Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.85 KB, 22 trang )

Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn trong doanh
nghiệp
1.1. Vốn trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường được hiểu là một tổ chức kinh
tế, có đủ tư cách pháp nhân được tổ chức ra để thực hiện kinh doanh trên một
lĩnh vực nhất định với mục đích công ích hoặc thu lợi nhuận.
Để đảm bảo cho sự ra đời, tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải có các
yếu tố cơ bản cho việc thực hiện các hoạt động kinh doanh. Các yếu tố chính
của các hoạt động kinh doanh đó là: Vốn, lao động và tài nguyên. Trong đó, vốn
là yếu tố quan trọng nhất của quá trình hình thành và phát triển của doanh
nghiệp. Vốn luôn là yếu tố cơ bản, cần thiết, không thể thiếu đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh
nghiệp luôn phải đối mặt với các câu hỏi về nguồn tài trợ lấy từ đâu, cách thức
huy động như thế nào, chi phí phải trả bao nhiêu…Vốn được coi là nhân tố đầu
tiên khởi động toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là
điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến
hành các hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Vốn trong doanh nghiệp có thể được hiểu chính là biểu hiện bằng giá trị
của các tài sản trong doanh nghiệp và các tài sản đó phải được sử dụng nhằm
mục đích tạo ra lợi nhuận.
1.1.2. Đặc trưng nguồn vốn trong doanh nghiệp
Một là, vốn phải đại diện cho một lượng tài sản (nguyên liệu, máy móc
thiết bị, chất xám, thông tin…). Tài sản ở tạng thái tĩnh chỉ là vốn tiềm năng, tài
sản hoạt động mới là vốn kinh doanh, điều này có nghĩa là: Vốn là một bộ phận
của tài sản, nhưng không phải toàn bộ tài sản là vốn. Nói cách khác vốn chính là
biểu hiện về mặt giá trị của những tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
Hai là, vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có
thể phát huy tác dụng được. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp phải cần vốn nhưng vốn phải được tích tụ, huy động đủ đảm bảo cho yêu
cầu sản xuất kinh doanh, đặc biệt vốn lớn sẽ thực hiện được các chiến lược phát


triển sâu rộng nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Ba là, vốn phải được gắn với chủ sở hữu nhất định. Nghĩa là vốn phải có
chủ mới đảm bảo quản lý và chi tiêu hợp lý, có hiệu quả. Việc phân định rõ chủ
sở hữu thực sự về vốn đang là vấn đề quan tâm nhằm tăng cường thu hút vốn
nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức trong và ngoài nước vào các hoạt động đầu tư.
Bốn là, vốn được quan niệm là hàng hóa đặc biệt, tức là có giá trị và giá
trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa vốn chính là giá trị của bản thân nó, còn giá trị
sử dụng của nó là thông qua mua bán trên thị trường mà thực chất là mua quyền
sử dụng vốn, sau quá trình sử dụng hàng hóa vốn sẽ tạo ra một giá trị sử dụng
lớn hơn.
Năm là, vốn phải được vận động sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền,
nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để tiền biến thành vốn thì đồng tiền
đó phải được vận động sinh lời. Đồng tiền sau quá trình chuyển hóa vận động
trở về nơi xuất phát sẽ mang lại giá trị lớn hơn. Đó là nguyên lý của đầu tư, sử
dụng và bảo toàn vốn. Vì vậy, đồng tiền bị ứ đọng, tài nguyên, sức lao động, tài
sản cất giữ…không được sử dụng thì chỉ là những đồng vốn “chết”. Nhận thức
được vấn đề này các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để cho đồng vốn sinh lời
và tránh ứ đọng.
Sáu là, vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong nền kinh tế thị trường vốn
gắn với những thời gian nhất định, sức mua của đồng tiền ở những thời điểm
khác nhau cũng sẽ khác nhau.
Tóm lại, việc hiểu đúng vấn đề về vốn trong nền kinh tế thị trường thông
qua một số đặc trưng cơ bản về vốn giúp cho các doanh nghiệp khai thác triệt
để, quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn huy động cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trên cơ sở đó bảo toàn và phát triển vốn, nâng cao lợi ích tối đa hóa lợi
nhuận.
1.1.3. Phân loại nguồn vốn trong doanh nghiệp
Dựa vào những tiêu thức phân loại khác nhau, nguồn vốn trong doanh
nghiệp được phân chia thành các bộ phận khác nhau, một số cách phân loại phổ
biến hiện nay gồm:

