
có tính định hướng cho xã hội. Gần hai thập kỉ đầu thế kỉ XXI, chúng ta đã chứng
kiến sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân loại cũng như thấy được những biến đổi
không ngừng và ngày càng phức tạp của các vấn đề nhân sinh. Trước những thay
đổi đó, đòi hỏi con người không chỉ cần có kiến thức mà còn phải thực sự có năng
lực, vững vàng KNS để đối phó, hòa nhập và phát triển. Bên cạnh những thành tựu
về kinh tế, khoa học kĩ thuật, xã hội hiện đại cũng đang đặt con người trước những
thách thức, những vấn đề tiêu cực mà nếu mỗi người, nhất là thế hệ trẻ không có
KNS thì sẽ dễ dàng bị cuốn xoáy theo nó, khó lòng vượt thoát.
Những năm gần đây, hiện tượng trẻ vị thành niên phạm tội đang trở thành vấn
nạn nhức nhối của xã hội. Năm 2015, thống kê của Tòa án nhân dân tối cao cho
thấy hàng năm có hơn 3000 trẻ vị thành niên bị đưa ra xét xử hình sự. Điều đáng lo
ngại là ở tội danh nào cũng có sự tham gia của đối tượng này trong khi trước đó,
hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên chỉ khu biệt ở các
nhóm tội danh như xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự công cộng, cố tình gây
thương tích. Không chỉ gia tăng nhanh về số lượng mà tính chất phạm tội ngày càng
nguy hiểm với quá nhiều những thủ đoạn xảo quyệt. Phân tích hiện tượng này,

4



nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra những nguyên nhân cơ bản trong đó không thể
không thẳng thắn nhìn nhận những thiếu sót từ phía trường học trong việc giáo dục
học sinh. Tiến sĩ Nguyễn Tùng Lâm – Chủ tịch Hội tâm lý Giáo dục Hà Nội nhận
định : “So với dạy chữ, việc “dạy người” của chúng ta đang có phần bị xem nhẹ.
Hiện nay, tại các trường học, mới chú trọng vào việc cung cấp kiến thức mà chưa
quan tâm đúng mức đến việc dạy cho học sinh về kĩ năng sống; việc tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật để định hướng cho xử sự và hành vi của các em còn
quá ít và thiếu thuyết phục [40]. Trong môi trường xã hội có nhiều biến động như
hiện nay, khi mà xã hội chư có một “bộ lọc” thật sự để định hướng cho trẻ vị thành
niên trước những yếu tố ngoại lai nhập nhằng tốt – xấu hay cả những giá trị bên
trong còn chưa vững chắc thì nhiệm vụ của nhà trường là phải tinh tế, khéo léo và
khoa học trong việc “dạy người” mà nội dung cơ bản là dạy KNS. Việc GD KNS sẽ
giúp HS rèn luyện bản, điều chỉnh hành vi theo hướng lành mạnh, đúng đắn, sống
có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội, biết xây dựng những mối quan hệ tốt
đẹp, thân thiện cũng như đối phó với các tình huống của cuộc sống một cách chủ
động, an toàn.
Mỗi môn học trong nhà trường đều có tính đặc thù và khả năng tích hợp GD
KNS cho học sinh ở những mức độ khác nhau. Có thể thấy, môn Ngữ văn với tính
chất là môn học công cụ có rất nhiều lợi thế trong việc thực hiện nhiệm vụ này. M.
Gorki đã nói: “Văn học là nhân học”. Văn học là môn khoa học mang tính nhân văn
và có khả năng kì diệu trong việc thanh lọc, hình thành nhân cách của con người.
Môn Ngữ văn với sự tích hợp nhuần nhị của 3 nội dung: Văn học, Tiếng Việt, Làm
văn đã và đang thực hiện được những bước cơ bản của mục tiêu dạy chữ, dạy người
và hướng nghiệp. Cụ thể, môn học Ngữ văn nhấn mạnh ba mục tiêu chính sau: 1.
Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ
và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù hợp với trình độ
phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. 2. Hình thành và phát triển ở HS các năng lực sử dụng tiếng

Việt, tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là
phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. 3. Bồi

5


dưỡng cho HS tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên,
đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh
thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho HS trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị
hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân
loại. Ở các nước phát triển, việc dạy văn gắn với GD KNS đã được thực hiện từ lâu
và có thể khẳng định khi văn chương gắn với đời sống thì sứ mệnh của nó mới thực
sự được phát huy. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, ở nước ta, môn Ngữ
văn chưa thực sự thu hút được người học. Khoảng cách giữa trang sách và đời sống
còn quá xa chính là rào cản lớn nhất khiến sự hứng thú của người học sụt giảm. Ý
thức được điều này, những người làm công tác giảng dạy môn Ngữ văn đã bước đầu
có những nỗ lực để môn học trở nên thiết thực, hữu ích và gần gũi với cuộc sống
của mỗi người học, đưa văn gần với đời hơn. Thế nhưng, khi chưa có nền tảng lí
thuyết, chưa có một phương pháp khoa học thì việc thực hiện nó không phải dễ
dàng và hiệu quả không cao.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Tích hợp giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh qua dạy học đọc hiểu văn bản văn học – chương trình ngữ văn 11
để nâng cao hiệu quả GD KNS cho học sinh trong nhà trường Trung học phổ
thông(THPT) như một con đường đổi mới dạy học nhằm thực hiện tốt mục tiêu
môn học, lớp học cũng như mục tiêu giáo dục phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Những nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Thuật ngữ “kĩ năng sống” bắt đầu xuất hiện vào khoảng những năm 90 của thế
kỉ XX trong các chương trình, nghiên cứu của Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF), UNESSCO, Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Đến nay, nó vẫn là đối

