NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về NHTM
1.1.1 Khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Khi nói đến
ngân hàng người ta thường nghĩ ngay đến các Ngân hàng thương mại vì các
NHTM chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô, thị phần, mạng lưới hoạt động trong
toàn hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng trước hết là một tổ chức trung gian tài chính. Trung gian tài chính là
một tổ chức hỗ trợ các kênh luân chuyển vốn giữa người cho vay và người đi
vay theo hình thức gián tiếp. Những tổ chức trung gian tài chính thường được
nhắc đến như : ngân hàng, các cơng ty tư vấn tài chính và mơi giới, các công ty
bảo hiểm...
Một cách hiểu đơn giản về ngân hàng đó là: ngân hàng là tổ chức hoạt động
kinh doanh cung cấp các dịch vụ ngân hàng để tìm kiếm lợi nhuận.
Để có thể rõ hơn về khái niệm ngân hàng, xét theo phương diện những loại hình
dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì : “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm, dịch vụ thanh tốn và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa như sau “ Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh tốn”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Đối với các NTM, hoạt động đem lại lợi nhuận chính cho ngân hàng là hoạt
động cho vay. Và để có thể cho vay thì các ngân hàng phải có một lượng tiền đủ
để đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng tăng trong nền kinh tế. Vì thế ngồi vốn
chủ sở hữu ra thì ngân hàng phải huy động một lượng tiền khá lớn. Ngân hàng
có thể huy động vốn từ các nguồn như sau :
• Nguồn tìên gửi
Tiền gửi là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
Để gia tăng tiền gửi các ngân hàng đã đưa ra các hình thức gửi tiền đa dạng như
tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội,
tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng khác. Trong đó, tiền
gửi thanh tốn có mức lãi suất thấp nhất nhưng thay vào đó cá nhân hoặc doanh
nghiệp gửi tiền có thể nhờ ngân hàng thanh toán hộ trong phạm vi số dư trên tài
khoản với mức phí thấp. Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã
hội tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán song
lại được hưởng mức lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài kì hạn. Tiền gửi tiết kiệm
của dân cư là một nguồn vô cùn quan trọng đối với các ngân hàng. Các ngân
hàng ngày càng mở rộng mạng lưới huy động bằng cách cung cấp cho khách
hàng nhiều sản phẩm tiết kiệm đa dạng với mức lãi suất cạnh tranh hấp dẫn để
thu hút ngày càng nhiều lượng tiền nhàn rỗi từ dân cư vào ngân hàng. Trong
ngân hàng cịn có tiền gửi của các ngân hàng khác tuy nhiên nguồn này thường
khơng lớn vì tiền gửi của các ngân hàng khác chỉ nhằm mục đích chủ yếu là nhờ
thanh tốn hộ.
• Nguồn đi vay
Ngân hàng sử dụng vốn để cho vay, đầu tư kinh doanh và thực hiện một số hoạt
động khác như chi trả cho khách hàng. Do vậy nhiều khi nguồn tiền huy động
không đủ đáp ứng nhu cầu tiền của ngân hàng. Khi đó ngân hàng sẽ phải đi vay
mượn thêm như vay ở Ngân hàng Trung ương, vay các tổ chức tín dụng khác
hoặc vay trên thị trường vốn. Trong đó, vay các tổ chức tín dụng khác là đơn
giản nhất vì q trình vay mượn đơn giản, đáp ứng kịp thời nhu cầu dữ trữ và
chi trả cấp bách của ngân hàng. Vay NHNN thơng qua hình thức tái chiết khấu
(hoặc tái cấp vốn) và việc vay mượn tương đối khó khăn vì NHNN kiểm sốt
tương đối chặt chẽ. Các ngân hàng cịn có thể vay trên thị trường vốn thơng qua
phát hành kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên vay trên thị trường vốn
nghiệp vụ tương đối phức tạp và thường chỉ dành cho những ngân hàng lớn.
• Nguồn khác
Nguồn khác bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các khoản nợ
khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả...
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
* Hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM nhằm tài trợ cho khách hàng trên cơ
sở tín nhiệm. Hình thức tín dụng truyền thống của NHTM là cho vay ngắn hạn
có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hố, ngun vật liệu, sau
đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất
động sản, bằng chứng khoán… Các NHTM lớn hiện nay thực hiện đa dạng các
hình thức tín dụng. Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các ngân hàng vừa phải
xây dựng một chính sách tín dụng đúng đắn vừa phải khơng ngừng đa dạng hố
các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
Để phục vụ mục tiêu quản lý của ngân hàng và nhu cầu của khách hàng, tín
dụng ngân hàng có nhiều hình thức phân loại khác nhau như:
• Phân theo thời gian: bao gồm tín dụng ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống,
trung hạn (từ trên 1 năm đến 5 năm) và dài hạn ( trên 5 năm ).
• Phân theo hình thức: bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
• Phân loại theo tài sản đảm bảo: bao gồm tín dụng có đảm bảo bằng uy tín
của khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
• Phân loại tín dụng theo rủi ro: bao gồm tín dụng lành mạnh, tín dụng có
vấn đề, nợ q hạn có khả năngthu hồi, nợ q hạn khó địi.
Ngồi ra còn một số cách phân loại khác theo ngành kinh tế, theo đối tượng
tín dụng, mục đích sản xuất…
* Hoạt động đầu tư
Phần lớn nguồn vốn huy động được ngân hàng đều cho vay vì hoạt động tín
dụng tạo ra lợi nhuận khá lớn cho ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng cịn sử
dụng vốn để đầu tư như đầu tư vào chứng khoán, vào bất động sản… Những
khoản cho vay có tính thanh khoản thấp, rủi ro cao, khơng dễ chuyển thành
tiền mặt như chứng khốn hay bất động sản. Do vậy các ngân hàng thường
đa dạng hoá danh mục đầu tư để vừa giảm thiểu rủi ro, vừa tăng thu nhập.
