Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Luận văn tốt nghiệp "Thu hút FDI tại Trung Quốc"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 106 trang )



- - - [ 

\ - - -




ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP




Thu hút FDI tại
Trung Quốc



THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

1
LỜI NÓI ĐẦU

Sau hơn 20 năm (từ 1979 đến nay) thực hiện chính sách cải cách mở cửa,
kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, thu hút sự chú ý của cả
thế giới. Kim ngạch ngoại thương hai chiều của Trung Quốc đã tăng từ 28 tỷ
USD năm 1982 lên 510 tỷ USD năm 2001. Năm 2001, Trung Quốc trở thành
nước xuất khẩu đứng thứ bẩy thế giới (266,3 tỷ USD) và là nướ


c nhập khẩu
đứng thứ 8 trên thế giới (243,7 tỷ USD). Cho đến nay, tương ứng với các thời
kỳ, nền kinh tế Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng. Vị thế
và ảnh hưởng của Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt. Nhiều nhà kinh tế nhận định
rằng, từ nay đến hết thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn là thờ
i kỳ phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế Trung Quốc.
Một trong những yếu tố tạo nền sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của Trung
Quốc trong hơn 20 năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI). Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các
nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu trên thế giới về thu hút đầu tư
trực
tiếp nước ngoài và thậm chí đã vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2002 với 52,7 tỷ
USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành động lực của sự phát triển kinh tế
Trung Quốc và chính nó là yếu tố then chốt để nước này thực hiện công nghiệp
hoá hướng về xuất khẩu. Quan trọng hơn, nó là cơ sở chủ yếu để Trung Quốc
thực hiện bước chuyển từ
một nước nông nghiệp, khai thác tài nguyên, xuất
khẩu nguyên liệu là chính sang thành nước sản xuất và xuất khẩu chủ yếu các
mặt hàng công nghiệp chế tạo. Nhờ có đầu tư trực tiếp nước ngoài mà đất nước
Trung Quốc đã thay da đổi thịt. Nếu như trước khi mở cửa, Trung Quốc được
ví như một hành tinh chết, không sinh sôi, không nảy nở, phát triển thì sau 20
năm mở cửa, một đất nướ
c Trung Quốc lớn mạnh đang hình thành, tạo nên một
trong những “điều thần kỳ kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ”.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

2

Việt Nam tiến hành cải cách mở cửa sau Trung Quốc 8 năm nên việc
tham khảo kinh nghiệm trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Trung Quốc trong quá trình phát triển kinh tế là cần thiết.
Về mặt lý luận, nó giúp ta có thêm dữ liệu để hiểu kỹ bản chất của đầu tư
trực tiếp nước ngoài, vừa là điều kiện để đánh giá chuẩn xác hơn s
ự tác động
của loại hình kinh tế này đối với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Về
thực tiễn, Trung Quốc phát triển kinh tế thành công một phần lớn là nhờ đã triệt
để tận dụng những ưu thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bài học thiết thực
được đúc kết là nước nào có năng lực thu hút và biết sử dụng hiệu quả đầ
u tư
trực tiếp nước ngoài thì kết quả đạt được trong quá trình phát triển tương đối
thành công.
Chúng ta tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc chính là cơ sở để học
hỏi những thành công và né tránh những điều chưa hợp lý mà Trung Quốc đã
vấp phải. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải là “chìa khoá vạn năng”,
nó cũng có những mặt trái nên trong khoá luận này, tôi xin đề cập cả những
bài học thành công cũng như chưa thành công của Trung Quốc. Tham khảo
một cách có chọn lọc những bài học kinh nghiệm là yêu cầu cần thiết, bổ ích
cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
chia thành 3 chương:
Chương I: Thực trạng thu hút FDI tại Trung Quốc.
Chương II: Những bài học kinh nghiệm trong thu hút FDI tại Trung Quốc.
Ch
ương III: Vận dụng kinh nghiệm trong hoạt động thu hút FDI của trung
quốc ở Việt Nam.
Do trình độ và thời gian có hạn nên khoá luận này không tránh khỏi thiếu
sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Bùi Thị Lý, người đã tận

tình hướng dẫn tôi trong việc hoàn thành khoá luận này.

THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

3
Hà Nội, tháng 5 năm 2003.
Người viết
Học viên Nguyễn Thị Thu Hảo
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

4
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC

Năm 1979 đánh dấu việc Trung Quốc mở cửa thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI). Kể từ đó đến nay, tình hình thu hút FDI tại Trung Quốc
đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Có thể tóm tắt quá trình thu hút FDI tại
Trung Quốc thành bốn giai đoạn.

I. THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC QUA CÁC GIAI ĐOẠN

1. Giai đoạn thăm dò (1979 - 1985)
Do Trung Quốc có một thời gian dài đóng cửa bài ngoại nên đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc trong giai đoạn đầu này chỉ mang tính
thăm dò, mức độ chậm chạp, quy mô không lớn. Chủ yếu là các dự án đầu
tư vào vùng duyên hải của các nhà tư bản vừa và nhỏ ở Hồng Kông, Ma

Cao. Các nhà đầu tư chủ yếu đầu tư vào các công trình nhà hàng, khách
sạn thu lợ
i tương đối cao. Hầu hết các hạng mục quy mô nhỏ, kỹ thuật
thấp, kỳ hạn quay vòng vốn ngắn. Tính tới cuối năm 1985, Trung Quốc đã
thu hút được 6.321 hạng mục, với số vốn đầu tư thực tế là 4,72 tỷ USD.
Hầu hết các hạng mục sử dụng nhiều lao động vào những ngành gia công
cấp thấp hoặc trung bình. Mục đích của nhà đầu tư lúc đó là l
ợi dụng sức
lao động rẻ ở Trung Quốc.

2. Giai đoạn phát triển ổn định (1986 - 1991)
Đầu năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh. Chiến lược thu hút FDI
được cựu Tổng bí thư Đảng CS Trung Quốc Triệu Tử Dương gọi là “lưỡng
đầu tại ngoại”, tức là dựa vào bên ngoài cả về cung đầu vào lẫn thị trường đầu
ra. Với chiến lược này, Trung Quốc quyết định lấy mục tiêu kinh tế loại hình
hướng ra bên ngoài là k
ết hợp công thương, lấy xây dựng công nghiệp làm chủ,
lấy trọng điểm từ việc trải ra kinh doanh chuyển hướng cơ bản sang nắm sản
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

5
xuất, nâng cao trình độ để đạt hiệu quả kinh tế. Đây là quyết định có ý nghĩa
quan trọng cho sự phát triển kinh tế ở Trung Quốc. Chính sách này rất khác so
với chính sách của nhiều nước công nghiệp hoá mới (NICs) là thu hút FDI vào
sản xuất thay thế nhập khẩu. Đặc điểm của Trung Quốc là đồng thời chuyển
đầu tư nước ngoài từ thay thế nhập khẩu sang hướng về xuất khẩ
u đồng thời
vẫn thực hiện công nghiệp hoá. Đặc điểm này đã làm cho các nhà đầu tư chú ý.