tượng mới của xã hội học. Có thể kể ra một số công trình có tính chất khai mở cho
vấn dề này như: Những hoạt động giá trị sống cho thiếu niên của Diane TillMan
(NXB TPHCM - 2000), Những bí quyết giao tiếp tốt của Larry King, Tài liệu tập
huấn về KNS của UNICEF (2004)... và nhiều nghiên cứu khác xung quanh KNS đã
cho thấy KNS là một đối tượng được quan tâm cấp thiết, đặc biệt của xã hội và do
đó, việc GD KNS như là một hệ quả tất yếu của quá trình nghiên cứu.

6


GD KNS cho HS là một nội dung có mặt trong hầu hết chương trình giáo dục
của các nước trên thế giới. Đặc biệt là những nền giáo dục hàng đầu như Nhật Bản,
Hoa Kỳ, Hàn Quốc... đều coi trọng vấn đề hình thành và rèn luyện KNS cho HS. Ở
đó, HS được học kĩ năng xử lí những tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống, cách đối
diện và đương đầu với khó khăn, vượt qua khó khăn, cách giải quyết mâu thuẫn,
xung đột trong các mối quan hệ xã hội...
Nền giáo dục của các quốc gia khác nhau sẽ có sự lựa chọn khác nhau về hình
thức GD KNS. Có thể là KNS được tích hợp vào tất cả các môn học trong chương trình
hay nó chỉ được tích hợp vào các môn học chính thậm chí, KNS trở thành một môn học
riêng biệt. Trường hợp KNS là một môn học không phải là phổ biến, chỉ một số quốc
gia như : Campuchia, Malawi... lựa chọn hình thức này. Đại đa số các nước sử dụng
phương án tích hợp GD KNS vào các môn học để tránh quá tải đồng thời để phát huy
vai trò các môn học trong nhà trường vào thực tiễn đời sống. Mô hình “Trường học
thân thiện- học sinh tích cực” là một trong những cách thức thúc đẩy GD KNS trong
nhà trường đã và đang được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng , giữa các quốc gia với nhau vẫn chưa có sự
thống nhất về nội hàm của khái niệm KNS (có nơi xem KNS chỉ là những khả năng
tâm lí xã hội , có nơi lại xem KNS là một phạm trù rộng lớn theo các lĩnh vực quan hệ
của cá nhân; việc thực hiện GD KNS vẫn phải bám và đặc thù của của mỗi nước). Do
đó, mức độ thành tựu và kinh nghiệm GD KNS của các quốc gia còn chênh lệch rõ

ràng, chưa có sự thống nhất, hoàn chỉnh về tiêu chí đánh giá chất lượng KNS.
2.2 Những nghiên cứu ở trong nƣớc
Qua dự án “Giáo dục kĩ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do UNICEF phối hợp
với bộ giáo dục và đào tạo, Hội chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện từ những năm
1995-1996 , thuật ngữ “Kĩ năng sống” bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ
thông. Từ đó đến nay, nhiều tổ chức trong và ngoài nước đã thực hiện các dự án GD
KNS cho HS gắn với các vấn đề xã hội như phòng chống ma túy, phòng chống
buôn bán phụ nữ và trẻ em,phòng chống bạo lực học đường... Điều này làm cho
việc GD KNS trong nhà trường ngày càng phong phú, nội hàm khái niệm KNS
cũng từ đó được mở rộng và nhận thức thấu đáo hơn.

7


Ở nước ta, hơn chục năm trở lại đây, việc GD KNS cho con người được cả xã
hội quan tâm. Có nhiều trung tâm GD KNS ra đời, các website, diễn đàn trao đổi, tư
vấn về KNS phát triển rầm rộ, đài truyền hình quốc gia cũng có hẳn một chương
giáo dục và rèn luyện KNS cho thanh thiếu niên để thỏa mãn nhu cầu của phụ
huynh và đông đảo giới trẻ về vấn đề này. Tuy nhiên, phải thừa nhận một thực tế là
hiệu quả của các chương trình, khóa học trên không cao vì nó phụ thuộc rất nhiều
vào ý thức tự rèn luyện của các em. Chỉ có tích hợp giáo dục trong nhà trường với
tính chất thường xuyên, liên tục mới mong tạo nên những chuyển biến tích cực
trong thái độ sống, học tập và tinh thần ứng phó với những tình huống phức tạp của
đời sống ở HS.
Bộ Giáo dục và Đào tạo rất quan tâm đến vấn đề GD KNS cho học sinh và đã
có những định hướng chiến lược cho vấn đề này. Có nhiều hội thảo xung quanh
việc GD KNS cho HS được tổ chức. Có nhiều những đợt tập huấn cho giáo
viên(GV) toàn hệ thống về nội dung này được diễn ra. Đáp ứng nhu cầu thực tiễn về
lí thuyết và phương pháp GD KNS, một số công trình nghiên cứu đã ra đời. Nhóm