• Căn cứ vào thời gian sử dụng: nguồn vốn được chia thành nguồn vốn
ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
- Vốn ngắn hạn: là vốn có thòi hạn dưới 1 năm. Bao gồm tín dụng thương
mại, các khoản chiếm dụng về tiền lương, tiến thuế, tín dụng ngắn hạn
ngân hàng và các khoản phải trả khác,...
- Vốn dài hạn: là vốn có thời hạn trên 1 năm. Bao gồm tín dụng ngân hàng
dài hạn, phát hành trái phiếu, huy động vốn góp cổ phần, liên doanh, bổ
sung từ lợi nhuận không chia,...
• Căn cứ theo tính chất luân chuyển vốn: Vốn cố định, vốn lưu động.
- Vốn cố định: là phần vốn dùng để đầu tư vào tài sản cố định của doanh
nghiệp. Đây là các tài sản có thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều
chu kỳ sản suất kinh doanh, thường có giá trị lớn.
- Vốn lưu động: là phần vốn dùng để đầu tư vào tài sản lưu động của doanh
nghiệp. Tài sản lưu động là các tài sản có thời gian sử dụng ngắn, thường
tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và có giá trị nhỏ.
• Căn cứ vào quyền sở hữu đối với khoản vốn sử dụng: nguồn vốn
được chia thành vốn chủ sở hữu và nợ.
- Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc về các chủ sở hữu của doanh nghiệp. Gồm:
vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, vốn do phát hành cổ phiếu mới,...
- Nợ phải trả là thể hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có
trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân trong nền kinh tế trong quá trình
kinh doanh bao gồm các khoản chiếm dụng và nợ vay.
1.2. Các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp
Cách phân loại phổ biến hiện nay là chia nguồn vốn thành vốn chủ sở hữu
và nợ. Vì nó cho phép doanh nghiệp xác định được cơ cấu vốn của mình đồng
thời thuận lợi hơn trong xây dựng và lựa chọn phương thức huy động vốn và sử
dụng vốn hiệu quả, đáp ứng được mục tiêu đề ra.
Các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp:
1.2.1. Phương thức huy động nguồn vốn chủ sở hữu
1.2.1.1. Tăng vốn góp

Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ cũng có một số vốn nhất định.
Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà có những hình thức khai thác làm tăng
nguồn vốn góp ban đầu. Đối với DNNN, vốn góp ban đầu là vốn đầu tư của Nhà
nước. Đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết
định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ
chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cở phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, có
nhiều dạng công ty cổ phần nên cách thức huy động vốn cũng khác nhau. Trong
loại hình các doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài các nguồn vốn góp cũng bao gồm: vốn có thể
do chủ đầu tư bỏ ra, vốn do các bên tham gia, các đối tác góp…Tỷ lệ và quy mô
góp vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như
đặc điểm ngành nghề kinh doanh, cơ cấu liên doanh giữa các bên…
1.2.1.2. Tăng nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng nguồn vốn hoạt
động. Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử
dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia - nguồn vốn nội bộ là một phương
thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì
doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc bên ngoài. Để có
nguồn vốn này thì các doanh nghiệp phải đặt ra mục tiêu có một khối lượng lợi
nhuận đủ lớn để bù đắp chi phí đã bỏ ra, từ đó mới tự đáp ứng được nhu cầu vốn
tự bổ sung của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu
như doanh nghiệp đã, đang hoạt động có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư.
Với các doanh nghiệp Nhà nước, việc tái đầu tư phụ thuộc vào khả năng sinh lời
của doanh nghiệp và chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước. Đối với
các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất
nhạy cảm. Khi doanh nghiệp quyết định để lại một phần lợi nhuận trong năm
cho tái đầu tư, có nghĩa doanh nghiệp không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ

phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng thay vào đó,
họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ
của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ.
Điều này khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng về trước mắt dễ làm
giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ
hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ
phiếu có thể bị giảm.
1.2.1.3. Tăng vốn góp bằng phát hành cổ phiếu mới
Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh thì doanh nghiệp có thể
tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Cổ phiếu là chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối
với vốn của tổ chức phát hành. Việc phát hành cổ phiếu được thực hiện ở các
công ty cổ phần. Phát hành cổ phiếu là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh
nghiệp, bao gồm có phát hành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Doanh
nghiệp có thể lựa chọn một trong hai công cụ trên hoặc phối hợp cả hai để đem
lại hiệu quả tốt nhất cho doanh nghiệp.
1.2.2. Phương thức huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp
Ngoài việc tăng vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp có thể sử
dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, phát hành trái
phiếu, huy động vốn từ thị trường tài chính,...
Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Để huy
động được vốn từ các thị trường này, doanh nghiệp cần thông qua các trung gian
tài chính.
1.2.2.1. Phương thức huy động vốn từ các trung gian tài chính
Trung gian tài chính đảm nhiệm chức năng trung chuyển tư bản giữa các
chủ thể tiết kiệm và những người sử dụng vốn. Các trung gian tài chính không
chỉ phục vụ như những người hỗ trợ giữa các chủ thể tiết kiệm và những người
sử dụng vốn mà còn tập trung những khoản tiết kiệm của nhiều người, nhiều
doanh nghiệp và nhiều tổ chức trong nền kinh tế, tạo thành những nguồn tài
chính có quy mô lớn. Đây là một trong những nguồn huy động vốn cơ bản của

