Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2003 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.57 KB, 37 trang )

THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2003 2010
2.1. Tình hình huy động vốn trái phiếu Chính phủ
2.1.1. Tình hình huy động vốn
2.1.1.1. Tín phiếu kho bạc
Trong các đợt phát hành, tín phiếu kho bạc thường có các kỳ hạn 3-6 tháng. Lãi suất
phát hành tín phiếu kho bạc được xác định trên cơ sở kết quả từng đợt đấu thầu.. Việc đấu
thầu tín phiếu kho bạc được thực hiện theo một trong hai hình thức đấu thầu cạnh tranh lãi
suất, hoặc kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đầu thầu không cạnh tranh lãi suất.
Bảng 1.1: Kết quả phát hành Tín Phiếu KB qua KBNN
giai đoạn 2003-2007
Số TT Năm Khối lượng
(tỉ đồng)
Lãi suất
(%/tháng)
Kì hạn
(tháng)
1 2003-2004 3842 0.9 3-6
2 2005 2234 0.8-1 3-6
3 2006 5214 0.9 6
4 2007 3129 0.9-1.1 6
Cộng 14.419
Nguồn: Vụ đầu tư-BTC
Hoạt động tín phiếu kho bạc qua NHNN đã đem lại những kết quả thiết thưc. Qua
nhiều năm hoạt động thì thị trường tín phiếu kho bạc đã phát triển về cả quy mô lẫn tần
suất thực hiện. Hầu hết là khối lượng huy động năm sau nhiều hơn năm trước và đây cũng
chính là nguồn để bù đắp thiếu hụt NSNN, lãi suất ngày càng ổn định, tăng giảm theo đúng
giá trị của thị trường theo từng năm.
2.1.1.2. Trái phiếu kho bạc
Kho bạc Nhà nước đã thực hiện nhiệm vụ phát hành trái phiếu huy động vốn đầu tư
cho các công trình trọng điểm của nền kinh tế. Ngày 24/9/2003, Bộ chính trị đã ban hành


chỉ thị số 28-CT/TW và Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết số 414/2003/NQ-
UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 182/2003/QĐ-TTg về việc phát
hành trái phiếu Kho bạc để đầu tư một số công trình giao thông thuỷ lợi quan trọng của đất
nước giai đoạn 2003 – 2010 như: Dự án đường Hồ Chí Minh, vành đai biên giới phía Bắc,
Hành lang Côn Minh- Hải phòng, các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện.
Bảng 1.2: Kết quả phát hành Trái Phiếu KB qua KBNN
giai đoạn 2003-2007
Số TT Năm
Khối lượng trúng
thầu
(tỉ đồng)
Lãi suất trúng
thầu (%)
Lãi suất trần
(%)
1 Năm 2003 600 8.2 8.5
2 Năm 2004 1.333 8,3 – 8,35 8.5
3 Năm 2005 231 7,4 - 8,6 8.7
4 Năm 2006 235 8,7 8,7
5 Năm 2007 935,7 9,35-9,5 9,7
Tổng 3.334,7
Nguồn: Vụ đầu tư-BTC
Chính phủ đã phát hành nhiều đợt TPKB với các khối lượng và lãi suất khác nhau,
như đợt 1 năm 2003 đã phát hành lô đầu tiên với lãi suất 8.2%/năm, đến 2005 phát hành
với lãi suất 8.4%/năm …
2.1.1.3. Trái phiếu công trình trung ương
Trong đợt phát hành trái phiếu công trình đợt 1, số tiền thu được đạt gần 4.500 tỷ
VND và trên 31 triệu USD, vượt hơn 10% kế hoạch. Trong đó, số tiền thu được qua đợt
phát hành này chủ yếu dưới hình thức qua Kho bạc Nhà nước, đạt trên 2.400 tỷ VND, và
hơn 22 triệu USD, bảo lãnh khoảng 1.400 tỷ VND, đấu thầu qua ngân hàng Nhà nước là 9