1.1.2.3 Hoạt động trung gian
Huy động vốn và cho vay là hai hoạt động chính của ngân hàng, ngồi ra ngân
hàng cịn thực hiện một số hoạt động khác như quản lý ngân quỹ, mua bán
ngoại tệ, cung cấp các dịch vụ uỷ thác, tư vấn, bảo hiểm… Ngân hàng có thêm
nguồn thu từ thu phí dịch vụ của những hoạt động này.
1.1.3 Vai trò của NHTM
* Vai trị trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư giữa hai loại tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế: các cá
nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu với các cá nhân và tổ chức thặng dư
trong chi tiêu.
* Vai trị thanh tốn
Ngày nay khi nền kinh tế càng phát triển thì việc thanh tốn qua ngân hàng ngày
càng phổ biến. Thanh tốn thơng qua ngân hàng là hình thức thanh tốn khơng
dùng tiền mặt, thay vào đó khách hàng chỉ cần mở tài khoản tại ngân hàng.
Ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua bán hàng
hố và dịch vụ. Hình thức thanh tốn này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí,
đảm bảo an toàn cho khách hàng.
* Vai trị thực thi chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ được NHNN thực hiện thông qua các công cụ như lãi suất, tỷ
lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở… Các NHTM
bị ảnh hưởng trực tiếp của những công cụ này, thông qua NHTM sẽ ảnh hưởng
đến cả nền kinh tế theo hướng mà Nhà nước muốn điều tiết. Mặt khác, thông
qua các NHTM Nhà nước cũng có thể nắm được tình hình của nền kinh tế, qua
đó có những sự điểu chỉnh thích hợp.
1.1.4 Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.4.1 Khái niệm về hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay là một trong những hoạt động đầu tiên của NHTM và cho đến nay cho
vay vẫn là hoạt động chủ yếu, đem lại mức sinh lời cao cho NHTM.
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
NHNN Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng thì
hoạt động cho vay được định nghĩa như sau: “ Cho vay là một hình thức cấp tín
dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hang sử dụng một khoản tiền để
sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc
hoàn trả cả gốc và lãi “.
1.1.4.2 Nguyên tắc cho vay
Tuy cho vay là hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM Việt Nam
nhưng chất lượng các khoản vay chưa cao, nhiều khả năng xảy ra tổn thất, làm
giảm thu nhập của ngân hàng. Để hạn chế rủi ro, đảm bảo tính an tồn và khả
năng sinh lời NHNN và các NHTM đã đưa ra một số nguyên tắc cho vay như
sau:
Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định: các
khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của
khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm
hoàn trả cả gốc lẫn lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng ln u cầu người
nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn
tại và phát triển.
Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay theo đúng mục đích được thoả thuận
với ngân hàng, khơng trái với các qui định của pháp luật và các qui định khác
của ngân hàng cấp trên. Luật pháp qui định phạm vi hoạt động cho các ngân
hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hang có thể có mục đích và phạm vi hoạt động
riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng bảo đảm ngân hàng
khơng tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với
cương lĩnh của ngân hàng.
Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án sản xuất kinh doanh (hoặc dự án) có hiệu
quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất.
Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của
người vay. Trong trường hợp thấy kém an tồn, ngân hàng địi hỏi người vay
phải có tài sản đảm bảo khi vay. Tài sản đảm bảo này có thể khác với tài sản
tương đương hình thành từ tiền vay.
1.1.4.3 Điều kiện cho vay của NHTM
* Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam, đối với khách hàng là các tổ chức
cá nhân nước ngồi phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân
sự theo quy định của pháp luật nước mà tổ chức đó có quốc tịch hoặc cá nhân
đó là cơng dân, nếu pháp luật nước đó được Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định
hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết
hoặc tham gia quy định
* Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp .
* Có dự án đầu tư hoặc phương án kinh doanh khả thi và có hiệu quả.
* Có khả năng tài chính đủ đảm bảo thực hiện phương án kinh doanh và đủ trả
nợ trong thời hạn cam kết.
* Có tài sản đảm bảo cho khoản vay theo đúng quy định của Chính Phủ và
hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
1.1.4.4 Vai trò hoạt động cho vay của NHTM đối với cácDNVVN
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu về vốn của doanh nghiệp ngày
càng tăng. DN có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như tín dụng
thương mại, tín dụng ngân hàng và phát hành trái phiếu, cổ phiếu (đối với các
DNVVN đã cổ phần hoá ). Trong đó, nguồn vay từ NHTM là nguồn quan trọng
nhất, đặc biệt trong điều kiện thị trường chứng khoán- một kênh huy động vốn
hiệu quả- vẫn chưa phát triển đầy đủ. Do vậy, mở rộng hoạt động cho vay đối
với các DNVVN có một vai trị rất quan trọng. Huy động vốn bằng cách phát
hành trái phiếu hay cổ phiếu tương đối phức tạp và khó khăn đối với các
DNVVN vì thường chỉ những DN lớn, có uy tín, tên tuổi khả năng phát hành
trái phiếu, cổ phiếu mới thành cơng. Đồng thời với một thị trường chứng khốn
mới phát triển như Việt Nam thì lại càng khó khăn hơn. Các DNVVN ln
trong tình trạng thiếu vốn để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, để phát triển
doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Mặt khác các DNVVN khơng thể
chỉ sử dụng vốn chủ sở hữu vì vốn cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh
là rất lớn và vốn vay còn là lá chắn thuế hữu hiệu cho các DNVVN.
Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh. Để có thể vay vốn ngân hàng thì các DNVVN phải đáp ứng đầy đủ
điều kiện vay vốn. Do đó phương án sản xuất kinh doanh đưa ra đòi hỏi phải có
những tính tốn cụ thể về doanh thu, chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, lợi
nhuận dự kiến…để ngân hàng phân tích , đánh giá tính khả thi của phương án
và đưa ra quyết định cho vay hay không. Như vậy, ngân hàng giúp cho các
DNVVN nâng cao khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh, xây dựng phương án
kinh doanh hiệu quả. Sau khi cho vay ngân hàng thường kiểm tra, giám sát việc
sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay khơng, nhờ đó ngân hàng thúc đẩy
DNVVN sử dụng vốn hiệu quả.
