Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Những vấn đề cơ bản về hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của công ty chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.98 KB, 21 trang )

Những vấn đề cơ bản về hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của công ty chứng
khoán:
1.Các hoạt động cơ bản của công ty:
Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế,phù hợp với các điều kiện kinh tế-chính
trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,trên cơ sở tham khảo có
chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng khoán trên thế giới,Việt Nam
đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với những đặc thù riêng biệt.Sự ra
đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành
Trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000,và
thực hiện giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000.Thị trường chứng khoán phần nào
đã đáp ứng nhu cầu về vốn để tái cơ cấu và phát triển nền kinh tế .TTCK Việt Nam
đã chiếm tỷ trọng lớn trong GDP,góp phần vào công cuộc CNH-HĐH của đất
nước.Hình thành và phát triển thị trường chứng khoán cả về số lượng và chất lượng là
một trong những định hướng phát triển của Chính Phủ nhằm phát triển thị
trường.Công ty chứng khoán là một trong những chủ thể tham gia trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.Theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998
của UBCKNN,các công ty chứng khoán được thành lập dưới hình thức pháp lý là
công ty cổ phần hoặc trách nhiệm hữu hạn. Đó là những tổ chức kinh tế có tư cách
pháp nhân,có vốn riêng và hạch toán kinh tế độc lập.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của công ty chứng khoán:
Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán, không phải tự họ đi bán số chứng khoán mà họ định phát hành.Họ không thể
làm tốt việc đó bởi họ không có bộ máy chuyên môn. Cần có những nhà chuyên
nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Đó là các công ty chứng khoán với nghiệp vụ
chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện được
vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và người
phát hành.
1.1.1.Khái niệm công ty chứng khoán:
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ
trên thị trường tài chính.
Ở Việt Nam.theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13 tháng 10 năm 1998 của


UBCKNN,công ty chứng khoán là công ty cổ phần,công ty trách nhiệm hữu hạn
thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép
thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán.
1.1.2. Đặc điểm công ty chứng khoán:
- Loại hình tổ chức: Có ba loại hình tổ chức cơ bản:
• Công ty hợp danh:
o Là loại hình kinh doanh có từ 2 chủ sở hữu trở lên
o Thành viên của công ty chứng khoán hợp danh bao gồm: Thành viên
góp vốn và thành viên hợp danh.
o Công ty hợp danh thông thường không được phép phát hành bất cứ
một loại chứng khoán nào.
• Công ty cổ phần:
o Là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công ty là các cổ đông.
o Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
o Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo
quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành
• Công ty TNHH:
o Thành viên của công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam
kết góp vào doanh nghiệp.
o Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu.
- Mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán:
• Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh:
Theo mô hình này hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và
chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân hàng không được
tham gia kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rui ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều
kiện cho các công ty chứng khoán đi vào chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực chứng
khoán để thúc đẩy thị trường phát triển.

• Mô hình công ty chứng khoán đa năng:
Theo mô hình này công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch
vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán kinh doanh tiền tệ và các
dịch vụ tài chính. Theo đó các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể
kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu
hiện dưới hai hình thức:
o Đa năng một phần:Theo mô hình này các ngân hàng muốn kinh doanh
chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con hạch
toán độc lập và hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ.
o Đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được phép trực tiếp kinh doanh
chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các
dịch vụ tài chính khác.
o Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh
bằng việc đa dạng hoá đầu tư ngoài ra mô hình này còn có ưu điểm là
tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng trước những biến động trên thị
trường tài chính. Mặt khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của
mình là kinh doanh tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu
biết rõ về khách hàng cũng như các doanh nghiệp khi họ thực hiện
nghiệp vụ cấp tín dụng và tài trợ dự án. Tuy nhiên, mô hình này cũng
có những hạn chế đó là vừa là tổ chức tín dụng vừa là tổ chức kinh
doanh chứng khoán, do đó khả năng chuyên môn không sâu như các
công ty chứng khoán chuyên doanh.
- Về tính chuyên môn hoá và phân cấp quản lý:
- Công ty chứng khoán chuyên môn hoá ở mức độ cao trong từng bộ phận
phong ban. Toàn bộ các nghiệp vụ của công ty chứng khoán đều phục vụ
cho các giao dịch chứng khoán, mỗi một nghiệp vụ lại liên quan đến một
lĩnh vực riêng, các phòng ban khác nhau đảm nhiệm các công việc khác
nhau. Giữa các phòng ban có một sự độc lập tương đối, mỗi liên kết không
phải mật thiết hữu cơ như các doanh nghiệp sản xuất khác. Chính vì vậy