triệu USD.
Trong đợt 2, KBNN phát hành gần 10000 tỉ đồng. Trái phiếu công trình phát hành
trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, đây là một kênh huy động nguồn
vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để đầu tư cho các công trình (chủ yếu là cơ sở hạ
tầng). Việc phát hành trái phiếu công trình cũng làm phong phú và đa dạng hoá các loại
hình trái phiếu trên thị trường. Đồng thời, trái phiếu công trình TW đã được sử dụng trong
các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở, qua đó tạo thuận lợi thu hút thêm các thành viên
tham gia vào thị trường, nâng cao khả năng điều tiết tiền tệ của NHNN. Nhờ có nguồn
vốn huy động từ kênh phát hành này mà một số công trình (YaLy, Định Công... ) đã có
nguồn vốn để đẩy nhanh tiến độ của dự án, sớm đưa các dự án đi vào hoạt động, khai thác
có hiệu quả, tạo ra nguồn thu ổn định đảm bảo thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, qua
đó nâng cao uy tín, tạo đà thuận lợi cho các đợt phát hành tiếp theo.
2.1.1.4. Trái phiếu đầu tư
Lần đầu tiên trái phiếu Chính phủ đầu tư cho y tế sẽ được phát hành trong giai đoạn
từ nay đến 2010. Lượng trái phiếu sẽ được phát hành lên đến 4.000 tỷ đồng. Số tiền này sẽ
được đầu tư cho bệnh viện tuyến huyện ở 64 tỉnh thành trong cả nước, với quy mô 50 -
380 giường bệnh/bệnh viện.
2.1.1.5. Trái phiếu ngoại tệ
Nghị định số 141/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 20/11/2003 đã mở ra
một kênh huy động vốn để đầu tư phát triển các công trình trọng điểm của đất nước, trong
năm 2003 và 2004 Bộ Tài chính (KBNN) đã phát hành trái phiếu Chính phủ có mệnh giá
bằng USD. Phát hành trái phiếu Chính phủ có mệnh giá bằng ngoại tệ, là một bước đi mới
trong công tác phát hành trái phiếu Chính phủ, tạo cơ hội đầu tư mới, giúp người dân làm
quen với hình thức đầu tư trái phiếu có mệnh giá bằng ngoại tệ.
Bảng 1.3 : Kết quả huy động TPCP có mệnh giá bằng ngoại tệ
giai đoạn 2003-2004
Năm Kì hạn
(năm)
Lãi suất
(%/năm)

Số tiền huy động
(USD)
Năm 2003 32.794.000
Bán lẻ 5 3,5 23.794.000
Đấu thầu qua NHNN 5 3,4 9.000.000
Năm 2004 44.358.000
Bán lẻ 5 3,5 38.858.000
Đấu thầu qua NHNN 5 3,5 5.500.000
Tổng
77.152.000
Nguồn:Vụ đầu tư-BTC
300 triệu USD trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ sẽ được đấu thầu trong ba đợt và
bắt đầu từ ngày 24/3, với đợt đầu tiên dành cho 100 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 1 năm.
Các kỳ hạn tiếp theo, 100 triệu USD kỳ hạn 2 năm đấu thầu vào 24/3 và 100 triệu USD kỳ
hạn 3 năm đấu thầu vào vào 27/3. Phiên đấu giá đầu tiên phát hành Trái phiếu Chính phủ
bằng ngoại tệ đã thắng lớn khi 100 triệu USD chào bán đã được mua hết với lãi suất chỉ
3%/năm. Phiên này chào bán trái phiếu ngoại tệ đã rất hấp dẫn các tổ chức đầu tư khi số
lượng thành viên tham gia dự thầu là 30 thành viên với tổng khối lượng dự thầu lên tới 766
triệu USD, gấp 7,66 lần khối lượng gọi thầu.
Hai phiên đấu giá kỳ hạn 2 năm và 3 năm tiếp theo thì bán không hết hàng do các
nhà đầu tư không đạt được kỳ vọng về lãi suất. Ngày 27/3, cũng như các lần trước, trái
phiếu ngoại tệ vẫn thu hút được sự quan tâm của khách hàng là các tổ chức tài chính. Số
lượng mua lên đến 362,1 triệu USD, gấp 3,6 lần số lượng chào bán 100 triệu USD. Tuy
nhiên, cuối cùng, số lượng trúng thầu chỉ là 50,1 triệu USD. Trái phiếu Chính phủ ngoại tệ
kỳ hạn 3 năm bị ế gần một nửa. Nhà đầu tư đặt mua số lượng nhiều nhưng bán ít được vì
họ không đạt được kỳ vọng về lãi suất. Lãi suất khống chế trần do Bộ Tài chính đưa ra chỉ
là 3,6%/năm. Trong khi đó thì các nhà đầu tư đều kì vọng lãi suất 7%/năm.
2.1.1.6. Công trái xây dựng tổ quốc
Trong giai đoạn từ năm 2003 thì Bộ Tài chính (KBNN) đã tổ chức thành công 2 đợt
phát hành công trái XDTQ vào năm 2003 và năm 2005. Mục tiêu là huy động vốn để đầu