Tín dụng ngân hàng cũng giúp các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường quốc tế,
với công nghệ sản xuất tiên tiến hiện đại bằng cách tài trợ xuất - nhập khẩu.
Hiện nay số lượng các DNVVN ở nước ta chiếm khoảng hơn 90% tổng số các
DN nhưng số lượng DNVVN có thể tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng không
nhiều. Nếu như các DNVVN có thể vay vốn ngân hang nhiều hơn thì sẽ có điều
kiện phát triển, thốt khỏi tình trạng yếu kém, từ đó cũng sẽ làm cho nền kinh tế
phát triển tốt hơn.
1.1.4.5 Đặc điểm của hoạt động cho vay
* Đối tượng cho vay: bao gồm cá nhân và tổ chức có hoạt động sản xuất kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
* Thời hạn cho vay và kì hạn nợ: dựa vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn
thu hồi vốn đầu tư, số vốn vay ngân hàng mà ngân hàng quy định thời hạn cho
vay và kì hạn nợ.
* Hình thức cho vay: ngân hàng có nhiều hình thức cho vay khác nhau phục vụ
cho nhu cầu về vốn của mọi đối tượng khách hàng.
* Lãi suất cho vay: mức lãi suất cho vay hiện nay được thoả thuận giữa ngân
hàng với khách hàng. Ngân hàng cũng đưa ra nhiều mức lãi suất linh hoạt, phù
hợp với từng đối tượng khách hàng và từng thời kỳ.
* Giới hạn cho vay: khi khách hàng đến vay vốn ngân hàng, nếu vay bổ sung
vốn luư động ngân hàng sẽ căn cứ vào số vốn cần vay để tính ra nhu cầu vay
vốn hợp lí và cho khách hàng vay theo như đã tính tốn. Ngân hàng cũng có thể
cho vay theo giá trị tài sản đảm bảo, theo luật quy định là 70% giá trị tài sản
đảm bảo. Ngoài ra, ngân hàng chỉ được cho vay tối đa 15% vốn tự có đối với
một khách hàng, nếu nhu cầu vay vốn của khách hàng lớn hơn 15% vốn tự có
của ngân hàng thì ngân hàng phải cho vay hợp vốn.
1.1.4.6 Các hình thức cho vay
Để thuận tiện cho việc theo dõi các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu quản
lý và phòng ngừa rủi ro, các NHTM đã phân loại các khoản vay theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại:
*Phân loại theo thời gian : thời gian liên quan mật thiết đến tính an tồn và sinh
lời của khoản vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian
cho vay đuợc chia thành:
- Cho vay ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống, được sử dụng để tài trợ vốn lưu
động cho DN và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: từ 1 năm đến 5 năm, được sử dụng để tài trợ cho nhu cầu
mua sắm tài sản cố định như các phương tiện vận tải, một số cây trồng vật ni,
trang thiết bị chóng hao mòn. Cho vay trung hạn còn để tài trợ cho việc cải tiến
công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mơ
nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: trên 5 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các
nhu cầu dài hạn như công trình xây dựng nhà, sân bay, cầu đường, máy móc
thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu. Các khoản cho vay dài
hạn thường trên 5 năm nhưng cũng có thể lên tới 10 hoặc 30 năm.
* Phân loại theo các hình thức đảm bảo:
- Cho vay khơng có đảm bảo: đây là hình thức cho vay được đảm bảo bằng uy
tín của khách hàng. Thường những khách hàng có uy tín, có mối quan hệ
thường xun với ngân hàng, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng
nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay sẽ được vay theo
hình thức này. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính Phủ hoặc với những tổ
chức tài chính lớn, cơng ty lớn… cũng có thể khơng cần tài sản đảm bảo.
- Cho vay có đảm bảo: tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng có được nguồn thu
nợ bằng cách bán tài sản đảm bảo khi khách hàng khơng có khả năng trả nợ
hoặc trả khơng đủ. Những tài sản này được đảm bảo dưới hình thức cầm cố, thế
chấp. Các khoản vay cũng có thể được đảm bảo bằng sự bảo lãnh của người thứ
ba.
+Cho vay cầm cố: là hình thức người đi vay chuyển quyền kiểm soát tài sản
cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Thường những tài sản này khi ngân
hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến hoạt động của người đi vay.
+ Cho vay thế chấp: là hình thức người đi vay chuyển những giấy tờ chứng
nhận quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Đảm bảo
bằng thế chấp cho phép người đi vay sử dụng tài sản đảm bảo phục vụ cho hoạt
động kinh doanh.
+ Bảo lãnh là hình thức cho vay dựa trên sự bảo lãnh của người thứ ba. Theo
đó người thứ ba sẽ cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong trường hợp
người đi vay không thực hiện đúng nghĩa vụ với ngân hàng.
* Phân loại theo mục đích cho vay
-
Cho vay bất động sản: là hình thức cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng nhà ở, đất đai, bất động sản.
-
Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các DN trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
-
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc…
-
Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng dân cư như
mua sắm vật dụng đắt tiền, đồ dùng lâu bền…
* Phân loại theo phương thức cho vay
-
Thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người
vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảng thời gian xác định. Khi khách hàng có tiền về tài khoản
ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, dành cho cả DN và cá nhân.
Hình thức này thường chỉ sử dụng với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu
nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. Nếu khách hàng chi vượt quá hạn mức thấu
chi thì sẽ bị phạt hoặc đình chỉ sử dụng hình thức này.