tác giả Nguyễn Thị Mĩ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Đặng Hoàng Minh với công trình
Giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh Trung học sơ sở (NXB ĐHQG
Hà Nội, 2010) trên cơ sở phân tích tâm lí lứa tuổi HS Trung học cơ sở(THCS) đã
xác định những giá trị sống, những KNS cần thiết cho lứa tuổi này. Đồng thời, các
tác giả đã chỉ ra vai trò của các kĩ năng cụ thể cũng như các hoạt động phù hợp giúp
phát triển các kĩ năng đó. Tác giả Bùi Ngọc Diệp với cuốn Cẩm nang giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh THPT (NXB Giáo dục, 2010) đã nêu những vấn đề chung
về KNS và các KNS cần giáo dục cho học sinh THPT, hướng dẫn tổ chức những
hoạt động rèn luyện kĩ năng. Cuốn sách Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh THPT của tác giả Trương Thị Hoa, Bích Dung(NXB ĐHQG Hà Nội,
2013) đã tập trung tìm hiểu KNS, mục tiêu của GD KNS cho HS, phương pháp xây
dựng bài giảng KNS. Đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về GD KNS
cho học sinh có thể kể ra như: luận án tiến sĩ giáo dục học của Phan Thanh Vân,
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông thông qua hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp, trường đại học Thái Nguyên; luận văn thạc sĩ ngành quản lí giáo dục

8


của Nguyễn Hữu Đức, Quản lí giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường THPT
Trần Hưng Đạo – Nam Định trong giai đoạn hiện nay(Thông qua hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp); luận văn thạc sĩ sư phạm ngữ văn của tác giả Lê Kim Anh,
Tích hợp rèn kĩ năng sống cho học sinh trong dạy học thơ trữ tình hiện đại Việt
Nam ở trường trung học cơ sở...
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo rất chú trọng việc đổi mới mục tiêu, nội
dung và phương pháp dạy học trong đó đặc biệt quan tâm đến GD KNS cho HS. Có
nhiều tài liệu về GD KNS sống qua môn học và qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp
được chuyển đến tay GV phổ thông. Đối với môn Ngữ văn, phải kể đến hai cuốn
Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường THCS và Giáo dục kĩ năng
sống trong môn ngữ văn ở trường THPT xuất bản năm 2010 bởi nó có tầm ảnh

hưởng lớn đối với GV, có tính chất định hướng lựa chọn nội dung và phương pháp,
kĩ huật dạy học tích cực với việc GD KNS cho HS. Tuy nhiên, hai cuốn sách chỉ
mới dừng lại ở mức độ khái quát, chung chung về vấn đề GD KNS cho học sinh ở
các cấp học THCS và THPT.
Bên cạnh đó, có không ít bài viết, công trình nghiên cứu về dạy học đọc hiểu
văn bản văn học(VB VH) ở chương trình lớp 11song đối tượng mà chúng hướng
đến là các vấn đề nghiên cứu dạy học theo đặc trưng thể loại, đổi mới dạy học theo
hướng đối thoại, phát huy năng lực v.v... mà chưa đề cập đến việc tích hợp giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh.
Luận văn Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy học đọc - hiểu
văn bản văn học – chương trình ngữ văn 11 lựa chọn một vấn đề không quá mới
song thu hút nhiều quan tâm, trăn trở của những người trực tiếp làm nghề giáo dục
và cả những người xung quanh. Nó cụ thể các nội dung cũng như biện pháp thực
hiện tích hợp GD KNS trong dạy học đọc hiểu VB VH chương trình 11.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Đề xuất biện pháp dạy học tích hợp GD KNS cho HS qua bài đọc hiểu VB VH
một cách có hiệu quả để phát huy năng lực của học sinh và giá trị của môn học cũng
như tính thực tiễn của các nội dung học tập trong nhà trường

9


Hình thành và phát triển KNS tích cực cho HS lớp 11 và từ đó góp phần giáo
dục nhân cách người học, nâng cao chất lượng giáo dục với mục tiêu giáo dục toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tiền đề lí luận về KNS, GD KNS, dạy học tích hợp, tâm lí học lứa
tuổi học sinh lớp 11 để xây dựng cơ sở lí thuyết của đề tài.
Điều tra, khảo sát thực tế chương trình ngữ văn 11, thực tế dạy học tích hợp

GD KNS cho học sinh qua bài đọc hiểu VB VH chương trình ngữ văn 11 để nhận
thức thực trạng, lấy đó làm cơ sở thực tiễn của đề tài.
Đề xuất cách thức, phương pháp, nội dung tích hợp GD KNS trong dạy học
đọc hiểu VB VH chương trình ngữ văn 11
Tổ chức dạy học thực nghiệm, kiểm tra, đánh giá để đưa ra kết luận về tính
khả thi và hiệu quả của đề tài
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Vấn đề tích hợp GD KNS cho HS qua dạy học đọc hiểu VB VH chương trình
Ngữ văn 11
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về lí thuyết: nghiên cứu những lí thuyết về KNS, GD KNS, Dạy học tích hợp
Về thực tiễn: Giới hạn khảo sát điều tra ở 2 trường THPT trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình
Luận văn tập trung nghiên cứu và vận dụng giáo dục cho HS những KNS cơ
bản theo hướng dẫn trong tập sách Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thôngNXB Giáo dục bao gồm 21 kĩ năng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: sử dụng để phân tích tài liệu, xác lập lí
thuyết cho lí luận của luận văn
- Phương pháp điều tra, khảo sát: sử dụng để thu thập thông tin về đối tượng
học sinh, về các vấn đề nghiên cứu nhằm xác lập các thông số thực tiễn dạy học và
đánh giá năng lực của học sinh.