hoạt động hay cơ cấu của phòng ban này không ảnh hưởng nhiều đến phòng
ban khác.
- Về nhân tố con người:
Công ty chứng khoán dựa vào chất lượng chuyên môn đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ nhân viên và cán bộ quản lý trong công ty. Do đó ở bất kỳ thời điểm nào công ty
chứng khoán cũng thực sự chú trọng đến nhân tố con người, thể hiện ở những điểm
sau:
o Lựa chọn nhân viên có năng lực và phù hợp với yêu cầu công việc.
o Chú trọng công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
o Có chế độ đãi ngộ và khuyến khích nhân viên.
- Về ảnh hưởng của thị trường tài chính:
Công ty chứng khoán tham gia hoạt động trực tiếp trên thị trường chứng khoán nên
bất kỳ một biến động nào của thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài
chính nói chung đều tác động sâu sắc đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và doanh
thu của công ty chứng khoán.
Thị trường tài chính, thị trường chứng khoán càng phát triển càng tạo ra nhiều công
cụ tài chính, có thêm nhiều dịch vụ, mở rộng phạm vi kinh doanh tạo cơ hội thu lợi
nhuận cho công ty chứng khoán. Mặt khác công ty chứng khoán không ngừng cải
tiến, không ngừng sáng tạo để thích nghi môi trường hoạt động.
- Về cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán:
Phụ thuộc vào quy mô kinh doanh và các nghiệp vụ mà công ty được phép hoạt động.
theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán chia thành hai
khối chủ yếu: Khối nghiệp vụ và khối phụ trợ.
o Khối nghiệp vụ gồm:
 Tự doanh
 Môi giới
 Bảo lãnh phát hành
 Tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán
 Phòng kỹ quỹ
 Khối phụ trợ:

 Phòng nghiên cứu và phát triển
 Phòng phân tích và thông tin thị trường
 Phòng kế hoạch công ty
 Phòng phát triển sản phẩm mới
 Phòng công nghệ thông tin
 Phòng pháp chế
 Phòng kế toán, thanh toán và kiểm soát nội bộ
 Phòng ngân quỹ
 Phòng tổng hợp hành chính nhân sự
1.1.3.Vai trò của công ty chứng khoán:
Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán
mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông buôn bán tấp nập trên thị trường chứng
khoán,qua đó, một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ việc hình thành những
nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng.
Vai trò của các công ty chứng khoán trên thị trường tài chính:
*Vai trò huy động vốn:
Công ty chứng khoán có vai trò là chiếc cầu nối và đổng thời là kênh dẫn vốn
cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn đến
các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu vốn.
Các công ty chứng khoán thường đảm nhận vai trò này qua các hoạt động bảo
lãnh phát hành và môi giới chứng khoán.
*Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả:
Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung, công ty chứng khoán nói riêng, thông
qua các sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, có chức năng cung cấp một cơ
chế giá cả nhằm giứp các nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác
về giá trị các khoản đầu tư của mình.
Công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị trường,
góp phần điều tiết giá chứng khoán.
*Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt:

Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán và
ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định .Các công ty chứng khoán đảm nhận
được chức năng chuyển đổi này,giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại nhất khi tiến
hành đầu tư.
*Thực hiện tư vấn đầu tư:
Các công ty chứng khoán với đầy đủ các dịch vụ không chỉ thực hiện mệnh lệnh của
khách hàng, mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc
nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty và các cá nhân
đầu tư.
*Tạo ra các sản phẩm mới:
Trong thời gian gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với tốc độ rất nhanh.
Ngoài cổ phiếu và trái phiếu đã được biết đến, các công ty chứng khoán hiện nay còn
bán trái phiếu chính phủ, chứng quyền, trái quyền, các hợp đổng tương lai, hợp đồng
lựa chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi trên thị trường và
môi trường kinh tế.
1.2. Các hoạt động chính của công ty chứng khoán:
1.2.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán:
 Hoạt động môi giới:
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một
công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế
giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải
chịu trách nhiệm với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
 Hoạt động môi giới có các chức năng:
• Cung cấp dịch vụ với hai tư cách:
-Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư:cung cấp cho khách hàng các
báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư.
-Nối liền những người bán và những người mua: đem đến cho khách hàng tất cả
các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
• Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết:trở thành người bạn,
người chia sẻ những lo âu căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời.

• Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức (điển hình là sự sợ hãi và tham lam), để
giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo.
• Đề xuất thời điểm bán hàng.
 Nghề môi giới chứng khoán có những đặc trưng cơ bản:
-Lao động cật lực,thù lao xứng đáng.
-Những phẩm chất cần có: kiên nhẫn,giỏi phân tích tâm lý và ứng xử.
-Nổ lực cá nhân là quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của công ty
trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc thực hiện các lệnh
của khách hàng.
 Nghề môi chứng khoán cần các kỹ năng:
-Kỹ năng truyền đạt thông tin.
-Kỹ năng tìm kiếm khách hàng:
1.Những đầu mối được gây dựng từ công ty hoặc từ các tài khoản chuyển nhượng
lại.
2.Những lời giới thiệu khách hàng.
3.Mạng lưới kinh doanh.
4.Các chiến dịch viết thư.
5.Các cuộc hội thảo.
6.Gọi điện làm quen.
-Kỹ năng khai thác thông tin.
1.2.2. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán:
 Hoạt động tự doanh:
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán các chứng
khoán cho chính mình.
 Mục đích của hoạt động tự doanh:
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên các thị
trường giao dịch tập trung hoặc trên thị trường OTC,…với mục đích nhằm thu lợi cho
chính mình

×