Sơ đồ cho vay thấu chi:
y
Trục y: Số dư tiền gửi thanh toán (đồng)
Trục x: Thời gian
Hạn mức thấu chi
Vay ngân hàng (thực hiện thấu chi
Số tiền dư gửi thanh tốn
x
-
Cho vay trực tiếp từng lần: đây là hình thức cho vay áp dụng đối với những
khách hàng khơngcó nhu cầu vay thường xuyên,chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay
mở rộng sản xuất đặc biệt. Theohình thức này vốn của ngân hàng chỉ tham gia
vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ kinhdoanh. Cho vay trực tiếp từng
lần là nghiệp vụ tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm sốt từng món vay
tách biệt.
Sơ đồ cho vay trực tiếp từng lần:
y
-
Thời gian vay
Cho vay theo hạn mức
Quy mô và thời gian cho vay
Ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức này có thể cho
cả kì hoặc cuối kì. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất
kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đối với hạn mức cho cả kì thì
khách hàng có thể vay- trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn
mức tín dụng.
Sơ đồ cho vay theo hạn mức:
Thời gian
Hạn mức được duyệt trong kỳ
Dư nợ
Dư nợ trong kỳ
Hạn mức được duyệt cuối kỳ
Dư nợ
Cịn đối với hạn mức cuối kì thì dư nợ của khách hàng trong kì có thể vượt
q hạn mức nhưng dư nợ cuối kì vẫn phải đảm bảo nằm trong hạn mức.
Sơ đồ
Hình thức cho vay này thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường
Dư nợ
xuyên. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể
nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
-Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hố. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay
để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.
Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây
Thời thời
khơng phải là thời hạn hồn trả mà làgian hạn để ngân hàng xem xét lại mối
quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ thuộc
vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, uy tín của khách hàng cũng
như tình hình tài chính của khách hàng.
Đối với hình thức vay này, hàng hoá mua vào là đối tượng cho vay của ngân
hàng, thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Các khoản phải
thu và hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay.Cho vay
luân chuyển thuận tiện cho khách hàng vì thủ tục vay chỉ cần thực hiện 1 lần
cho nhiều lần vay. Tuy nhiên điều này lại gây khó khăn cho ngân hàng trong
việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
Sơ đồ cho vay luân chuyển
Cho vay
Vay (/ ), trả (\ )
Dự trữ hàng hoá
- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phépmua vàhàng
(Tăng khi khách giảm
khi bán)
trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản
cố định hoặc hàng hoá lâu bền.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hố mua
Thời gian
trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu
người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân
hàng cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy rủi ro đối với hình thức cho vay trả góp thường
cao hơn so với các hình thức cho vay khác nên lãi suất cho vay trả góp cũng là
cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua
các tổ chức trung gian như: nhóm sản xuất, Hội Nơng dân, Hội
Cựu chiến binh…
Sơ đồ cho vay gián tiếp
Ngân hàng
Trung gian: tổ, đội, hội, nhóm
Khách hàng (thường là nơng dân, người bn bán nhỏ)
Ngân hàng cũng có thể cho vay thơng qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào
của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử
dụng sai mục đích.
1.2 Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1 Khái niệm
DNVVN chiếm khoảng hơn 90% trong tổng số DN trên cả nước. DNVVN
chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
thực hiện các mục tiêu xã hội như tạo công ăn việc làm, xố đói giảm nghèo. Vì
vậy tập trung phát triển DNVVN là một nhiệm vụ quan trọng trong q trình
phát triển kinh tế, ln được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Theo nghị định số 90/201/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 23/11/2001 về trợ giúp
phát triển DNVVN thì DNVVN được định nghĩa như sau: “ Doanh nghiệp vừa
và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng kí khơng q 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung
bình hàng năm khơng q 300 người”.
Theo tiêu chí phân loại DNVVN về vốn sản xuất và lao động thường xun thì
ở Việt Nam có cách phân loại như sau:
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNVVN ở Việt Nam
Cơng nghiệp
Tiêu chí
Thương mại, dịch vụ
DNV & N
Trong đó:
DNV & N
Trong đó:
Vốn sản xuất
Dưới 5 tỷ
DN nhỏ
Dưới 1 tỷ
Dưới 2 tỷ
DN nhỏ
Dưới 1 tỷ
(đồng)
Lao động thường
Dưới 300
Dưới 50
Dưới 20
Dưới 30
xuyên (người)
(Nguồn: Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ DNVVN- Nguyễn Cúc)
Chúng ta cũng có thể tham khảo một số quan niệm về DNVVN ở một số nước
khác như Nhật Bản hay Thái Lan. Ở Nhật từ những năm 60 đã có luật về DN
trong đó DNVVN được hiểu như sau:
Bảng 1.2: Phân loại DNVVN ở Nhật Bản
Loại DN
DN sản xuất
DN bán buôn
DN bán lẻ và dịch vụ
Lao Động ( người)
Dưới 300
Dưới 100
Dưới 50
Vốn đầu tư (triệu Yên)
Dưới 100
Dưới 30
Dưới 10
( Nguồn: Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ DNVVN- Nguyễn Cúc )
Còn ở Thái Lan lại quy ước DN quy mơ vừa có 50-200 lao động, DN có quy mơ
nhỏ có dưới 50 lao động. Như vậy có thể nói DNVVN là những cơ sở sản xuất
kinh doanh có tư cách pháp nhân, có quy mơ doanh nghiệp( tuỳ theo loại hình
DN) trong giới hạn nhất định đối với từng giai đoạn cụ thể.
1.2.2 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
* Chiếm tỷ trọng lớn về số lượng DN trong nền kinh tế là các DNVVN, từ đó có
thể thấy ngay được một vai trò quan trọng của các DNVVN là giải quyết việc
làm cho người lao động.
Như khái niệm về DNVVN ở trên ta thấy rằng với số vốn ban đầu khơng lớn đã
có thể thành lập được DN. Vì vậy mà các DNVVN được thành lập rất nhiều đáp
ứng hầu hết nhu cầu của người dân về các loại sản phẩm, dịch vụ. Các DN này
cũng có sự phân bố rộng rãi trên khắp cả nước. Tuy số lao động trong mỗi DN
khơng lớn nhưng tính theo số lượng lao động của tất cả các DNVVN thì lại là
một con số không nhỏ. DNVVN tạo ra việc làm cho người lao động từ thành thị
đến nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược: tạo ra khoảng 49% việc làm phi
nông nghiệp ở nông thôn và 26% lực lượng lao động trong cả nước, giúp ổn
định kinh tế xã hội.