Các nhà đầu tư từ trên 60 nước và khu vực, chủ yếu là từ Hồng Kông,
Ma Cao, Đài Loan, Nhật Bản và các nước phát triển phương Tây đã đến Trung
Quốc. Họ chủ yếu đầu tư vào các ngành năng lượng, thông tin, chế tạo máy,
điện tử, dệt, công nghiệp nhẹ, hoá chất, nông nghiệp, lâm nghiệp, ch
ăn nuôi,
đánh cá, xây dựng và ngành bất động sản. Những dự án được chấp thuận ở các
tỉnh và thành phố duyên hải chiếm 80% tổng số của cả nước. Đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài có sự chuyển hướng từ các ngành kinh doanh dịch vụ sang các
ngành công nghiệp chế tạo, chủ yếu là các ngành công nghiệp tập trung nhiều
lao động, sản phẩm được tái xuất qua Hồng Kông phù hợp vớ
i chiến lược sử
dụng vốn nước ngoài cho mục đích xuất khẩu của Trung Quốc, đã làm tổng sản
lượng công nghiệp tăng lên.
Năm 1991, Trung Quốc đã thông qua việc khống chế vĩ mô, kết hợp chặt
chẽ chính sách ưu đãi trong thu hút vốn nước ngoài và chính sách ngành nghề
của đất nước, khuyến khích có trọng điểm đầu tư nước ngoài vào các hạng mục
theo hướng phù h
ợp với chính sách ngành nghề, các hạng mục phải có quy mô
tương đối lớn và có kỹ thuật tiên tiến. Đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển
vững chắc hơn. Theo báo cáo điều tra của Cục mậu dịch Hồng Kông, từ năm
1979 - 1991, Trung Quốc đã phê chuẩn 12.100 hạng mục vốn nước ngoài, kim
ngạch ký kết theo hiệp định là 121,5 tỷ USD, vốn lợi dụng thực tế đạt 79,6 tỷ
USD.
Nhìn chung, giai đ
oạn 1984 - 1991, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Trung Quốc phát triển ổn định, có sự tăng trưởng cao. Đặc điểm chủ yếu của
đầu tư là các hạng mục mang tính sản xuất ngày càng tăng, (riêng năm 1991
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9


6
chiếm trên 90%). Các hạng mục mang tính kỹ thuật tiên tiến và thuộc loại hình
xuất khẩu ngày càng nhiều.

3. Giai đoạn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ (1992 - 1993)
Bước sang thập kỷ 90, sau chuyến đi thị sát của Đặng Tiểu Bình ở các
tỉnh phía Nam, tại Đại hội XIV năm 1992, Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết
định đẩy nhanh tốc độ kinh tế thị trường. Cả nước đã hình thành kết cấu mở
cửa đối ngoại bao gồm 339 huyện thị với diện tích hơn 50 vạn km
2
và hơn 300
triệu người. Trung Quốc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ngày càng phù
hợp với yêu cầu và đòi hỏi của kinh tế thị trường, mở rộng thêm các lĩnh vực
đầu tư, quyết định đẩy nhanh sự phát triển của ngành nghề thứ ba và đặc biệt là
mở rộng thị trường nội địa. Các nhà đầu tư đã nhìn thấy thị trường nộ
i địa rất
tốt, tiềm lực rất lớn, do vậy họ đã đầu tư ồ ạt vào thị trường trong nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc tăng trưởng cao chưa từng
thấy. Số lượng đầu tư của thương gia nước ngoài tăng theo cấp số nhân. Năm
1992, tổng số hạng mục đầu tư của thương gia nước ngoài ký kế
t trên cả nước
là 48.764 hạng mục, tăng 3,75 lần so với 1991. Nó vượt quá cả tổng số hạng
mục thời kỳ 1979 - 1991 là 42.027 hạng mục. Kim ngạch ký kết theo hiệp định
là 58,12 tỷ USD, tăng 4,85 lần so với 1991, vượt qua tổng kim ngạch ký kết
thời kỳ 1979 - 1991, là 52,54 tỷ USD. Kim ngạch sử dụng thực tế là 11,01 tỷ,
tăng 2,52 lần so với năm 1991. Năm 1993, số dự án đầu tư củ
a thương gia nước
ngoài lên tới 83.437 hạng mục, tăng 71,1% so với năm 1992. Kim ngạch ký kết
theo hiệp định là 111,44 tỷ USD, tăng 149,95% so với năm trước. Đồng thời nó

cũng nhiều hơn tổng kim ngạch ký kết 14 năm trước đó (1987 - 1992) là 110,46
tỷ USD. Mức sử dụng thực tế đạt 27,52 tỷ USD, tăng 2,49 lần so với năm 1992
và tương đương 80% tổng kim ngạch 14 năm trước đó.
Ngu
ồn FDI trong 2 năm đến từ hơn 120 nước và khu vực. Tốc độ tăng
trưởng của các nước phương Tây tăng nhanh. Trong đó các công ty xuyên quốc
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

7
gia (TNCs), các nhà tư bản từ 3 cường quốc Mỹ - Nhật - EU ngày càng tăng
cường số lượng đầu tư vào Trung Quốc.
TNCs và các nhà tư bản lớn phương Tây đầu tư vào Trung Quốc mang
theo một số loại hình đầu tư mới, quy mô đầu tư lớn, khởi điểm kỹ thuật cao,
sản phẩm cao cấp hoá. Các dự án mang tính sản xuất trong kết cấu ngành nghề
giảm xuống. Các dự
án mang tính phi sản xuất phát triển tương đối nhanh. Đặc
biệt là ngành bất động sản tăng cao, chiếm tỷ trọng lớn trong số các dự án và tỷ
lệ trong số vốn của hiệp định từ 9,3% và 31% năm 1992 lên đến 13,57% và
39,28% năm 1993.
Do đầu tư tăng cao đã gây nên những cơn sốt đầu tư, gây ra tình
trạng rối loạn về bất động sản, về mở khu chế xuấ
t, khu khai thác kinh tế
kỹ thuật. Đầu tư tăng cao đã làm cho nền kinh tế trở nên quá nóng. Năm
1992, kinh tế tăng trưởng 12%, năm 1993 tăng 13,4%. Tốc độ tăng trưởng
này đã kéo theo rối loạn về tài chính tiền tệ, tổng cung và tổng cầu mất
cân bằng ảnh hưởng đến lạm phát.
Năm 1992, 1993, tuy đầu tư tăng trưởng cao nhưng tỷ trọng kim ngạch
sử dụng thực t