10


- Phương pháp thống kê:sử dụng để phân tích, đúc kết số liệu và kiểm tra,
đánh giá kết quả thực nghiệm nhằm đi đến đánh giá kết quả giải pháp.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: sử dụng để triển khai dạy học thực
nghiệm và kiểm tra đánh giá kết quả thực nghiệm.

- Bên cạnh đó còn kết hợp các phương pháp bổ trợ khác
6. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, nội dung tích hợp mà luận văn đề
xuất thì việc GD KNS cho HS qua dạy học đọc hiểu VB VH chương trình Ngữ văn
11 sẽ trở nên nhẹ nhàng, hiệu quả, tạo hứng thú học tập và rèn luyện tốt ở HS cũng
như thúc đẩy các mối quan hệ trong môi trường nhà trường trở nên thân hiện hơn,
tích cực hơn.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, phụ lục, tài liệu tham khảo luận văn
dự kiến triển khai theo ba chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh qua dạy học đọc hiểu văn bản văn học - chương trình ngữ văn 11
Chƣơng 2: Biện pháp tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy
học đọc hiểu văn bản văn học - chương trình ngữ văn 11
Chƣơng 3: Thực nghiệm sư phạm

11


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1 Khái niệm kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống
1.1.1.1 Kĩ năng sống
Kĩ năng, theo Từ điển tiếng Việt là “khả năng vận dụng những kiến thức đã
thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó áp dụng vào thực tế”. Rõ ràng, trong thực
tế, nhận thức và hành động không phải lúc nào cũng đồng nhất với nhau. Có kiến
thức nhưng khả năng vận dụng kém thì quả thật lãng phí và nếu hành động thiếu sự
chỉ dẫn của kiến thức thì khả năng đạt hiệu quả là không cao, đó là chưa kể có nguy

cơ bị lệch hướng, sai hướng. Do đó, cần phải có kĩ năng. Kĩ năng chính là cầu nối
giữa tri thức và hành động giúp các hoạt động của con người diễn ra suôn sẻ, đúng
với ý đồ và đem lại nhiều lợi ích lành mạnh.
Trên cơ sở nhận thức về kĩ năng như vậy, các nhà nghiên cứu, các tổ chức đã
đưa ra nhiều quan niệm về KNS. Theo WHO, “năng lực tâm lí xã hội là khả năng
ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó
cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh
thần biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác,
với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan
trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã
hội. KNS là khả năng thể hiện thực thi năng lực tâm lí xã hội này. Đó là năng lực
tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sông
hàng ngày”. Định nghĩa trên được xây dựng ở góc độ chú trọng sức khỏe thể chất và
tinh thần của con người nhằm đáp ứng và đối phó với những nhu cầu và thách thức
của cuộc sống đang diễn ra hàng giờ, hàng ngày.
Theo UNICEF, “giáo dục dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay
một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ, hành vi. Các
KNS giúp chúng ta chuyển đổi kiến thức “cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị “cái

12


chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế “làm gì và bằng cách
nào””. Quan niệm này tập trung vào hướng hình thành, phát triển và điều chỉnh hành
vi của con người để làm sao tạo được sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi.
Với UNESSCO(2003), “KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các
chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm cho hành vi
và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp con người có thể
kiểm soát, quản lí có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống
hàng ngày”. [19, tr. 9-13]

Có thể thấy, các cách hiểu khác nhau về KNS đều xuất phát từ việc nhìn nhận
nó dưới góc độ nào, rộng hẹp ra sao, đặc thù hoạt động của tổ chức và cá nhân đó là
gì... Song có thể thấy, điểm gặp gỡ của các quan niệm trên là ở chỗ đều coi KNS là
năng lực tâm lí xã hội của con người chuyển kiến thức thành các hành vi tích cực,
trau dồi các hành vi đó để con người làm chủ được bản thân, chủ động tích cực
trong các quan hệ xã hội cũng như ứng phó với các tình huống biến đổi, thách thức
của cuộc sống và điều này đặc biệt cần với giới trẻ.
Mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi cá nhân không thống nhất hoàn toàn về nội
hàm của khái niệm KNS tùy vào cách tiếp cận vấn đề của họ. Theo nghĩa hẹp, KNS
là những năng lực tâm lí xã hội, theo nghĩa rộng, nó không chỉ là các năng lực tâm
lí xã hội mà còn bao gồm những kĩ năng vận động. Luận văn sử dụng khái niệm
KNS của UNESSCO đã được trình bày ở trên.
Tùy vào cách quan niệm, cách nhìn nhận mà số lượng mà số lượng KNS và
tên gọi của những KNS sẽ khác nhau. Theo WHO, có ba nhóm KNS: Nhóm kĩ năng
nhận thức(bao gồm các kĩ năng cơ bản: tự nhận thức bản thân, tự đặt mục tiêu và
xác định giá trị, kĩ năng tư duy, kĩ năng sáng tạo, kĩ năng ra quyết định và kĩ năng
giải quyết vấn đề), nhóm kĩ năng liên quan đến cảm xúc(kĩ năng nhận biết và chịu
trách nhiệm về cảm xúc, kiềm chế và kiểm soát được cẩm xúc, tự giám sát, tự điều
chỉnh cảm xúc của các nhân), nhóm kĩ năng xã hội(kĩ năng giao tiếp- truyền thông,
cảm thông, chia sẻ, hợp tác, gây thiện cảm, thích ứng với cảm xúc của người
khác...). Theo UNESSCO thì KNS phải được phân chia dựa trên những kĩ năng nền
tảng cơ bản cũng như những kĩ năng chuyên biệt trong đời sống cá nhân của con
người ở những mối quan hệ khác nhau và ở những lĩnh vực khác nhau. Từ đó, có