tư cho các mục tiêu chương trình quốc gia. Năm 2003, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội
và Nghị định của Chính phủ, Bộ Tài chính (KBNN) đã tổ chức thành công đợt phát hành
công trái XDTQ (công trái giáo dục đợt I), huy động vốn trong xã hội để thực hiện mục
tiêu “ xoá phòng học ba ca và tranh tre nứa lá” ở các tỉnh miền núi, tây nguyên và các tỉnh
còn nhiều khó khăn. Công trái giáo dục có kỳ hạn 5 năm, lãi suất cố định 40%/5 năm và
được thanh toán một lần cùng với tiền gốc khi đến hạn. Theo đến ngày 2/5/2005 Bộ Tài
chính (KBNN) tổ chức phát hành công trái giáo dục đợt II, công trái có kỳ hạn 5 năm,
khối lượng huy động trên 10.000 tỷ đồng để hỗ trợ các tỉnh miền núi, Tây nguyên và các
tỉnh còn khó khăn tiếp tục thực hiện mục tiêu xoá phòng học ba ca và tranh tre nứa lá và
kiên cố hoá trường lớp học.
Bảng 1.4 : Kết quả phát hành công trái XDTQ giai đoạn 2003-2005
Năm phát hành Khối lượng đã
huy động
(tỉ đồng)
Kì hạn
(năm)
Lãi suất
(%/năm)
Tỉ lệ hoàn thành
(%)
2003 2.580 5 8 129
2005 4.496 5 10 116
Cộng 7.076
Nguồn: Vụ đầu tư-BTC
Công trái XDTQ phát hành năm 2003 và năm 2005 đã nhận được sự hưởng ứng
nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân, các cơ quan và tổ chức trên địa bàn cả nước. Thành
công của hai đợt phát hành công trái XDTQ là đã huy động được vượt mức kế hoạch vốn
đã đề ra, đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vốn để đầu tư cho các mục tiêu chưng trình quốc
gia, đồng thời cũng là một bước tiến mới trong công tác phát hành TPCP, từng bước tạo
điều kiện cho người dân làm quen với hình thức đầu tư trung hạn.