ế trong kim ngạch hiệp định mỗi năm là 18,9% và 24,7%, thấp
hơn so với mấy năm trước đó. Tình trạng này xẩy ra một phần do ở nhiều địa
phương đã mù quáng đưa các hạng mục đầu tư mà tiền vốn đồng bộ trong nước
kèm theo không đủ, thiết bị cơ sở hạ tầng không theo kịp, nguyên liệu, nhiên
liệu, cung ứng không đủ.
Nhìn chung, FDI những năm 1992 - 1993 tăng trưởng v
ới tốc độ cao
ở Trung Quốc. Đặc trưng cơ bản của nó là mở rộng khu vực đầu tư, mở
rộng ngành nghề, mở rộng quy mô dự án, cải thiện kết cấu đầu tư, kết cấu
ngành nghề có sự chuyển biến cao cấp hoá.

4. Giai đoạn điều chỉnh (1994 đến nay)
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

8
Trước tình trạng FDI tăng trưởng quá nóng trong giai đoạn 1992 - 1993,
từ năm 1994, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh chiến lược thu hút
FDI theo hướng:
+ Đưa tiền vốn vào từ công nghiệp gia công thông thường chuyển sang
các ngành nghề cơ sở, ngành nghề tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật.
+ Từ tiếp nhận những hạng mục nhỏ chuyển sang tiếp nhận những hạ
ng
mục lớn và vừa.
+ Từ thu hút tiền vốn ngành nghề chuyển sang thu hút tiền vốn lưu thông
quốc tế.
+ Từ xây dựng doanh nghiệp mới là trọng tâm chuyển sang cải tạo
những doanh nghiệp cũ.
+ Từ việc đưa đầu tư vào đối tượng bị động chuyển sang đưa vào đối

tượng chủ động, có lựa chọn, chú trọng hơn đến chất lượng củ
a đầu tư.
Chính sách điều chỉnh đã làm dịu tình trạng kinh tế quá nóng của Trung
Quốc trong 2 năm 1992 - 1993. Trong 6 tháng đầu năm 1994, những cơn sốt về
mở khu chế xuất và bất động sản đã dịu xuống. Số lượng dự án mở khu chế
xuất, khu phát triển kỹ thuật ở các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, Sơn Đông, Phúc
Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Liêu Ninh, Hà Bắc đã giả
m từ hơn 1.200 khu
xuống chỉ còn 200 khu. Kim ngạch dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng
143,5% trước đây chỉ còn tăng 43,9%. Ở khu vực duyên hải - điểm nóng mà
thương gia nước ngoài đầu tư ngoài Thượng Hải - tăng một chút 1,5%, với kim
ngạch tăng 14,2%, các tỉnh và thành phố khác đều có xu thế giảm đi, trong đó,
Giang Tô giảm 55,5%, Sơn Đông giảm 50%.
Nhờ điều chỉnh mà đầu t
ư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đã có sự
chuyển biến rõ rệt từ số lượng sang chất lượng. Từ năm 1994 đến nay, mặc dù
kim ngạch hiệp định có xu hướng giảm đi nhưng kim ngạch sử dụng thực tế
tăng lên. Thượng Hải và Bắc Kinh từng nơi tăng trưởng 2,1 lần và 2,7 lần. Sơn
Đông tăng ít nhất cũng đạt 17%. Tính chung cả nước trong n
ăm 1994, số hạng
mục đầu tư được Trung Quốc phê chuẩn là 47.490, giảm 43,09% so với năm
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

9
1993. Số kim ngạch đầu tư ký kết theo hiệp định là 81,41 tỷ USD, giảm
26,95%. Song số kim ngạch sử dụng thực tế là 33,75 tỷ USD, tăng 22,78%,
chiếm 41,5% trong tổng kim ngạch đầu tư ký kết theo hiệp định. Vốn FDI thực
tế vào Trung Quốc trong hai năm tiếp theo 1995, 1996 cũng vẫn tăng đều đặn

với mức 10%/ năm.
Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vự
c
năm 1997 mà luồng vốn FDI vào Trung Quốc có sụt giảm trong hai năm 1998,
1999. Kim ngạch thực tế trong hai năm này lần lượt chỉ đạt 43,7 tỷ USD và
40,3 tỷ USD, giảm 1% và 7% so với những năm trước đó. Cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ làm giảm thực lực kinh tế của các nước trong khu vực như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan, Hồng Kông, vốn là những đối tác đầu tư chủ
y
ếu của Trung Quốc (chiếm hơn 75% tổng vốn FDI). Các nước này phải giải
quyết những khó khăn nội tại nên giảm đầu tư ra nước ngoài nói chung và vào
Trung Quốc nói riêng. Trung Quốc đã tiến hành một loạt các biện pháp nhằm
tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư như: duy trì ổn định tỷ giá đồng
NDT, duy trì tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, tiế
p tục đầu tư cải thiện cơ
sở hạ tầng, lựa chọn những hạng mục đầu tư có hiệu quả cao, nâng cao hàm
lượng khoa học kỹ thuật của các hạng mục. Nhờ vậy, từ năm 2000, FDI vào
Trung Quốc bắt đầu phục hồi trở lại mức 40,77 tỷ USD, 46,87 tỷ USD vào năm
2001, và tăng lên con số kỷ lục là 52,7 tỷ USD vào năm 2002 và theo dự đoán
trong năm 2003 sẽ đạt 60 tỷ USD. Hiện nay, có hơn 400.000 doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thuộc 180 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động ở
Trung Quốc.