*Vai trị cung cấp đa dạng các loại hình sản phẩm, dịch vụ cho cả nền kinh tế.
Với một tỷ lệ nhỏ các DN lớn không thể cung cấp đầy đủ, đa dạng hàng hoá cho
cả nền kinh tế, nhất là đối với nhu cầu ngày càng lớn trong khu vực dân cư. Các
DNVVN đã làm rất tốt khi bù đắp những thiếu sót của DN lớn bằng cách linh
hoạt trong việc thay đổi mặt hàng kinh doanh. Đối với những mặt hàng khơng
cịn sức cạnh tranh, DNVVN có thể dễ dàng chuyển sang mặt hàng khác phù
hợp với nhu cầu thị trường. Nhờ đó DNVVN đã thực hiện tốt vai trị cung cấp
một lượng sản phẩm, hàng hố đa dạng, cùng với các DN lớn góp phần thúc đẩy
kinh tế phát triển. Theo số liệu thống kê vào thời điểm cuối năm 2005, các
DNVVN đóng góp khoảng gần 30% GDP và 31% giá trị tổng sản lượng công
nghiệp.
* Vai trị tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và góp phần làm cho nền kinh tế hiệu
quả hơn.
Số lượng lớn các DNVVN vừa làm tăng khối lượng sản phẩm, hàng hố đồng
thời vừa làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế. Chính nhờ tính linh hoạt
trong việc thay đổi mặt hàng kinh doanh, sự thâm nhập thị trường từ những sản
phẩm rất nhỏ làm cho các doanh nghiệp luôn gặp phải sức ép cạnh tranh. Các
DNVVN phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, giảm thiểu chi
phí, sáng tạo ra những sản phẩm tiện ích hơn…để có thể cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác và đạt mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Sự cạnh tranh đã làm
cho các doanh nghiệp hoạt động hiểu quả hơn và khi các doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả thì sẽ nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
* DNVVN góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Thuế và phí là nguồn thu chính của ngân sách quốc gia, nguồn thu này đế phục
vụ nhu cầu chi thường xuyên và chi khác của nhà nước. Nhà nước thu thuế thu
nhập doanh nghiệp đối với các DNVVN nên số lượng các DNVVN góp phần
làm tăng thu cho ngân sách nhà nước.
*DNVVN hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp lớn, là cơ sở để
hình thành các doanh nghiệp lớn.
Với đặc trưng nhỏ lẻ, các DNVVN thường hoạt động kinh doanh trong những
thị trường “ ngách” và hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp lớn trong việc tiếp
cận thị trường. DNVVN còn là nhà cung cấp những yếu tố đầu vào của sản
xuất cho những doanh nghiệp lớn. Chính vì vậy giữa DNVVN và DN lớn có
mối liên kết chặt chẽ, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Các DNVVN ban đầu hoạt động với một số vốn khơng lớn. Trong q trình
hoạt động của mình, các DN đã tích lũy vốn, kinh nghiệm để dần dần trở nên
lớn mạnh cả về chiều sâu và chiều rộng. Vì vậy có thể nói rằng DNVVN là cơ
sở để hình thành các DN lớn.
*DNVVN có vai trị quan trọng trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
DNVVN là loại hình DN đáp ứng khá đầy đủ và đa dạng các loại sản phẩm theo
nhu cầu thị trường. Để có thể đáp ứng nhu cầu một cách tốt nhất thì DN phải
ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách cải tiến máy móc thiết bị,
ứng dụng khoa học cơng nghệ vào sản xuất. Mặt khác, để cạnh tranh được trên
thị trường các DN cũng phải đổi mới công nghệ. Q trình đổi mới cơng nghệ
góp phần thúc đẩy q trình cơng nghiệp hố- hiện đại hố diễn ra nhanh hơn.
DNVVN phát triển làm cho công nghiệp, dịch vụ phát triển, giảm tỷ trọng nông
nghiệp dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tốt hơn.
•
Thu hút vốn.
Vốn là yếu tố vô cùng quan trọng đối với các DN nói chung và các DNVVN nói
riêng. Nhờ có vốn thì mới có các yếu tố đầu vào cho sản xuất, làm cho q trình
sản xuất kinh doanh diễn ra trơi chảy. Đối với các DNVVN hiện nay khi thành
lập với số vốn chủ sở hữu ít ỏi ln cần huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư.
•
Mở rộng thị trường cho các NHTM.
Các DNVVN với truyền thống là vay vốn ngân hàng nên khi các DNVVN càng
phát triển thì ngân hàng có thể cho vay nhiều hơn, từ đó thu được lợi nhuận cao
hơn. Tuy nhiên, hiện nay các NHTM cho vay đối với DNVVN cịn ít so với
lượng DNVVN trong nền kinh tế. Nếu các NHTM có thể cho vay nhiều hơn và
các DNVVN có điều kiện tốt hơn để vay vốn ngân hàng thì sẽ có lợi cho cả hai
bên.
1.3 Thực trạng phát triển DNVVN ở Việt Nam.
Sự chuyển dịch cơ cẩu kinh tế ở Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
truyền thống sang nền kinh tế theo hướng thị trường chính thức bắt đầu từ năm
1986 đã mang lại những cải thiện to lớn về hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc
sống. Vào thời gian đầu những năm 90, các DN Nhà nước chiếm tỷ trọng rất lớn
trong nền kinh tế, nhưng tỷ trọng của các DN có vốn đầu tư nước ngoài và DN
tư nhân cũng dần tăng lên. Trong khu vực kinh tế tư nhân, DNVVN nắm giữ
một vị trí quan trọng, có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế
đất nước. Theo tài liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư đến tháng 10 năm 2007, Việt
Nam có khoảng 280.000 DN được cấp phép hoạt động, trong đó có 8.500 dự án
FDI, trên 2000 DNNN, cịn lại khu vực kinh tế tư nhân. Chính phủ dự kiến đến
năm 2010 sẽ phát triển thêm 220.000 DN chủ yếu ở khu vực kinh tế tư nhân.