2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn trái phiếu Chính phủ
2.1.2.1. Nhân tố khách quan
- Nhân tố về kinh tế: mặc dù trong mấy năm gần đây, đất nước ta có tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế cao, tuy nhiên, vẫn có nhiều khó khăn do trình độ phát triển
kinh tế chưa cao với dân cư đang còn nghèo nên việc huy động vốn trong nhân dân cũng
đang gặp nhiều khó khăn.
- Nhân tố về thu nhập: Thu nhập bình quân đầu ngươi trong cả nước còn thấp, tỷ lệ
hộ đói nghèo còn cao, tích luỹ trong dân cư chưa lớn, chưa đồng đều mà chỉ tập trung vào
một số hộ, một số doanh nghiệp tư nhân. Trình độ dân trí thấp nên việc phát hành trái phiếu
Chính phủ của Kho bạc để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư chưa đạt hiệu quả cao.
- Nhân tố lạm phát: Do tình hình lạm phát còn lớn, đồng tiền vẫn bị mất giá, do vậy
rủi ro là không tránh khỏi. Dù lãi suất cao nhưng tiền mất giá thì lãi suất không bù được
vốn gốc, người dân mua trái phiếu Kho bạc phải chịu lãi suất âm. Đó là lý do khiến người
dân không dám mạo hiểm bỏ tiền vào mua trái phiếu Chính phủ. Do đó, lạm phát cũng là
một nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động vốn của KBNN.
2.1.2.2. Nhân tố chủ quan
- Nhân tố lãi suất: Đây là nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới việc huy động vốn. Người
dân mua trái phiếu Chính phủ trước tiên phải xem xét yếu tố lãi suất vì cho Nhà nước vay
cũng là đầu tư gián tiếp, mà đầu tư phải sinh lợi, ít nhất là sinh lợi đó phải bằng lợi tức
bình quân của các ngành kinh tế đạt được sau khi bảo toàn vốn. Song lãi suất Chính phủ
chưa hấp dẫn được người dân trong khi người dân có thói quen gửi tiết kiệm Ngân hàng vì
lãi suất Ngân hàng cao hơn, linh hoạt hơn, dễ rút vốn hơn.
Thực tế đã có nhiều đợt lãi suất Ngân hàng cao hơn nên dân đã rút tiền ra chịu không
hưởng lãi để quay sang gửi tiết kiệm Ngân hàng. Hiện nay lãi suất trái phiếu Chính phủ đã
phần nào hấp dẫn được dân chúng, do vậy việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu
Chính phủ ở hệ thống KBNN đã tăng lên.
- Nhân tố thông tin, tuyên truyền: Do thông tin, tuyên truyền còn hạn chế, chưa tổ
chức được mạng lưới tuyên truyền rộng rãi trên địa bàn cả nước, chưa có hoạt động
Marketing chuyên sâu nên người dân chưa quen với trái phiếu Chính phủ. Tập quán cho
Nhà nước vay dài hạn chưa hình thành vững chắc trong dân cư nên họ chưa tin vào tương

lai của việc mua trái phiếu.
- Nhân tố về tổ chức công tác huy động vốn: Việc tổ chức phát hành trái phiếu
Chính phủ tại các địa bàn như thế nào cũng là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn tới việc
huy động vốn.
2.2. Thực trạng sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ
2.2.1. Nguyên tắc phân bổ, sử dụng nguồn vốn
2.2.1.1. Phân bổ, sử dụng nguồn vốn
Tập trung vốn đầu tư cho các dự án theo thứ tự ưu tiên, đảm bảo bố trí đủ vốn để
hoàn thành dứt điểm dự án, đáp ứng yêu cầu bức thiết của dự án. Mức vốn bố trí hàng năm
của các dự án căn cứ vào nhu cầu đăng ký vốn thanh toán theo tiến độ thực hiện của dự án
và khả năng huy động trái phiếu Chính phủ. Việc đăng ký nhu cầu về mức vốn trái phiếu
Chính phủ hàng năm thực hiện theo thời hạn quy định như lập dự toán ngân sách nhà
nước, nhưng được lập riêng cho các dự án đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Căn cứ vào tiến độ đầu tư đã được xác định và tình hình thực hiện các dự án, các Bộ và Ủy
ban nhân dân các tỉnh đăng ký nhu cầu về mức vốn trái phiếu Chính phủ hàng năm của
từng dự án, gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, làm căn cứ huy động
và bố trí vốn trái phiếu Chính phủ, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Kế hoạch vốn
đăng ký phải đảm bảo phù hợp tình hình thực hiện, không đăng ký vượt khả năng giải
ngân của dự án, dẫn tới thừa vốn huy động, gây lãng phí cho Nhà nước.
Mức vốn đã đăng ký trong năm được thanh toán đến hết ngày 31 tháng 01 năm sau.
Bảo đảm bố trí vốn không vượt quá tổng mức đã được thông báo giao chỉ tiêu theo ngành,
lĩnh vực, tổng số vốn thanh toán cho dự án không được vượt tổng mức vốn trái phiếu
Chính phủ đã bố trí cho dự án cho cả thời kỳ 2003-2010.
2.2.1.2. Điều chỉnh mức vốn thanh toán
Nếu tiến độ thực hiện và nhu cầu vốn thanh toán thực tế trong năm của các dự án có
thay đổi so với mức vốn đăng ký đầu năm, các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh thực hiện
điều chỉnh giảm mức vốn của các dự án không có khả năng thực hiện, tăng mức vốn cho
các dự án có khả năng thực hiện vượt tiến độ. Việc điều chỉnh vốn đảm bảo nguyên tắc
không được vượt vốn của từng dự án, không vượt vốn theo ngành và không vượt tổng mức
vốn trái phiếu Chính phủ đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho cả giai đoạn 2003-2010.