II. ĐẶC ĐIỂM FDI TẠI TRUNG QUỐC

1. Nguồn vốn đầu tư
Với thị trường tiêu thụ khổng lồ và môi trường đầu tư thuận lợi, Trung
Quốc là một mảnh đất màu mỡ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Như Lord
THU HT FDI TI TRUNG QUC V KINH NGHIM VI VIT NAM


NGUYN TH THU HO, A1 CN9

10
Powell, Ch tch ca China - British Council tuyờn b: ng ph Trung
Quc khụng c dỏt vng. Nhng Trung Quc ti nay ó thu hỳt nhiu vn
FDI hn bt c quc gia no, tr M, v thu hỳt c mt lng FDI ln gp
10 ln lng FDI vo n .
Lng vn FDI vo Trung Quc ngy cng nhiu. Ch riờng trong
giai on 1996 - 1999, FDI vo Trung Quc t 126 t USD, gp 6 ln FDI vo
Nht Bn. Nu nh n
m 1991, Trung Quc ch ng th 13 th gii v th 3
trong cỏc nc ang phỏt trin v thu hỳt FDI thỡ t nm 1992 - 1998, Trung
Quc liờn tc ng u cỏc nc ang phỏt trin v ng trong tp u ca th
gii v thu hỳt FDI. Tuy nhiờn, nm 1999, FDI gim t mc 48 t USD (1998)
xung cũn 40,4 t USD (1999). õy l ln u tiờn lung FDI vo Trung Quc
cú s gim sỳt k t khi Trung Quc ci cỏch kinh t v m c
a t 1979. T
nm 2000, FDI ó khi sc tr li mc 40,7 t USD, tng lờn 46,8 t USD vo
nm 2001 v tng lờn con s k lc l 52,7 t USD vo nm 2002.

Hỡnh 1: 13 nc thu hỳt FDI hng u th gii nm 2000 v 2001
n v : t USD














3
6
4
9
7
32
13
23
25
15
27
67
32
185
47
41
50
52
51
246
53
43
54
117
124

301
0 50 100 150 200 250 300 350
Na Uy
Phần L an
Đan Mạch
Thuỵ Điển
Mêhicô
Canada
Đức
Trung Quốc
H Lan
Bỉ v Lux
Pháp
Anh
Mỹ
2000
2001
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

11

Nguồn:
UNCTAD World Investment Report 2002.


Tính tới cuối năm 2001, tổng kim ngạch ký kết theo hiệp định đạt 731,9
tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 395,192 tỷ USD. Riêng năm 2001, Trung
Quốc đã phê chuẩn 26.140 hạng mục, với số vốn ký kết theo hiệp định là 69,19

tỷ USD, số vốn sử dụng thực tế đạt 46,87 tỷ USD.
Như vậy mặc dù sự kiện 11 tháng 9 có làm sụt giảm đầu tư toàn cầu
như
ng nhờ việc Trung Quốc gia nhập WTO (tháng 11 / 2001), nên đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Trung Quốc vẫn gia tăng. Với 46,84 tỷ USD tiếp nhận
được, Trung quốc đã chiếm 23% vốn FDI vào các nước đang phát triển và
chiếm 6,4% vốn FDI toàn cầu.

2. Đối tác đầu tư

Hình 2: Đầu tư chủ yếu của MNCs và Tư bản Hoa kiều (expatriates)
giai đoạn 1983 - 1997
Đơn vị: triệu USD











THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

12
Nguồn:

Guha, Ashok and Ray, Amit S. (2000), “Multinational vs Expatriate FDI: A
comparative Analysis of the Chinese and Indian experience”, New Delhi.
Ngay từ khi mới mở cửa, Trung Quốc đã huy động tối đa tiềm năng của
người Hoa ở nước ngoài phục vụ cho hoạt động thu hút đầu trực tiếp nước
ngoài. Người Hoa ở nước ngoài không những đã trở thành lực lượng hùng hậu
tiến hành việc tuyên truyền, quảng bá chính sách, vận động, làm môi giới... đầu
tư trực tiếp nước ngoài cho Trung Quốc mà họ còn là những nhà đầu t
ư chủ yếu
trực tiếp chuyển vốn về nước thực hiện các dự án đầu tư. Theo thống kê của
nhiều chuyên gia kinh tế Trung Quốc, có tới 70 - 80% số dự án và trên 65%
tổng vốn FDI vào Trung Quốc là của tư bản Hoa kiều.
Trong tổng vốn đầu tư của tư bản người Hoa và Hoa kiều đầu tư về
Trung Quốc đại lục, đầu tư của Hoa kiều
ở Hồng Kông, Đài loan, Ma Cao
chiếm tỷ trọng chủ yếu. Điều này giải thích tại sao Hồng Kông, Đài Loan luôn
nằm trong danh sách những đối tác đầu tư lớn nhất của Trung Quốc.

Bảng 1: Mười nhà đầu tư lớn nhất Trung Quốc năm 2001
Đơn vị: tỷ USD
STT Nước
Số hạng
mục
Kim ngạch
theo hiệp
định
Tỷ
trọng
Kim
ngạch
thực tế

Tỷ
trọng
1 Hồng Kông 8.008 20,69 30% 16,72 36%
2 Mỹ 2.606 7,51 11% 4,43 9%
3 Nhật Bản 2.019 5,42 8% 4,35 9%
4 Đài Loan 4.214 6,91 10% 2,98 6%
5 Hàn Quốc 2.909 3,49 5% 2,15 5%
6 Singapore 675 1,98 3% 2,14 5%
7 Đức 280 1,17 2% 1,21 3%
8 Vương quốc Anh 269 1,52 2% 1,05 2%
9 Hà Lan 114 0,97 1% 0,78 2%
10 Pháp 151 0,57 1% 0,53 1%

THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

13
Nguồn:
China Statistical Yearbook 2001


Bảng 1 cho thấy bức tranh đầu tư theo các đối tác đầu tư tại Trung Quốc.
Ta thấy Hồng Kông là đối tác lớn nhất với 36% vốn FDI, tuy nhiên đang có xu
hướng giảm dần. Nếu như trong giai đoạn 1979 - 1997, lượng vốn đầu tư của
Hồng Kông vào Trung Quốc đại lục đạt khoảng 111 tỷ USD, chiếm 53% thì
năm 2001, vốn đầu tư thực tế của Hồng Kông chỉ còn chiếm 36%, v
ới 8.008 dự
án và vốn đăng ký đạt 20,68 tỷ USD.
Đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc thoạt nhìn chiếm con số rất khiêm

tốn là 2,98 tỷ USD vốn thực hiện, đứng thứ 4 trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất
tại Trung Quốc và thậm chí có người còn cho rằng trong những năm qua, tầm
quan trọng của các nhà đầu tư Đài Loan đang giảm dần. Trong giai đoạn 1992 -
1998, FDI của Đài Loan chiếm 8,5% nh
ưng trong 3 năm gần đây, tỷ trọng FDI
của Đài Loan luôn dao động trên dưới 6%. Nhưng những con số thống kê chính
thức này chưa phản ánh hết tiềm lực vốn khổng lồ của các nhà đầu tư Đài
Loan. Trong thực tế, vốn đầu tư của Đài Loan về Trung Quốc đại lục vượt xa
cả Mỹ và Nhật Bản, chỉ đứng sau Hồng Kông về quy mô.
Nguyên nhân là Chính phủ
Đài loan, vì lý do chính trị, đưa ra những quy
định hạn chế lượng FDI tối đa mỗi doanh nghiệp Đài Loan được đầu tư vào
Trung Quốc và cấm một số ngành công nghiệp không được đầu tư về đại lục
nên các doanh nghiệp Đài Loan đã tìm mọi cách “lách luật” bằng cách thành
lập công ty mới ở một nước trung gian như Hồng Kông, Singapore, British
Virgin Islands…để thông qua đó chuyển vốn đầu tư về Trung Quố
c. Do vậy,
đầu tư của “True Taiwan - một Đài Loan thực sự” lớn hơn con số thống kê rất
nhiều. Tuy nhiên , từ tháng 1 / 2001, Chính phủ Đài Loan đã bãi bỏ quy định về
mức trần 50 triệu USD mà mỗi cá nhân được đầu tư về Trung Quốc nội địa và
quyết định sẽ cấp phép tự động cho các dự án dưới 20 triệu USD, cùng với việc
Trung Quốc mở cửa các lĩnh vự
c dịch vụ theo quy định của WTO, các công ty
Đài Loan sẽ được chuyển vốn trực tiếp về Trung Quốc chứ không phải thông
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

14
qua một nước trung gian nữa. Đầu tư của Đài Loan về Trung Quốc trong thời

gian tới chắc chắn sẽ tăng. Tính đến hết năm 2001, đã có 40.000 công ty Đài
Loan tại đại lục, là nguồn đóng góp chủ lực cho ngân sách và tạo ra công ăn
việc làm cho 10 triệu lao động.
Từ tháng 9 / 1993, Bộ hợp tác kinh tế đối ngoại của Trung Quốc cho
phép các công ty xuyên quốc gia được đến Trung Quốc và mở rộng hơ
n phạm
vi kinh doanh với các công ty này, nhiều công ty xuyên quốc gia và tập đoàn tài
chính lớn trên thế giới đã dồn dập đầu tư vào Trung Quốc với hy vọng sẽ có
chỗ đứng lâu dài trong thị trường có tiềm năng khổng lồ này. Với phương châm
“Lấy thị trường đổi lấy kỹ thuật”, “Lấy thị trường đổi lấy vốn”, “Lấy thị trường
để phát triể
n”, Trung quốc thực thi các biện pháp linh hoạt để mở rộng thị
trường nội địa, thiết lập và cải tiến cơ chế cạnh tranh trên thị trường, cải thiện
môi trường đầu tư nên số lượng các công ty xuyên quốc gia đã tăng lên nhanh
chóng. Đáng chú ý là từ năm 1994, trong khi vốn đầu tư cam kết từ Hồng
Kông, Ma Cao, Đài Loan giảm thì đầu tư từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ
,
Đức lại tăng lên ở những mức độ khác nhau. Quy mô trung bình của mỗi dự án
đều cao gấp đôi so với các dự án đầu tư từ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan vì
hầu hết đây là những công ty lớn.
Theo số liệu mới nhất của UNCTAD năm 2001, hơn 400 trong số 500
TNCs lớn nhất thế giới đã đến Trung Quốc đầu tư. Từ năm 1995 đã có 30
nhà doanh nghiệp nổi tiếng c
ủa các công ty Nhật Bản và Đức đã đầu tư
xây dựng ở Trung Quốc với tổng cộng 231 doanh nghiệp, trong đó chỉ có
25 doanh nghiệp được thành lập vào những năm 80, còn lại 80% số doanh
nghiệp chỉ đến năm 1993 mới được xây dựng. Như vậy, đa số các doanh
nghiệp có đầu tư của TNCs được thành lập từ sau 1993. Tính tới cuối năm
1996, 18 trong số 20 công ty lớn nhất của M
ỹ, 17 trong số 20 công ty lớn

nhất của Nhật Bản, 8 trong số 10 công ty lớn nhất của Đức, 16 trong 20
công ty lớn nhất của Hàn Quốc đã có mặt tại Trung Quốc.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

15
Mỹ là đối tác đầu tư lớn thứ hai ở Trung Quốc sau Hồng Kông, với vốn
FDI tăng từ 354 triệu USD (1990) lên 4,4 tỷ USD năm 2001. Cùng với Hồng
Kông, cửa ngõ của Trung Quốc với thế giới, Trung Quốc ngày càng trở thành
địa chỉ đầu tư ưa thích của các công ty Mỹ. FDI của Mỹ vào Trung Quốc và
Hồng Kông (2000) lên con số kỷ lục 4,4 tỷ USD - tăng 4% so với năm 1999 và
chiếm 3,1% tổng vốn
đầu tư trực tiếp của Mỹ ra nước ngoài. Năm 2001, kim
ngạch đầu tư theo hiệp định của Mỹ đạt 7,5 tỷ USD, kim ngạch thực tế đạt 4,43
tỷ USD, chiếm 10% tổng lượng FDI thực hiện của Trung Quốc. Đầu tư của Mỹ
tập trung vào những ngành sản xuất tạo giá trị gia tăng cao (thiết bị điện tử,
viễn thông), dịch vụ (bả
o hiểm, tài chính, phân phối) và dầu khí.
Nhật Bản xếp hạng thứ ba, sau Mỹ trong danh sách 10 nhà đầu tư lớn
nhất tại Trung Quốc năm 2001 với 2.019 dự án và vốn sử dụng thực tế đạt 4,3
tỷ USD, chiếm 9%. Nếu tính chung cả giai đoạn 1979 - 1997 thì đầu tư của
Nhật Bản trội hơn của Mỹ. Năm 1995 và 1996 là hai năm đánh dấu lượng đầu
tư rất lớ
n của Nhật Bản. Trong hai năm này, các công ty Nhật Bản đã ký rất
nhiều dự án đầu tư vào Trung Quốc. Năm 1995 có 2.946 hợp đồng với tổng số
vốn ký kết đạt 7,59 tỷ USD, và năm 1996 là 1.742 hợp đồng với 5,8 tỷ USD.
Năm 1997, đầu tư của Nhật Bản đạt mức 4,33 tỷ USD, cao hơn gần 1 tỷ so với
mức đầu tư thực tế của Mỹ. Tuy nhiên n
ăm 1997 cũng đánh dấu sự chững lại