13


thể có các nhóm KNS sau: Nhóm một – nhóm kĩ năng chung, nhóm này bao gồm
những lĩ năng cơ bản mà mỗi cá nhân đều có thể có để thích ứng với cuộc sống
chung, bao gồm các kĩ năng nhận thức, kĩ năng liên quan đến cảm xúc và các kĩ

năng cơ bản về xã hội. Nhóm hai – nhóm kĩ năng chuyên biệt, nhóm này bao gồm
một số KNS được thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như
các kĩ năng về sức khỏe và dinh dưỡng, các kĩ năng liên quan đến giới và giới tính,
các kĩ năng về vấn đề xã hội như rượu, ma túy thuốc lá, HIV/AIDS, các kĩ năng liên
quan đến môi trường thiên nhiên... Còn theo UNICEF, KNS được phân làm ba
nhóm cơ bản. Nhóm một là nhóm kĩ năng tự nhận thức và sống với chính mình.
Nhóm này bao gồm các kĩ năng như: tự nhận thức và đánh giá bản thân, kĩ năng xây
dựng mục tiêu cuộc sống, kĩ năng bảo vệ bản thân. Nhóm hai là nhóm kĩ năng tự
nhận thức và sống với người khác. Nhóm này gồm các kĩ năng : thiết lập quan hệ,
hợp tác, làm việc nhóm... Nhóm ba – nhóm kĩ năng ra quyết định và làm việc hiệu
quả. Nhóm này bao gồm các kĩ năng như: phân tích vấn đề, nhận thức thực tế, ra
quyết định, ứng xử, giải quyết vấn đề...[19, tr. 26 -32]
Ở Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phân chia ra 21 KNS tương ứng dành
cho thiếu niên Việt Nam:
(1)Kĩ năng tự nhận thức
(2)Kĩ năng xác định giá trị
(3)Kĩ năng kiểm soát cảm xúc
(4)Kĩ năng ứng phó với căng thẳng
(5)Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
(6)Kĩ năng thể hiện sự tự tin
(7)Kĩ năng giao tiếp
(8)Kĩ năng lắng nghe tích cực
(9)Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
(10)Kĩ năng thương lượng
(11)Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn
(12)Kĩ năng hợp tác
(13)Kĩ năng tư duy phê phán

14



(14)Kĩ năng tư duy sáng tạo
(15)Kĩ năng ra quyết định
(16)Kĩ năng giải quyết vấn đề
(17) Kĩ năng kiên định
(18)Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm
(19)Kĩ năng đạt mục tiêu
(20)Kĩ năng quản lí thời gian
(21)Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin
Mỗi kĩ năng trên đều được xác định nội hàm khái niệm với những nội dung đặc
điểm rất rõ ràng cũng như ý nghĩa quan trọng của nó đối với con người trong quá
trình sống. Đánh giá một cách khái quát, qua các cách xác định kĩ năng đã nói ở trên
thì đứng ở góc độ nào, KNS cũng được tập trung quan tâm ở 3 khía cạnh: giúp cá
nhân tự tin thể hiện bản thân, có cách thức rèn luyện những phẩm chất và năng lực
riêng, biết chấp nhận và sống chung với mọi người xung quanh một cách tốt nhất.
1.1.1.2 Giáo dục kĩ năng sống
Để hình thành kĩ năng, không thể có con đường nào khác ngoài hành động. Kĩ
năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hay một nhóm hành động nào đó đến
mức thuần thục để tạo kết quả như mong đợi. Nó luôn có tính chủ đích và tính định
hướng rõ ràng, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn. Bất cứ một kỹ năng nào được
hình thành nhanh hay chậm, bền vững hay lỏng lẻo đều phụ thuộc vào sự chủ động,
tự giác, khát khao, quyết tâm, năng lực tiếp nhận của chủ thể, cách luyện tập, tính
phức tạp của chính kỹ năng đó. Đặc biệt đối với HS, lứa tuổi nhất thiết phải có sự
định hướng, giáo dục thì quá trình hình thành và rèn luyện KNS, không thể thiếu sự
quan tâm, giúp đỡ của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong môi trường nhà trường,
KNS phải được hình thành cho học sinh thông qua con đường hoạt động đặc thù:
hoạt động giáo dục. KNS muốn trở nên bền vững và thấm nhuần trong người học
thì phải có sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi. Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị
Mĩ Lộc: “Giáo dục kĩ năng sống là một quá trình với những hoạt động giáo dục cụ
thể nhằm tổ chức, điều khiển để học sinh biết cách chuyển tải những cái gì mình