Để phù hợp với thời điểm phát hành trái phiếu Chính phủ, thời gian điều chỉnh mức vốn
đầu tư hàng năm kết thúc vào ngày 31 tháng 10. Các Bộ, UBND các tỉnh gửi báo cáo điều
chỉnh mức vốn các dự án (nếu có) về Bộ Tài chính để làm căn cứ thông báo vốn và chủ
động điều chỉnh mức phát hành trái phiếu Chính phủ.
Đối với các dự án đang đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước nay được đầu
tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ hoặc các dự án được đầu tư bằng nhiều nguồn
vốn, vốn trái phiếu Chính phủ chỉ bố trí để đầu tư tiếp và trong phạm vi nguồn vốn trái
phiếu Chính phủ đã được quyết định, không thanh toán cho phần vốn ngân sách nhà nước
và các nguồn vốn khác đã bố trí cho dự án. Các dự án đã được ứng trước vốn ngân sách
nhà nước được bố trí vốn trái phiếu Chính phủ để hoàn ứng. Số vốn hoàn ứng được bố trí
trong nhu cầu vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ hàng năm và được thu hồi bằng
cách trừ vào mức thanh toán vốn đầu tư của dự án. Đối với các dự án do địa phương quản
lý đã được Bộ Tài chính ứng vốn trong các năm trước, Ủy ban nhân dân các tỉnh bố trí vào
nhu cầu vốn trái phiếu Chính phủ năm 2006, 2007 để hoàn ứng. Bộ Tài chính chuyển vốn
cho địa phương, đồng thời thu hồi số vốn đã ứng trước. Các dự án đang đầu tư bằng nguồn
vốn tín dụng nhà nước nay được chuyển sang đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ
thì được tiếp tục giải ngân vốn tín dụng theo kế hoạch và hợp đồng tín dụng đã ký và chấm
dứt giải ngân đến hết ngày 31/10/2003. Sau thời điểm đó, dự án được bố trí vốn trái phiếu
Chính phủ để đầu tư tiếp và trả nợ vốn tín dụng đã vay. Riêng các dự án đường ngang của
tuyến N1 thuộc Bộ Giao thông vận tải quản lý, vốn trái phiếu Chính phủ bố trí để đầu tư
tiếp nhằm hoàn thành dứt điểm.
2.2.1.3. Chuyển vốn, hạch toán, quyết toán
Căn cứ vào khả năng nguồn vốn, Bộ Tài chính chuyển vốn nguồn trái phiếu Chính
phủ để thanh toán cho các dự án. Đối với dự án do các Bộ quản lý, căn cứ thông báo danh
mục và vốn đầu tư của Bộ Tài chính và nhu cầu vốn thanh toán của các dự án, Kho bạc nhà
nước lập kế hoạch thanh toán vốn hàng quý gửi Bộ Tài chính để Bộ Tài chính chuyển vốn
sang Kho bạc nhà nước, Kho bạc nhà nước chuyển vốn về Kho bạc nhà nước nơi dự án mở
tài khoản để thanh toán cho các dự án. Đối với dự án do các tỉnh quản lý, căn cứ thông báo
danh mục và vốn đầu tư của Bộ Tài chính và nhu cầu vốn thanh toán của các dự án do Kho
bạc nhà nước tỉnh đề nghị, Sở Tài chính lập kế hoạch thanh toán vốn hàng quý gửi Bộ Tài