của đầu tư Nhật Bản, chủ yếu do sự đình trệ của nền kinh tế Nhật, nên đến năm
1998 lượng đầu tư của Nhật chỉ bằng một nửa lượng đầu tư của Mỹ, hạ vị trí
của Nhật xuống hàng thứ ba, sau Mỹ, trong số các nhà đầu tư lớn nhất t
ại
Trung Quốc.
Ngoài Hàn Quốc và Singapore (chiếm 5% lượng vốn đầu tư thực hiện),
các nước còn lại trong 10 nước dẫn đầu về đầu tư trực tiếp tại Trung Quốc
chiếm tỷ trọng rất nhỏ, từ 1-2%. Các nước châu Âu chỉ mới thực sự gia tăng
đầu tư vào Trung Quốc trong mấy năm gần đây và việc đầu tư chủ yếu được
thực hi
ện qua các công ty xuyên quốc gia. Tuy nhiên, với việc Trung Quốc gia
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

16
nhập WTO tháng 11 / 2001, đầu tư của các nước này trong tương lai gần chắc
chắn sẽ tăng.

3. Qui mô của các dự án đầu tư

Bảng 2: Quy mô bình quân một dự án giai đoạn 1985 - 2001
Đơn vị: triệu USD
Năm Bình quân dự án Năm Bình quân dự án
1985 1,930 1994 1,714
1986 1,892 1995 2,403
1987 1,661 1996 3,0
1988 1,071 1997 2,5
1989 0,969 1998 2,54
1990 0,907 1999 2,6

1991 0,923 2000 2,78
1992 1,192 2001 2,64
1993 1,336

Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê Trung Quốc 2001
Qua bảng trên, ta thấy quy mô đầu tư vào mỗi hạng mục đầu tư nước
ngoài biến động không đều qua các năm. Thời kỳ đầu mở cửa, quy mô dự án
nhỏ. Giữa thập kỷ 80, quy mô dự án khá cao, xấp xỉ 2 triệu USD một dự án.
Tuy nhiên, quy mô này lại giảm vào những năm cuối của thập kỷ 80 và xu
hướng tăng lại b
ắt đầu từ năm 1992 trở lại đây, từ mức 1,2 triệu USD/dự án lên
3 triệu USD/dự án.
Khoảng thời gian đầu, do đầu tư của thương gia nước ngoài còn mang
tính thăm dò, nên các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Giữa thập kỷ 80, do đa số các dự án tập trung vào xây dựng các công trình cơ
sở nên quy mô đầu tư của hạng mục tương đối lớn, lên tới gần 2 triệu USD/d

án. Từ năm 1986, mục tiêu kinh tế chuyển sang sản xuất để đáp ứng nhu cầu
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

17
tiêu dùng trong cả nước và xuất khẩu thu ngoại tệ, chính phủ khuyến khích đầu
tư vào chế biến hàng xuất khẩu và những ngành thâm dụng nhân công. Để tận
dụng những ưu đãi, các nhà đầu tư đã chú trọng vào những ngành như: may
mặc, sản xuất đồ điện tử thứ cấp, là những ngành không cần vốn đầu tư lớn. Do
vậy, quy mô đầu tư giảm xu
ống dưới 1 triệu USD /dự án.
Nghiên cứu kỹ hơn, ta sẽ nhận thấy quy mô đầu tư của tư bản người Hoa

ở Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao luôn nhỏ hơn mức bình quân trong giai đoạn
đầu thập kỷ 90 trở về trước. Điều này quyết định tới quy mô nhỏ các hạng mục
đầu tư nước ngoài vì Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan luôn là những đối tác đầu
tư chủ yếu củ
a Trung quốc. Quy mô một hạng mục của Ma Cao chỉ có 1,17
triệu USD, của Đài Loan đạt 0,844 triệu USD. Nguyên nhân là đầu tư của tư
bản người Hoa và Hoa kiều mang tính truyền thống gia tộc là chính. Đầu tư của
họ chủ yếu là vào những xí nghiệp vừa và nhỏ, ít vốn, phân tán, quản lý rời rạc,
phương thức kinh doanh theo kiểu truyền thống. Theo số liệu điều tra của
Trung Quốc năm 1992, nhữ
ng doanh nghiệp quy mô đầu tư dưới 1 triệu USD
thường là những doanh nghiệp gia công vừa và nhỏ, loại hình tập trung nhiều
lao động. Đối với những doanh nghiệp quy mô trên 1 triệu USD, thì có trên
80% tập trung vào ngành tập trung nhiều lao động như dệt may, giầy da, quần
áo, đồ thể thao.
Từ năm 1993, chính sách khuyến khích TNCs phù hợp với đòi hỏi của
nền kinh tế thị trường ngày càng lôi kéo nhiều TNCs đầu tư vào Trung Quốc.
Điểm n
ổi bật của các hạng mục đầu tư của TNCs là quy mô lớn hơn của tư bản
Hoa kiều rất nhiều. Đặc biệt, các hạng mục kỹ thuật cao, mới của các khu khai
thác kinh tế kỹ thuật ven biển đã nâng cao từ 10% mấy năm trước lên 30% vào
năm 1994, quy mô mỗi hạng mục tăng từ 1,8 triệu USD năm 1993 lên 2,4 triệu
năm 1995. Ở Quảng Đông, Bắc Kinh và Thượng Hả
i, các hạng mục đầu tư quy
mô lớn tăng lên rõ rệt. Trong năm 1993, ở Quảng Đông có tới 738 hạng mục
được phê chuẩn trên 10 triệu USD, tăng 527 hạng mục so với trước. Cũng cùng
năm đó ở Bắc Kinh có 202 hạng mục trên 10 triệu USD, trong đó có tới 49
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9