biết(nhận thức), những cái gì mình cảm nhận(thái độ) và những cái gì mình quan

15


tâm(giá trị) thành những khả năng thực thụ giúp học sinh biết phải làm gì và làm
như thế nào(hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống” [20, tr.108
- 109]. Từ quan niệm về KNS, quan niệm về giáo dục mà chúng tôi quan niệm về
GD KNS như sau: GD KNS là một quá trình giáo dục cho HS có cách sống tích
cực, trong sáng, điều chỉnh, thay đổi những hành vi tiêu cực để đạt được mục tiêu
phát triển nhân cách người học trong môi trường xã hội hiện đại.
Có thể khẳng định rằng, GD KNS có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
người học.
Trước hết, nó định hướng phát triển cá nhân và xã hội theo hướng tích cực.
Trong thực tiễn, nhận thức và hành vi của con người có một khoảng cách và không
phải lúc nào nhận thức đúng là có hành vi đúng. Ví dụ như những người sử dụng
thực phẩm bẩn trong chế biến thức ăn, họ cũng biết về sự nguy hại của nó đối với
sức khỏe đồng loại nhưng vì lợi ích kinh doanh, họ vẫn sử dụng hay những người
am hiểu pháp luật như luật sư, công an... vẫn vi phạm pháp luật. Như đã nói ở trước,
KNS là sự chuyển hóa nhận thức thành hành động trong hoạt động cụ thể, nó giúp
con người biến nhận thức đúng thành thái độ và hành vi tích cực, lành mạnh. Người
có KNS sẽ làm chủ được cuộc sống của mình, luôn chủ động trong mọi tình huống
xảy ra và giải quyết nó một cách hài hòa, tốt đẹp nhất. Còn nếu như không có KNS,
con người sẽ trở nên bối rối, lúng túng thậm chí là sai lầm, thất bại. Chẳn hạn như
một người không có kĩ năng kiểm soát cảm xúc, trạng thái kích động hay hưng phấn
của anh ta sẽ khiến cho việc nhận định tình hình và thể hiện hành vi không được
chuẩn xác, nguy cơ làm ảnh hưởng chất lượng công việc và quan hệ xã hội bị ảnh
hưởng. Hoặc nữa, nếu một người không có kĩ năng quản lí thời gian thì cuộc sống
dễ dàng bị đẩy đến trạng thái mất cân bằng vì áp lực thời gian hay dư thừa thời gian
lãng phí mà hiệu quả công việc không cao.... Từ việc thúc đẩy phát triển bản thân

con người, GD KNS còn thôi thúc phát triển xã hội, ngăn ngừa các vấn đề tiêu cực
đặc biệt là trong việc bảo vệ và phát huy quyền con người. Mỗi một người có KNS
tốt sẽ cải thiện và đi đến đẩy lùi các vấn nạn xã hội, nhân rộng các hành vi mang
tính tích cực trong xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.

16


Bên cạnh đó, GD KNS còn là vấn đề cấp thiết để hạn chế các hành vi vi phạm
pháp luật, vi phạm đạo đức của học sinh. Báo chí, truyền thông gần đây nêu lên
không ít hiện tượng đáng lo ngại trong giới HS như : nghiện hút, bạo lực học
đường, ăn chơi sa đọa, vô lễ với giáo viên, làm nhục người khác... thậm chí là giết
người. Nguyên nhân của những điều trên xét ở phía chủ thể hành vi là do thiếu KNS
trầm trọng. Các em không có kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng
giao tiếp, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng kiểm soát cảm xúc... Thế hệ trẻ
chính là lực lượng quyết định sự tồn vong của quốc gia trong tương lại. Độ tuổi này
lại có những đặc điểm tâm lí như bốc đồng, dễ bị lôi kéo, dễ bị kích động... do đó
nếu thiếu sự giáo dục sẽ gây ra những mối hại khó lường. Đặc biệt trong bối cảnh
xã hội hiện đại có quá nhiều yếu tố pha tạp tốt xấu, đúng sai, những giá trị chưa
được khẳng định thì nguy cơ người trẻ sa vào các hành vi tiêu cực, lối sống thực
dụng, lai căng và sự phát triển lệch lạc về mặt nhân cách là rất cao. Do đó, nhất thiết
phải GD KNS cho các em để các em có thể thực hiện trách nhiệm đối với bản thân,
với gia đình và xã hội.
Xét ở phương diện ngành thì GD KNS cho HS chính là đang thực hiện mục
tiêu của giáo dục Việt Nam và nó là một trong nhưng nội dung đổi mới ở giáo dục
phổ thông đang được chú trong những năm gần đây. Một nền giáo dục thành công
chính là đào tạo ra được những sản phẩm chất lượng. Chất lượng của sản phẩm giáo
dục được thẩm định bằng chính thực tế cuộc sống sôi động hằng ngày khi HS đối
diện với vô vàn những vấn đề. Nếu HS có KNS để ứng xử, hành động tích cực thì
rõ ràng, nền giáo dục ấy đã mang lại kết quả đáng mừng.

1.1.2 Vấn đề dạy học theo hướng tích hợp
1.1.2.1 Khái niệm tích hợp
Theo tài liệu tập huấn Dạy học tích hợp ở trường THCS , THPT năm 2014 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, tích hợp(integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hòa nhập,
sự kết hợp. Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là
sự hợp nhất hay nhất thể hóa các bộ phận khác nhau để đưa tới một đối tượng mới
như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối
tượng chứ không phải là phép cộng giản đơn của những thuộc tính của các thành
phần ấy. [5, tr.8]

17


Tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau
đó là tính liên kết và tính toàn vẹn. Nhờ có tính liên kết mà có thể tạo nên một thực
thể toàn vẹn trong đó không cần phân chia giữa các thành phần kết hợp. Còn tính
toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết chứ không phải sự
sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. Không thể coi là tích hợp nếu các tri thức kĩ
năng không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hoặc giải
quyết một vấn đề tình huống. [5, tr.8]
1.1.2.2 Quan điểm dạy học tích hợp và mục tiêu của dạy học tích hợp
Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế chính
trong việc xác định nội dung dạy học ở nhà trường phổ thông và trong xây dựng
chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây dựng
trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình dạy học. Theo
từ điển giáo dục học: dạy học tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên
cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong
cùng một kế hoạch dạy học. Dạy học tích hợp theo nghĩa hẹp là: việc đưa những vấn
đề về nội dung của nhiều môn học vào một giáo trình duy nhất trong đó những khái
niệm khoa học được đề cập đến theo một tinh thần và phương pháp thống nhất.