Các DNVVN ra đời đã giải quyết được nhiều vấn đề như việc làm, góp phần
phát triển các ngành nghề truyền thống, khơi dậy tiềm năng trong dân chúng...
Trong năm 2002 toàn bộ khu vực DN Nhà nước chỉ sử dụng khoảng 2,3 triệu
lao động so với con số gần 40 triệu người của tổng lực lượng lao động Việt
Nam. Thay vào đó là sự gia tăng lao động ở khu vực tư nhân trong giai đoạn
này, đặc biệt là sự tăng trưởng của công ty TNHH và công ty cổ phẩn. Trong
giai đoạn 2000-2002, các loại hình doanh nghiệp này đã tăng gần gấp đôi về số
lượng lao động, từ 560.000 lên đến 1.062.000 ( Tổng cục Thống kê, TCTK,
2004). Hầu hết các DN này có quy mơ vừa và nhỏ, trung bình khoảng 41 lao
động. Trong những năm gần đây số lượng DNVVN ngày càng phát triển mạnh
mẽ, chiếm tới khoảng 97% tổng số DN trên cả nước. Các DN này đóng góp
khoảng hơn 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra khoảng 50% việc
làm phi nông nghiệp ở nông thông và 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Tuy những con số thống kê ở trên là những đóng góp trực tiếp của các DNVVN
cho nền kinh tế nhưng một đóng góp quan trọng nữa mà khơng thống kê được
bằng số liệu là vai trị của DNVVN trong mối quan hệ gắn kết với các DN có
quy mơ lớn. DNVVN cung cấp cho DN lớn nguyên vật liệu đầu vào hoặc làm
trung gian cung cấp sản phẩm đến người tiêu dùng cho các DN lớn. Không chỉ
ở Việt Nam mà với một số nước phát triển như Mỹ DNVVN cũng vẫn giữ một
vị trí quan trọng, điều này thể hiện ở con số 40% GDP của nước Mỹ là nhờ vào
sự đóng góp của những DN thuộc khu vực này. Những DN lớn như Boeing hay
Microsoft cũng không thể hoạt động đơn lẻ mà phải có sự hợp tác với các cơng
ty có quy mơ vừa và nhỏ.
Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, các DNVVN chiếm một số lượng lớn nhưng hoạt
động của những DN này vẫn gặp phải một số khó khăn. Khó khăn đầu tiên phải
kể đến là các DNVVN ở nước ta khó có thể tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng.
Vốn là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của một DN, do vậy khó tiếp
cận với vốn là khó khăn khơng nhỏ của DNVVN, nhất là đối với các khoản vay
trung và dài hạn từ ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác. Đặc biệt, các
khoản vay có bảo lãnh hiếm khi được dành cho DNVVN. Theo một cuộc điều
tra năm 2005 có tới 66,95% doanh nghiệp cho biết thường gặp khó khăn về tài
chính. Về khả năng tiếp cận nguồn vốn của Nhà nước chỉ có 32,38% số doanh
nghiệp tiếp cận được nguồn vốn của Nhà nước, chủ yếu là DN Nhà nước và DN
cổ phần hố; 35,24% số DN khó tiếp cận và 32,38% số DN không tiếp cận
được. Nguyên nhân từ cả hai phía ngân hàng và DN, ngân hàng thì e ngại cho
vay vì DN khơng đáp ứng đủ điều kiện về tài sản đảm bảo, về phương án sản
xuất kinh doanh, các báo cáo tài chính thừơng mang tính chất đối phó, khơng
trung thực, khơng tn thủ chế độ phát hành hố đơn bán hàng.... Cịn các DN
thiếu vốn muốn vay nhưng lại không đáp ửng đủ điều kiện của ngân hàng. Các
ngân hàng nên đổi mới phương thức kinh doanh, tích cực hơn trong việc tìm
kiếm khả năng cho vay, tăng cường đội ngũ cán bộ đi sâu sát cơ sở, bình đẳng
hơn trong quan hệ tín dụng giữa các loại hình DN, đổi mới cơ cấu đầu tư và
nâng cao tỷ trọng cho vay... Ngược lại các DN cũng nên nâng cao năng lực quản
lý điều hành với đội ngũ lãnh đạo, tích cực đào tạo nguồn nhân lực chủ động,
sáng tạo, thực hiện nghiêm chỉnh Luật doanh nghiệp và các luật liên quan trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện công khai minh bạch các báo cáo tài
chính, đảm bảo tính trung thực của các báo cáo tài chính. Như vậy DN mới tạo
được lịng tin cho ngân hàng.
Khó khăn tiếp theo phải kể đến là khó khăn về cơng nghệ. Cơng nghệ do các
DNVVN sử dụng hiện nay đã lạc hậu hàng chục năm. Do đó nó có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất luợng và mẫu mã sản phẩm dẫn đến sản phẩm làm ra không
đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Thêm vào đó, kỹ năng nghiệp
vụ quản lý cũng như tay nghề lực lượng lao động trong các DNVVN hiện nay bị
đánh giá thấp so với nhu cầu. Hơn nữa, đa số chủ các DN khơng có kiến thức,
thơng tin về chuyển giao công nghệ. Với một số DN mua cơng nghệ chỉ đơn
giản là mua máy móc thiết bị. Công nghệ tốt giúp DN tăng năng suất lao động,
sản xuất ra những sản phẩm với mức chất lượng phù hợp, giảm bớt chi phí sản
xuất, nhờ đó tăng năng lực cạnh tranh. Qua số liệu thống kê về một cuộc nghiên
cứu ở Quảng Nam và Đà Nẵng vào năm 2006 cho thấy 62% DNVVN khơng
cho rằng mình phải thay đổi công nghệ. Trong số những người cho rằng cần
thay đổi cơng nghệ, chỉ có 15% đã có kế hoạch cụ thể cho việc thay đổi cơng
nghệ. Rất ít chủ DN có quyết tâm thay đổi và nỗ lực trong việc tìm kiếm nguồn
lực cho thay đổi cơng nghệ.