18
hạng mục đầu tư trên 50 triệu USD. Ở Thượng Hải có 146 công ty xuyên quốc
gia, đầu tư 281 hạng mục, vốn ký kết theo hiệp định là 3,722 tỷ USD, bình
quân mỗi hạng mục là 13,5 triệu USD. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã
xuất hiện những dự án có số vốn kỷ lục như: khu công nghiệp Tô Châu -
Singapore, tổng đầu tư 20 tỷ USD, khu khai thác kinh tế Dương Phố - Hải
Nam, tổng đầu tư 130 tỷ USD.
Quy mô các hạng mục đầu tư nước ngoài tăng mạnh đã làm cho FDI có
sự chuyển biến từ số lượng sang chất lượng. Đây là đặc điểm nổi bật của hoạt
động thu hút đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc trong những năm gần đây. Đó là
lý do tại sao từ 1994 đến nay, mặc dù FDI ký kết theo hiệp định giảm nhưng
FDI th
ực tế ngày càng tăng.

4. Hình thức đầu tư

Bảng 3: FDI tại Trung Quốc theo hình thức đầu tư năm 2001 và 2000
Đơn vị: triệu USD
Kim ngạch ký kết Kim ngạch thực hiện
TT Hình thức đầu tư
2001 2000
%
tăng
2001 2000
%
tăng
1 Liên doanh 17.540 20.030 -12 16.250 14.590 11
2
Hợp tác kinh doanh

trên cơ sở hợp đồng
8.310 8.050 3 6.060 6.500 -7
3
DN 100% vốn nước
ngoài
42.980 34.010 26 23.550 19.140 23
4
DN cổ phần đầu tư
nước ngoài
330 210 57 460 110 31,8
5 Các hình thức khác 30 350 -91 530 440 20,4
Tổng cộng 69.190 62.650 10 46.850 40.770 15

Nguồn:
China Statistical Yearbook 2001



Số liệu ở bảng 3 cho thấy hình thức đầu tư chủ yếu vẫn là các doanh
nghiệp “ba vốn”, tức là các doanh nghiệp hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

19
đồng, doanh nghiệp chung vốn (còn gọi là doanh nghiệp liên doanh) và doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Năm 2000, doanh nghiệp hợp tác kinh doanh,
doanh nghiệp chung vốn và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lần lượt chiếm
12,7%; 32% và 54% vốn đăng ký và 16%; 35%; 46% tổng vốn đầu tư thực
hiện. Năm 2001, tỷ trọng này lần lượt là 12%; 25%; 62% tổng vốn đăng ký và

13%; 34,7% và 50,3% vốn đầu tư thực hiện.
Doanh nghiệp hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng là doanh nghiệ
p
kiểu hợp đồng, chủ đầu tư là nước ngoài cung cấp tiền vốn, thiết bị, kỹ thuật,
Trung Quốc cung cấp tiền vốn, địa điểm, nhà xưởng hiện có, cơ sở trang thiết
bị, sức lao động và các dịch vụ lao động. Tỷ lệ bỏ vốn của phía nước ngoài
không thấp hơn 25% vốn đăng ký. Hai bên cùng nhau hợp tác hoạt động hoặc
cùng hợp tác sả
n xuất kinh doanh. Hình thức này khác với doanh nghiệp liên
doanh ở chỗ hai bên không thành lập pháp nhân mới. Khi chấm dứt hợp đồng,
tài sản của doanh nghiệp trở thành sở hữu không bồi hoàn của phía Trung
Quốc. Hình thức này rất phát triển trong giai đoạn đầu khi Trung Quốc đang
xây dựng các đặc khu kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng vì nó đáp ứng yêu cầu
về mặt thời gian, không mất nhiều thời gian đàm phán. Tuy nhiên, do đ
ây là
hình thức hợp tác giản đơn nên có xu hướng giảm dần cả về tỷ trọng lẫn tiến độ
thực hiện. Vốn đầu tư thực tế theo hình thức này năm 2001 chỉ đạt 6 tỷ USD,
giảm 7% so với mức 6,5 tỷ USD năm 2000.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp hợp doanh kiểu cổ phần. Nó là
phương thức chủ yếu để thu hút đầu tư nước ngoài. Nó do các công ty, doanh
nghiệp, các tổ ch
ức kinh tế khác hoặc cá nhân nước ngoài cùng đầu tư, cùng
kinh doanh, cùng chịu lỗ lãi, rủi ro với các công ty doanh nghiệp hoặc các tổ
chức kinh tế khác của Trung Quốc. Hình thức trách nhiệm của nó là công ty
trách nhiệm hữu hạn. Vốn góp của hai bên là vốn pháp định (25%), còn lại là
vốn vay. Vốn vay này do công ty liên doanh đứng ra vay và có trách nhiệm
hoàn trả. Doanh nghiệp liên doanh trong thời gian liên doanh không được giảm
bớt tiền vốn đăng ký kinh doanh của mình. Các bên chung vốn phân chia lợi
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM


NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

20
nhuận, gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ đầu tư. Ở thời kỳ đầu cải cách mở cửa, hình
thức chiếm tỷ trọng chủ yếu vì được ưu đãi nhiều nhất về thuế xuất nhập khẩu
hải quan so với các hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh
nghiệp hợp tác kinh doanh và vì Trung Quốc không cho phép doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực dịch v
ụ. Tuy nhiên, hiện nay với
việc Trung Quốc mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo khuyến nghị của WTO,
hình thức này đang có xu hướng giảm sút, nhường chỗ cho hình thức doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vốn đăng ký theo hình thức doanh nghiệp liên
doanh năm 2001 chỉ đạt 17,54 tỷ USD, giảm 12% so với mức 20,03 tỷ USD
năm 2000. Tỷ trọng của doanh nghiệp liên doanh cũng giảm từ 32% vốn đăng
ký năm 2000 xuố
ng còn 25% năm 2001.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp mà toàn bộ vốn
đầu tư do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư, xây dựng ở Trung Quốc theo luật pháp
Trung Quốc, không kể những cơ cấu chi nhánh trên lãnh thổ Trung Quốc và
các tổ chức kinh tế khác. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là pháp nhân
Trung Quốc. Loại doanh nghiệp này phát triển rất mạnh mẽ ở Trung Quốc
trong thời gian gần đây. Năm 2001, có tới 62% vốn FDI, tươ
ng đương 42,98 tỷ
USD đăng ký theo hình thức này. Tỷ trọng của hình thức này trong tổng vốn
thực hiện cũng đạt mức cao nhất so với các hình thức khác: 46% năm 2000 và
50% năm 2001. Hình thức này được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng vì
họ được toàn quyền quyết định việc quản lý sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Từ năm 1992 - 1993, bên cạnh tiền vốn ngành nghề vào Trung Quốc
theo doanh nghiệp “ba v