Mục tiêu của dạy học tích hợp trước hết đó là tránh trùng lặp về nội dung
thuộc các môn học khác nhau. Các khái niệm đã học trong cùng một môn học thậm
chí là giữa các môn học khác nhau có môi liên hệ với nhau nhưng nếu không đặt
chúng trong một quan hệ có tính hệ thống thì sẽ rất rời rạc. Dạy học tích hợp giúp
tạo ra mối liên hệ ấy một cách chặt chẽ đồng thời giúp tránh những kiến thức, kĩ
năng, nội dung trùng lặp khi nghiên cứu từng môn học nhưng lại có những nội
dung, kĩ năng mà nếu theo môn học riêng rẽ sẽ không có được. Do đó, nó vừa tiết
kiệm thời gian, vừa có thể phát triển kĩ năng, năng lực xuyên môn cho học sinh
thông qua giải quyết các vấn đề phức hợp. Thực hiện dạy học tích hợp giúp xác
định rõ mục tiêu, phân biệt cái cốt yếu và cái ít quan trọng hơn khi lựa chọn nội
dung. Cần tránh đặt các nội dung học tập ngang bằng nhau do có một số nội dung
học tập quan trọng hơn vì chúng thiết thực cho cuộc sống hàng ngày và vì chúng là
cơ sở cho quá trình học tập tiếp theo. Từ đó có thể dành thời gian cho việc nâng cao

18


kiến thức cho học sinh khi cần thiết. Bên cạnh đó, thực hiện môn học tích hợp, các
quá trình học tập không bị cô lập với cuộc sống hàng ngày, các kiến thức gắn liền
với kinh nghiệm sống của học sinh và được liên hệ với các tình huống cụ thể, có ý
nghĩa đối với học sinh. Khi đó, học sinh được dạy sử dụng kiến thức trong những
tình huống cụ thể và việc giảng dạy kiến thức không chỉ là lí thuyết mà còn phục vụ
thiết thực cho cuộc sống con người để làm người lao động, người công dân tốt...
Mặt khác các kiến thức sẽ không bị lạc hậu do thường xuyên được cập nhật với
cuộc sống. Thực hiện dạy học tích hợp còn giúp phát triển những năng lực giải
quyết các vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với học
sinh so với các môn học, ác mặt giáo dục riêng rẽ. Như vậy, tích hợp là một trong
những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo
những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc
sống hiện đại. Đó cũng là con đường để phát huy tính tích cực của học sinh cũng

như góp phần đổi mới nội dung và phương pháp dạy học. [5, tr10-11]
Trong dạy học, có các kiểu tích hợp như sau: Tích hợp các bộ môn, tích hợp
dọc, tích hợp ngang, tích hợp chương trình, tích hợp kiến thức, tích hợp kĩ năng.
Lợi ích của dạy học tích hợp là quá rõ ràng song không thể tùy tiện vận dụng
nó trong dạy học. Việc lựa chọn nội dung tích hợp nhất thiết phải kĩ càng và đảm
bảo các nguyên tắc sau.
Nội dung tích hợp đảm bảo mục tiêu giáo dục, hình thành và phát triển các
năng lực cần thiết cho người học. Theo Dự thảo Đề án đổi mới chương trình, sách
giáo khoa phổ thông sau năm 2015 ở Việt Nam, phát triển năng lực người học là
một định hướng quan trọng. Do đó, việc lựa chọn nội dung bài học hay chủ đề tích
hợp phải hướng tới việc phát triển những năng lực cần thiết của con người trong xã
hội mới, thời đại mới như các năng lực: giải quyết vấn đề, sáng tạo, giao tiếp...
Nội dung tích hợp đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội, mang tính thiết
thực, có ý nghĩa với người học. Việc lựa chọn nội dung tích hợp cần bớt hàm lượng
hàn lâm mà nên lựa chọn những tri thức thiết thực, có ý nghĩa và gắn bó với cuộc
sống của người học đồng thời đáp ứng được những yêu cầu của một xã hội đầy biến
động trong giai đoạn hội nhập.