chính để Bộ Tài chính chuyển vốn về Sở Tài chính, Sở Tài chính chuyển vốn sang Kho bạc
nhà nước tỉnh. Sở Tài chính mở tài khoản riêng tại Kho bạc nhà nước tỉnh để tiếp nhận
nguồn vốn trái phiếu Chính phủ do Bộ Tài chính chuyển về. Đến hết thời hạn thanh toán
hàng năm theo quy định, số vốn do cơ quan Tài chính đã chuyển nếu còn dư, các cơ quan
thanh toán chuyển sang năm sau để thanh toán tiếp.
Các chủ đầu tư thực hiện việc quyết toán vốn đầu tư hàng năm theo chế độ hiện
hành về vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước nhưng quyết toán riêng nguồn vốn trái
phiếu Chính phủ. Các Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh được giao quản lý, thực hiện các dự
án đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ tổng hợp quyết toán từ các chủ đầu tư,
quyết toán riêng vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ với Bộ Tài chính (không tổng
hợp vào nguồn vốn ngân sách nhà nước). Kho bạc nhà nước tổ chức hạch toán và theo dõi
riêng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, quyết toán hàng năm với cơ quan Tài chính theo
quy định. Đối với dự án do địa phương quản lý, Kho bạc nhà nước các tỉnh quyết toán với
Sở Tài chính, Sở Tài chính quyết toán với Bộ Tài chính riêng nguồn vốn này (không quyết
toán vào ngân sách địa phương). Ngân hàng Phát triển quyết toán với Bộ Tài chính về
nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã thanh toán cho các dự án được giao kiểm soát, thanh
toán. Việc quyết toán vốn đầu tư dự án đầu tư hoàn thành được thực hiện theo quy định
hiện hành về chế độ quyết toán vốn đầu tư đối với dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách
nhà nước.
2.2.1.4. Báo cáo, quản lý, kiểm tra
- Mở hồ sơ theo dõi
Chủ đầu tư, các Bộ, tỉnh quản lý dự án lập và hoàn thiện toàn bộ hồ sơ của dự án
phục vụ cho việc theo dõi tình hình thực hiện, báo cáo, kiểm tra và quyết toán vốn đầu tư
dự án hoàn thành.
Hồ sơ được lập riêng cho từng dự án thành phần, tổng hợp theo từng cụm hoặc
nhóm dự án hoặc theo dự án tổng thể (theo danh mục tại các Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ). Nội dung hồ sơ bao gồm toàn bộ các vấn đề liên quan đến dự án từ khi bắt đầu
thực hiện và được bổ sung thường xuyên, đầy đủ theo tiến độ thực hiện dự án và khi phát
sinh điều chỉnh, bổ sung.
Các Bộ, tỉnh quản lý dự án gửi một bộ hồ sơ cho Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, gồm:
+ Các văn bản pháp lý liên quan đến chủ trương đầu tư: Báo cáo đầu tư xây dựng
công trình và quyết định phê duyệt dự án; quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự
toán (dự toán); các văn bản khác liên quan đến chủ trương đầu tư (bao gồm cả văn bản bổ
sung, sửa đổi, điều chỉnh).
+ Các văn bản liên quan đến thực hiện dự án: Quyết định trúng thầu, chỉ định thầu;
hợp đồng và thanh lý hợp đồng tín dụng (đối với dự án tín dụng); văn bản đối chiếu, xác
nhận về vốn tín dụng.
- Chế độ báo cáo định kì
Hàng quý, sáu tháng và cả năm, các chủ đầu tư dự án Trung ương báo cáo các Bộ
quản lý; chủ đầu tư dự án địa phương báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh; các Bộ, Uỷ ban nhân
dân tỉnh và Ngân hàng Phát triển báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tình hình
thực hiện vốn trái phiếu Chính phủ.
Hàng tháng, hàng quý, sáu tháng và cả năm, Kho bạc nhà nước báo cáo Bộ Tài
chính tình hình thanh toán các dự án thuộc vốn trái phiếu Chính phủ (chi tiết đến ngành,
lĩnh vực và dự án) của các Bộ, ngành và các tỉnh; Ngân hàng Phát triển báo cáo Bộ Tài
chính tình hình thanh toán các dự án được phân cấp quản lý thanh toán; Kho bạc nhà nước
tỉnh báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Tài chính tình hình thanh toán các dự án do địa
phương quản lý .
Hàng quý, năm hoặc đột xuất, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp,
báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 171/2006/QĐ-TTg ngày 24/7/2006 của
Thủ tướng Chính phủ.
- Chế độ kiểm tra
Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất các dự án về
tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư, tình hình thanh toán, sử dụng vốn và việc chấp hành
chính sách, chế độ tài chính đầu tư phát triển của Nhà nước.
Các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, các chủ đầu tư được giao quản lý, thực hiện các
dự án đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ có trách nhiệm tăng cường công tác
quản lý, công tác kiểm tra việc thực hiện tiến độ, khối lượng, chất lượng công trình, tình
hình sử dụng vốn, không được dùng nguồn vốn này để chi cho các nhiệm vụ, dự án ngoài