Trình độ cán bộ quản lý cũng là một bất cập. Theo số liệu thống kê cho đến cuối
năm 2005, có tới 55,63% số chủ DN có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống,
trong đó 43,3% chủ DN có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Số
người đạt tiến sĩ chỉ chiếm 0,66%; thạc sĩ 2,33% , đã tốt nghiệp đại học 37,82%,
tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%, tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm
12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng chú ý là đa số các chủ DN
ngay những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên cũng ít
người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghịêp. Một giải
pháp được đưa ra là liên kết giữa các trường Đại học với các DNVVN. Đây là
biện pháp nhằm mang lại lợi ích cho cả hai bên. Hoạt động trong cơ chế thị
trường, các cơ sở đào tạo phải luôn tuân thủ một nguyên tắc chung là sản phẩm
đào tạo của nhà trường phải đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Ngoài ra, việc xin cấp đất, hoặc thuê đất của DNVVN bị cản trở bởi hồ sơ, thủ
tục khá phức tạp hay một khó khăn cũng thường được nhắc tới khi nói đến
các DNVVN là thường phải chịu thiệt thịi, gánh những thơng lệ với điều
kiện cạnh tranh khơng bình đẳng ở thị trường trong nước; khả năng tiếp xúc
thương mại, tiếp cận với thị trường quốc tế cịn khó khăn; điều kiện tiếp cận
với thông tin về văn bản, pháp luật, thị trường, tiến bộ cơng nghệ... cịn hạn
chế.
Theo chỉ đạo của Chính Phủ, đến năm 2010, cả nước sé có 500.000 DNVVN,
tạo việc làm cho khoảng 20 triệu người. Muốn thực hiện được mục tiêu đề ra
Chính Phủ cần chỉ đạo các bộ, ban, ngành có liên quan thực hiện những giải
pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của DNVVN, có như vậy thì việc tăng
số lượng DNVVN trong nền kinh tế mới hiệu quả.
Năm 2006 khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO có nhiều ảnh hưởng đến khu
vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là đối với DNVVN. Sau đây là một số ảnh hưởng
đối với DNVVN:
• Những tác động tích cực
- Các DNVVN có hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi hơn để phát triển.
Năm 2000 Luật DN ra đời, từ đó đến nay Chính Phủ cũng đã ban hành nhiều
Nghị định, Quyết định mang tính pháp lý dành riêng cho hỗ trợ DNVVN phát
triển như: Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng, Quyết định này đã được sửa đổi bằng Quyết định
số 127/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN; Quyết định số
992/2001/QĐ-NHNN về mức cho vay khơng có bảo đảm của NHTM Cổ phần
và Ngân hàng liên doanh; Quyết định số 993/2001/QĐ-NHNN về mức cho vay
khơng có bảo đảm của NHTM Nhà nước, Quyết định 456/2002/QĐ-NHNN về
cơ chế lãi suất thoả thuận…
NHNN còn ban hành chỉ thị CT/03-NHNN ngày 21/5/2003 trong đó u cầu
các tổ chức tín dụng tạo mọi điều kiện cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế
tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
- Hội nhập WTO tạo mơi trường kinh doanh bình đẳng hơn cho DNVVN ở
khu vực kinh tế tư nhân phát triển
- DNVVN có điều kiện thuận lợi tiếp cận với thị trường thế giới
Từ năm 2002 trở lại đây, mọi DN không phân biệt thành phần kinh tế kể cả hộ
cá thể có đăng kí kinh doanh hợp pháp đều có quyền xuất - nhập khẩu trực tiếp
với nước ngoài. Các rào cản về giấy phép, hạn ngạch xuất - nhập khẩu giảm rất
nhiều; việc đi lại của các cá nhân Việt Nam ra nước ngoài tạo điều kiện thuận
lợi cho các DNVVN tiếp cận với thị trường thế giới.
- Môi trường kinh doanh minh bạch và công khai
Hiện nay các cơ quan của Nhà nước đều công khai công bố dưới nhiều hình
thức các cơ chế chính sách có liên quan đến DN, giúp các DN tiếp cận kịp thời,
ít tốn thời gian và tiền bạc.
- Thủ tục hành chính thuận lợi hơn.
- Nâng cao tính tự chủ của các DNVVN.
- Cùng với tiến trình hội nhập, thuế nhập khẩu và các rào cản phi thuế
quan giảm: Việc giảm giá nguyên vật liệu nhập khẩu phục vụ chi phí đầu vào
giúp các DN thuận lợi hơn trong việc đưa hàng hoá thâm nhập vào thị trường
thế giới. Việt Nam được hưởng qui chế tối huệ quốc tại 164 nước trên thế giới
nên nhiều ngành hàng, mặt hàng được miễn giảm thuế, xoá bỏ hạn ngạch. Đây
là nguyên nhân cơ bản tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của các
DNVVN; cạnh tranh trên thị trường tăng, tạo điều kiện thúc đẩy các DNVVN
đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để nâng
cao sức cạnh tranh…
• Những hạn chế của việc gia nhập WTO :
- Sự chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế ở tất cả các cấp chưa đáp ứng yêu cầu:
Các bộ, ngành nhiều nơi chưa nhận diện rõ hội nhập mang lại cơ hội, thách thức
gì một cách cụ thể. Vấn đề này sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến xây dựng cơ chế
chính sách, đáp ứng nhu cầu hội nhập, gây khó khăn cho các DN, trong đó có
các DNVVN.
- Mơi trường kinh doanh đã cải thiện nhiều nhưng chưa nhanh.