doanh nghiệp.
Các trung gian tài chính có thể được phân chia thành một số loại như sau:
• Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là loại định chế tài
chính lớn nhất trong các trung gian tài chính. Các ngân hàng thương
mại là nơi nhận tiền gửi thông qua việc mở các tài khoản tiết kiệm và
tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, thực hiện các nghiệp vụ tài trợ, bảo
lãnh, thanh toán phục vụ các doanh nghiệp và cá nhân. Ngân hàng sử
dụng phần lớn lượng tiền huy động được để đầu tư vào các loại
chứng khoán có tính thanh khoản cao như công trái quốc gia, trái
phiếu kho bạc, trái phiếu công ty,…Duy trì một lượng tiền mặt ở
mức đủ để bảo đảm thanh khoản, thực hiện các giao dịch cho các
doanh nghiệp và cá nhân vay.
Có một thực tế là để huy động vốn từ việc vay ngân hàng, doanh nghiệp
cần phải có tài sản hoặc các loại giấy tờ có giá trị khác để thế chấp. Điều này sẽ
gây khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thêm
vào đó, việc huy động vốn từ ngân hàng cũng không linh hoạt bằng một số định
chế tài chính khác như các công ty đầu tư mạo hiểm, hoặc các công ty cho thuê
tài chính.
• Hiệp hội tiết kiệm và cho vay: Là loại trung gian tài chính chuyên
thu hút tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân để cho vay dài hạn nhằm
tài trợ mua nhà ở, bất động sản hoặc các loại hàng hóa tiêu dùng lâu
bền. Tuy nhiên, các hoạt động tài trợ của hiệp hội này thường được
cho vay dưới hình thức cầm cố.
Chính hình thức cho vay này sẽ gây ra một số khó khăn cho các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì các doanh nghiệp này
thường không có nhiều tài sản để thế chấp.
• Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ: Là loại trung gian tài chính có rất
nhiều đặc điểm tương đồng với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay.
Ngân hàng thu hút tiền gửi của công chúng và chủ yếu cho các doanh
nghiệp, các cá nhân vay để mua nhà và các loại bất động sản.

• Hiệp hội tín dụng: Là một tổ chức hợp tác xã tín dụng, tổ chức liên
kết các thành viên là những người trong cùng tổ chức nghề nghiệp
hay tín ngưỡng. Nguồn ngân quỹ chủ yếu là tiền gửi của các thành
viên, nguồn ngân quỹ này được sử dụng để cho vay trong nội bộ
nhằm tài trợ mua xe, nhà ở và nhiều loại tài sản khác. Do đặc điểm
của hiệp hội là chỉ cho vay trong nội bộ nên các doanh nghiệp ngoài
hiệp hội sẽ khó có cơ hội tiếp cận với nguồn vay này.
• Quỹ trợ cấp và hưu bổng: Được thành lập để tạo nguồn thu nhập cho
những người về hưu và không còn khả năng làm việc. Các quỹ này
nhận tiền đóng góp của công nhân, của chủ doanh nghiệp và sử dụng
nguồn ngân quỹ này đầu tư vào các loại trái phiếu chính phủ, trái
phiếu kho bạc hay trái phiếu đô thị, đầu tư vào cổ phần, trái phiếu
của các doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp có thể huy động vốn
từ quỹ này bằng việc phát hành trái phiếu.
• Công ty tài chính: Công ty tài chính phát hành các loại trái phiếu, cổ
phiếu và vay tiền của các ngân hàng thương mại để tài trợ cho các
doanh nghiệp và cá nhân vay. Những khoản cho vay của các công ty
tài chính thường chủ yếu dành cho những khách hàng có mức độ rủi
ro tín dụng cao, mà các ngân hàng thương mại thường từ chối cho
vay. Để bù đắp cho mức độ rủi ro cao, lãi suất tài trợ của công ty tài
chính thường cao hơn các định chế khác.
Ưu điểm của công ty tài chính là các doanh nghiệp có phương án kinh
doanh với mức độ rủi ro cao vẫn có khả năng tiếp cận với nguồn vốn này trong
khi các ngân hàng thương mại đã từ chối cho vay. Chính ở đặc điểm này đã
khiến cho mức lãi suất khi huy động từ công ty tài chính cao hơn các định chế
tài chính khác.
• Quỹ hỗ tương: Là loại định chế tài chính chuyên tập hợp nguồn tài
chính của những người tiết kiệm nhỏ và đầu tư vào các loại chứng
khoán tùy theo mục tiêu và chính sách do quỹ đặt ra.
Một số quỹ có chính sách đầu tư vào những loại cổ phần của những công

ty có mức tăng trưởng cao, song mức chia lợi tức hàng năm thấp nhưng đổi lại
các chủ đầu tư hy vọng giá trị cổ phần của họ sẽ tăng nhanh chóng. Ngược lại,
một số quỹ đầu tư vào những cổ phần được chia lợi tức cao, nhưng có mức lợi
nhuận tiềm năng từ giá cổ phần tăng lên thấp. Nhiều quỹ đầu tư vào những cổ

×