danh mục dự án đã được quyết định, không để tình trạng vượt vốn đầu tư của dự án đã
được duyệt và tình trạng lãng phí, thất thoát, tiêu cực.
2.2.2. Thực trạng phân bổ và sử dụng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ
2.2.2.1. Tình hình chung
Trong những năm đầu thập niên 90 để phát triển kinh tế Việt Nam cần có vốn mà
vốn vay nước ngoài bị hạn chế, do vậy, việc huy động vốn dưới hình thức phát hành TPCP
trở nên quan trọng và cấp thiết. Huy động vốn trong nước không những bù đắp thiếu hụt
NSNN mà còn góp phần giải quyết tiền mặt cho các nhu cầu chi tiêu của Chính phủ. Chính
vì vậy, bắt đầu từ năm 1991 Chính phủ đã phát hành các loại tín phiếu, trái phiếu kho bạc
để huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư. Đến 1995 Chính phủ đã đưa
ra chủ trương huy động vốn trong nước thông qua việc phát hành TPCP với quy mô lớn
hơn nhằm huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển.
Hiện nay, thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị, Đảng ta đang vận động toàn dân
tham gia mua trái phiếu Chính phủ để tạo nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông và
thuỷ lợi phục vụ công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế theo chủ trương của Đảng và
Nhà nước ta. Đây là một chủ trương sáng suốt và đúng đắn của Đảng nhằm huy động tiềm
năng to lớn và vốn nhàn rỗi trong nhân dân. Tổng mức trái phiếu Chính phủ phát hành
trong giai đoạn 2003-2010 là 110.000 tỷ đồng. Mức phát hành và thời điểm phát hành hàng
năm được xác định trên cơ sở nhu cầu vốn và tiến độ thực hiện của các dự án. Toàn bộ
nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính phủ được tập trung vào Kho bạc Nhà nước và giải
ngân theo tiến độ thực hiện của các dự án. Ngoại tệ thu được từ việc phát hành trái phiếu
bằng ngoại tệ, sau khi trừ những khoản chi trực tiếp bằng ngoại tệ, được bán cho Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam để bổ sung dự trữ ngoại hối của Nhà nước, tiền đồng Việt Nam
mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả để mua số ngoại tệ này được chuyển vào Kho bạc
Nhà nước. Dưới đây là biểu tổng hợp trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003-2010.
Bảng 2.1: Bảng tồng hợp trái phiếu chính phủ giai đoạn 2003-2010
Đơn vi: tỉ đồng
TT Tên dự án
Vốn đầu tư
theo Quyết định

182
Dự kiến vốn
đầu tư
điều chỉnh
TMĐT Sử dụng
TPCP
TMĐT Sử dụng TPCP
TỔNG MỨC VỐN TPCP 71.640 63.064 150.668 110.000
A Các dự án theo Nghị quyết số
33/2004/QH11
19.017 16.200
1 Đường tuần tra biên giới 5.241 5.200
2 Đường giao thông đến trung
tâm các xã chưa có đường
ô tô
6.177 4.000
3 Các công trình thủy lợi
miền núi
7.600 7.000
Các dự án do Trung ương quản