Theo xếp hạng của “ Doing business – 2007 “, một tổ chức co uy tín, Việt Nam
xếp hạng 104/175 nước tham gia khảo sát, tụt 6 bậc so với năm 2006, ở hàng
năng lực cạnh tranh tụt 3 bậc, đứng thứ 132 trên thế giới. Theo các chuyên gia,
sự thay đổi cơ chế quản lý chưa đáp ứng nhu cầu hội nhập do đó chưa tác động
mạnh nhằm mang lại những thay đổi to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và cho khu vực DNVVN nói riêng.
- Nguồn vốn đầu tư trong nước tại các DNVVN còn hạn chế, điều kiện nâng cấp
và hiện đại hoá cơ sở vật chất cịn thấp, khó có khả năng hội nhập sâu rộng
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
- Thiếu thơng tin về thị trường, trình độ quản lý DN còn yếu.
- Theo cam kết WTO, Việt Nam bỏ tài trợ trực tiếp đối với hoạt động xuất khẩu.
Điều này sẽ ảnh hưởng nhất định đối với các DNVVN khi tham gia xuất khẩu
hàng hoá ra thị trường khu vực và thế giới.
- Những qui định, chuẩn mực kinh doanh mới như: bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
vấn đề rào cản trong hoạt động kinh doanh quốc tế, quản lý tiêu chuẩn hoá quốc
tế, chuẩn mực nâng cao cạnh tranh cho DN… đã tác động không nhỏ đến hoạt
động kinh doanh của các DNVVN mới được thành lập, kinh nghiệm kinh doanh
còn hạn chế.
- Việc Việt Nam chưa được thừa nhận có nền kinh tế thị trường:
Theo cam kết khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế phi thị
trường cho đến năm 2018. Điều này đã tác động đến khả năng tự vệ, chống bị
kiện phá giá của DNVVN trong hoạt động thương mại quốc tế. Bên cạnh đó,
hầu hết các DNVVN bị lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, nhập siêu
gia tăng. Nhập khẩu nhiều dẫn đến chi phí và rủi ro kinh doanh tăng, tác động
hạn chế đến khả năng cạnh tranh của các DNVVN trong nước cũng như thị
trường quốc tế.
1.4 Đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam
1.4.1 DNVVN được thành lập dễ dàng .
Theo như khái niệm về DNVVN thì tuỳ theo từng loại hình DN mà có các điều
kiện thành lập khác nhau về vốn và lao động nhưng những điều kiện đối với
việc thành lập DNVVN là tương đối dễ dàng hơn. Chỉ cần một số vốn ban đầu
không lớn, mặt bằng sản xuất nhỏ, số lượng lao động ko nhiều…là có thể thành
lập một DNVVN. Hầu hết các DNVVN đều đi lên từ hộ kinh doanh cá thể hay
DN tư nhân với số vốn ban đầu là vốn của chủ DN hoặc vay từ bạn bè, người
thân. Cho đến cuối năm 2007, theo số liệu thống kê ở Việt Nam có khoảng
300.000 DN, trong đó DNVVN chiếm 97%.
Chính do đặc điểm được thành lập dễ dàng mà số lượng DNVVN tăng lên
nhanh chóng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số DN trên toàn quốc. Số lượng
DNVVN ngày càng nhiều thì nhu cầu vốn đối với DNVVN ngày càng lớn. Theo
định hướng của Nhà nước, đến năm 2010 nước ta sẽ có khoảng 500.000
DNVVN. Như vậy số lượng các DN này khơng ngừng tăng lên và do đó các
NHTM ln cần tạo điều kiện để mở rộng cho vay đối với loại hình DN này,
đáp ứng nhiều hơn nữa cầu về vốn. DNVVN sẽ là đối tượng khách hàng tiềm
năng của các NHTM.
1.4.2 DNVVN dễ thích ứng, thay đổi linh hoạt với nhu cầu thị trường.
Với tính chất nhỏ, gọn, dễ quản lý, các DNVVN có thể thâm nhập vào từng
“ngóc ngách” của thị trường, có điều kiện nắm bắt nhanh chóng sự thay đổi
nhu cầu thị trường. Từ đó DN sẽ chủ động thay đổi mặt hàng kinh doanh phù
hợp với thị trường. Do cơ sở vật chất kĩ thuật không lớn, số lượng lao động
không quá nhiều nên việc chuyển đổi sản xuất hoặc thu hẹp qui mô đối với
DNVVN dễ dàng hơn, không gây ra những hậu quả cho xã hội.
Sản xuất ra những hàng hoá, tạo lượng cung hàng để đáp ứng lượng cầu hàng
của thị trường là mục tiêu mà các DN hướng tới. Khi có cơ hội các DN mở rộng
quy mơ DN mình bằng cách vay vốn ngân hàng. Không giống như những DN
lớn gặp khó khăn trong việc thay đổi sản phẩm hay thay đổi qui mơ, DNVVN
có thể mở rộng hơặc thu hẹp qui mô một cách linh hoạt theo thị trường. Nhưng
theo sự phát triển kinh tế đa số các DN đều vay vốn để mở rộng. DN đầu tư cho
mình cả về chiều sâu lẫn chiều rộng nên các sản phẩm tín dụng như vay vốn bổ
sung vốn lưu động hay cấp hạn mức mở L/C để nhập khẩu nguyên vật liệu đầu
vào, tài trợ dự án… hay được các DN sử dụng.
1.4.3 Vốn chủ sở hữu nhỏ, khả năng tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng
còn hạn chế.
DNVVN được thành lập với số vốn ban đầu chủ yếu là của chủ DN tự bỏ ra và
vay thêm của gia đình, bạn bè nên nguồn này thường khơng lớn. Tuy nhiên đây
cũng là một lợi thế trong trường hợp nền kinh tế suy thối, khi đó vốn chủ là lá
chắn chống lại sự phá sản cho các DN.
Do vốn chủ nhỏ nên các DN phải tìm cách huy động vốn từ các nguồn khác.
Trong đó vay vốn từ ngân hàng là cách mà hầu hết các DN sử dụng. Nhưng hiện