19


Đảm bảo tính khoa học và tiếp cận những thành tựu của khoa học kĩ thuật,
đồng thời vừa sức với học sinh là nguyên tắc thứ ba trong việc lựa chọn nội dung
tích hợp. Có thể thấy, nguyên tắc này đòi hỏi sự nhạy bén của giáo viên trong tiếp
nhận và truyền thụ kiến thức cho học sinh cũng như khả năng tìm hiểu đối tượng
giáo dục. Kiến thức tích hợp luôn luôn phải cập nhật đồng thời với sự phát triển vũ
bão của khoa học kĩ thuật song cần vừa sức với học sinh để tránh quá tải dẫn đến
không hiệu quả.
Nội dung tích hợp phải đảm bảo tính giáo dục và giáo dục vì sự phát triển bền
vững. Tính giáo dục thể hiện ở chỗ là nội dung được lựa chọn góp phần hình thành

và bồi dưỡng cho học sinh không chỉ nhận thức về thế giới mà còn thái độ tích cực
với thế giới, bồi dưỡng những phẩm chất của người công dân trong thời đại mới:
yêu quê hương, đất nước; trách nhiệm với gia đình, xã hội; hợp tác, đoàn kết...
Nhưng sự giáo dục đó phải hướng đến tính chất bền vững. Không phát triển bền
vững, thế giới hiện đại không có tương lai trong khi đó, giáo dục là một công cụ chủ
chốt và hữu hiệu.
Tăng tính hành dụng, tính thực tiễn; quan tâm đến vấn đề mang tính xã hội của
địa phương là nguyên tắc tiếp theo khi lựa chọn nội dung tích hợp trong giáo dục.
Chính tính hành dụng và tính thực tiễn sẽ rèn luyện cho học sinh kĩ năng vận dụng
kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tế, trong một chừng mực nào đó, nó sẽ
giúp các em đáp ứng được một phần nào đó những yêu cầu của cuộc sống. Còn việc
quan tâm đến vấn đề mang tính xã hội của địa phương nhằm giúp học sinh có
những hiểu biết căn bản về môi trường mình sinh sống để có tâm thế chủ động, sẵn
sàng tham gia vào các hoạt động cụ thể ở địa phương.
Nguyên tắc cuối cùng cần lưu ý khi lựa chọn nội dung tích hợp đó là việc xây
dựng các bài học/ chủ đề tích hợp cần dựa trên chương trình hiện hành. Xây dựng
trên nền tảng chương trình sẽ đảm bảo tính khả thi của hoạt động tích hợp, tăng
cường sự hỗ trợ của các nội dung học tập, các môn học để giá trị của việc tích hợp
được phát huy. [5, tr19-22]
Các nguyên tắc trên đã được bộ giáo dục định hướng, chỉ đạo trong các tài liệu
về dạy học tích hợp ở trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. Xét thấy, việc
lựa chọn nội dung tích hợp là GD KNS cho học sinh lớp 11 qua dạy học đọc hiểu
VB VH là đã đảm bảo các nguyên tắc trên.

20


1.1.3 Cơ sở tâm lí nhận thức của học sinh lớp 11
HS lớp 11 có độ tuổi từ 17-18, thuộc giai đoạn vị thành niên. Đây là độ tuổi
diễn ra những biến đổi phức tạp về thể chất cũng như tinh thần.

Về mặt sinh lí, ở độ tuổi này, các em đã phát triển đạt đến mức gần trưởng
thành. Chiều cao và trọng lượng cơ thể không còn tăng trưởng nhanh như lứa tuổi
trước song các tố chất thể lực như sức mạnh, độ dẻo dai... đều tăng lên. Cấu tạo và
chức năng hệ thần kinh phức tạp hơn trong khi trọng lượng não tăng không đáng
kể.Do đó, tu duy, ngôn ngữ và các phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển.[19, tr.44]
Nhận thức, trí tuệ của tuổi vị thành niên đã bước vào giai đoạn hoàn thiện. Các
nghiên cứu tâm lí học cho thấy hoạt động tư duy của thanh niên rất tích cực và có
tính độc lập. Tư duy lí luận phát triển mạnh. Thanh niên có khả năng và rất ưa thích
khái quát các vấn đề. Sự phát triển mạnh của tư duy lí luận liên quan chặt chẽ đến tư
duy sáng tạo. Nhờ khả năng khái quát mà thanh niên phát hiện ra những cái mới. Sự
tự ý thức của lứa tuổi này cũng phát triển. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, sự tri giác
của thanh niên nhạy bén nhưng chưa chuẩn xác. Do thiếu kĩ năng, kĩ xảo nên sự
quan sát thường phân tán, vội vàng, rút ra kết luận khi chưa đủ bằng cớ cần thiết
cũng như hoạt động tư duy còn thiếu tính độc lập, chưa chú ý phát huy hết năng lực
độc lập suy nghĩ, vội vàng kết luận theo cảm tính. [19, tr.44-45]
Trong vấn đề giao tiếp, lứa tuổi này chú trọng giao tiếp bạn bè hơn hẳn giao tiếp
với người lớn hoặc nhỏ tuổi hơn. Sự giao tiếp bạn bè trong giai đoạn này là nhu cầu,
là yếu tố cần thiết và thậm chí là đóng vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát
triển nhân cách của các em. Bên cạnh nhu cầu giao tiếp, trẻ vị thành niên còn có nhu
cầu xác định vị trí xã hội. Đây chính là sự thể hiện của nhu cầu tự khẳng định, đòi hỏi
xã hội công nhận các quyền lợi và nghĩa vụ xã hội của mình. [19, tr.45-46]
Đặc điểm nhân cách của lứa tuổi vị thành niên cũng có nhiều điểm biến đổi so
với trước, đặc biệt là vấn đề tự ý thức và hình thành thế giới quan. Các em đã có thể
tự ý thức về những phẩm chất đạo đức, tính cách và khả năng của mình. Mức độ tự
ý thức của mỗi em lại khác nhau và không phải toàn bộ những phẩm chất của nhân
cách đều được các em ý thức hết. Về cách thức, ban đầu, trẻ vị thành niên còn dựa
vào người lớn có uy tín với mình trong các đánh giá rồi sau đó mới dần dần hình

21



×