2.914 2.444
Các dự án do địa phương quản

4.686 4.556
B Các dự án cấp bách khác 20.883 11.507
1 Các dự án giao thông 16.735 9.092
Các dự án do Trung ương quản

12.988 6.342

Các dự án do địa phương quản

3.747 2.750
2 Các dự án thủy lợi 3.877 2.330
Các dự án do Trung ương quản

3.460 2.160
Các dự án do địa phương quản

417 170
3 Các dự án di dân tái định cư 271 85
C Các dự án có trong Quyết
định số 182/2003/QĐ-TTg,
286/QĐ-TTg,
số 252/QĐ-TTg
71.640 63.064 109.804 76.193
1 Các dự án giao thông 48.898 41.539 79.472 55.743
2 Các dự án thủy lợi 13.942 12.925 18.038 12.450
3 Các dự án di dân tái định

8.800 8.600 12.294 8.000
D Các dự án bổ sung theo đề
nghị của các địa phương gửi
các cơ quan của Quốc hội
963 494
1 Các dự án giao thông 410 184
2 Các dự án thủy lợi 553 310
E Dự phòng 5.606
Nguồn: QD171/2006/QD-TTG
Trong giai đoạn từ 2003-2008, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã

phát hành, phân bổ và sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để tập trung đầu tư có mục
tiêu cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thủy lợi. Sau đó, nguồn
vốn TPCP được mở rộng diện đầu tư bao gồm hệ thống bệnh viện đa khoa tuyến huyện và
chương trình kiên cố hóa trường, lớp học, nhà công vụ cho giáo viên miền núi, vùng sâu,
vùng xa và một số mục tiêu khác. Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đầu tư cho hệ thống cơ
sở hạ tầng khu vực khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa chính là để góp phần giảm
chênh lệch vùng, miền, chênh lệch giàu, nghèo. Về cơ bản, Chính phủ đã bám sát các Nghị
quyết của Quốc hội để phân bổ và sử dụng nguồn vốn TPCP. Tuy nhiên, việc điều hành và
sử dụng nguồn vốn vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn.
Trong 6 năm đó, số vốn đã giải ngân của các bộ, ngành và địa phương đạt
59.812 tỷ đồng, bằng 54% tổng số vốn trái phiếu Chính phủ của cả giai đoạn 2003-
2010.
Bảng 2.2: Kế hoạch vốn và vốn đầu tư thực hiện từng năm
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
KH vốn 2091,88 2493 3000 11870 9009 26915,15
Vốn ĐT
thực hiện
1915 2310 2344 5377 3261,2 19755,7
Nguồn: Vụ ĐT-Bộ TC
Từ các số liệu như trên, ta có biểu đồ :
Biểu đồ 1 :KH vốn và vốn ĐT thực hiện theo từng năm
Năm 2003, tổng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ là 63.064 tỷ đồng, đến 2006 tăng
lên 110 nghìn tỷ đồng và đến nay số vốn này dự kiến lên tới 230.496 tỷ đồng. Chính phủ
cũng tính toán, nhu cầu nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho giai đoạn 2003-2010 và một
số năm sau là 385.414 tỷ đồng. Tổng số vốn TPCP được sử dụng năm 2003 theo kế hoạch
là 2.091,88 tỷ đồng, giải ngân được 1915 tỷ đồng đạt 91,54%.
Năm 2004, tổng số vốn theo kế hoạch là 2.493 tỷ đồng, giải ngân được 2.310 tỷ
đồng trên kế hoạch, đạt 92.66%.
Đến năm 2005, giải ngân được 78,13% trên 3000 tỷ đồng theo kế hoạch.

Năm 2006, tỷ lệ giải ngân thấp hơn 2005, đạt 45,3% trên kế hoạch đặt ra là 11.870
tỷ đồng.

×