ốn” còn có tiền vốn lưu thông quốc tế theo các nhà đầu
tư phương Tây vào Trung Quốc. Tiền vốn lưu thông này do các loại quỹ đầu tư,
quỹ bảo hiểm, cung cấp. Nó trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các công ty đầu
tư, công ty chứng khoán vào Trung Quốc, dưới các phương thức mua bán
chứng khoán, lưu thông tiền vốn cổ phần, xây dựng quỹ tham gia cổ phần, đưa
tiền vốn vào Trung Quốc nhằm thu lợ
i. Những tiền vốn lưu thông này không tự
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

21
mình lưu thông mở xưởng, làm hoạt động sản xuất thương mại mà nó theo đuổi
tỷ suất cổ tức cố định, lâu dài, rủi ro tương đối nhỏ, tính lưu động tiền vốn cao,
giá thành trực tiếp quản lý kinh doanh tương đối thấp.
Doanh nghiệp cổ phần đầu tư nước ngoài năm 2001 thu hút được 330
triệu USD vốn đăng ký (chiếm 0,5% vốn đăng ký), tăng gấp r
ưỡi năm 2000 và
460 triệu USD vốn thực hiện (chiếm gần 1% tổng vốn thực hiện), tăng 31,8%
so với năm 2000. Đặc điểm của hình thức này là toàn bộ tiền vốn do những cổ
phần mức bằng nhau tạo thành, các chủ đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, cổ
phần trưng tập tới các nhà đầu tư khác. Những cổ phiếu này có thể lưu thông
trong giao dịch ch
ứng khoán hoặc chuyển nhượng trên thị trường trong nước và
ngoài nước. Mục đích là để thu hút nhiều nhà đầu tư tăng vốn mở rộng cổ phần
hơn nữa và tham gia vào cải cách doanh nghiệp quốc doanh. Tính đến cuối năm
1996, có 86 công ty Trung Quốc trong danh sách các công ty bán cổ phiếu B
(cổ phiếu phát hành bằng NDT ở Thượng Hải và bằng HKD tại Thâm Quyến
chỉ dành cho các nhà đầu tư nước ngoài). 86 công ty này bán cổ phiếu thu được
gầ

n 3 tỷ USD. Đầu năm 1997, Uỷ ban Chứng khoán nhà nước công bố thêm
danh sách 33 doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu B.
Từ 1995 đến nay, các doanh nghiệp nước ngoài mở rộng cổ phần và
tham gia vào thị trường chứng khoán Trung Quốc. Điều này đánh dấu hoạt
động đầu tư của nước ngoài đã bắt đầu dựa vào thị trường vốn. Hoạt động đầu
tư nước ngoài cũng bước vào giai đo
ạn đầu tư quy mô lớn, hệ thống hoá. Hình
thức doanh nghiệp cổ phần chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

5. Lĩnh vực đầu tư
Tính đến năm 1995, trong tổng vốn FDI vào Trung Quốc có 57,1% được
đưa vào các ngành công nghiệp, 36% vào các ngành dịch vụ, 5% vào các ngành
nông nghiệp, nghề rừng, chăn nuôi gia súc, nghề cá, bảo vệ nguồn nước. Như
vậy, các ngành công nghiệp nhìn chung vẫn thu hút được đa số vốn FDI.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

22
Thời kỳ đầu, song song với quy mô đầu tư nhỏ thì đầu tư cũng chỉ tập
trung vào những ngành dịch vụ, chủ yếu là kinh doanh khách sạn, điểm vui
chơi giải trí, xây cao ốc, vì những lĩnh vực này dễ thu hồi vốn. Từ năm 1986,
Trung Quốc ban hành “Những quy định ưu đãi dành cho nhà đầu tư nước
ngoài” trong đó ban hành nhiều ưu đãi nếu các nhà đầu tư n
ước ngoài đầu tư
vào những lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy, đầu tư vào công nghiệp
đã tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1986, công nghiệp chỉ chiếm một tỷ
trọng nhỏ bé 27,7% trong tổng vốn FDI thì đến năm 1990 đã tăng lên 84,4%.
Năm 1992 và 1993, tỷ trọng này có giảm đi nhưng vẫn giữ ở mức cao là 55,3%
và 45,9%. Thời kỳ này, đa số đầu tư tậ

p trung vào những ngành công nghiệp
gia công tập trung nhiều lao động, kỹ thuật thấp hoặc trung bình, sản phẩm chủ
yếu để tái xuất hoặc xuất khẩu như: công nghiệp thực phẩm, đồ uống, dệt, may
mặc, giầy da, đồ chơi, xà phòng, thuốc tẩy, chế tạo vỏ container...Công nghiệp
nhẹ và công nghiệp gia công lần lượt chiếm 58,34% và 30,54% đầu tư nước
ngoài trong ngành công nghiệp. Do kết cấu như trên nên sứ
c cạnh tranh của các
doanh nghiệp liên doanh thời kỳ 1986 - 1991 còn bị hạn chế.
Năm 1994, chính phủ Trung Quốc có sự điều chỉnh kết cấu ngành nghề,
khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực dịch vụ và các ngành cơ sở nên
lĩnh vực đầu tư được mở rộng, tuy nhiên, công nghiệp vẫn giữ vị trí chủ đạo.
Trọng điểm ngành nghề đã đượ
c Trung Quốc chuyển từ công nghiệp gia công
sang các ngành tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật, thu hút đầu tư nước ngoài
hợp lý, từng bước có lựa chọn về mặt kỹ thuật cao. Các dự án theo quy định ưu
tiên trong chính sách ngành nghề của Nhà nước về tái thiết và phát triển các
ngành điện tử, máy móc, cơ khí và hoá dầu được hưởng nhiều ưu đãi.
Nhờ chính sách điều chỉnh, FDI vào các ngành dịch vụ ngày càng tă
ng.
Trung Quốc khuyến khích đầu tư vào những hoạt động tư vấn, bảo hiểm, lưu
thông tiền tệ, ngoại thương, du lịch, thương nghiệp bán lẻ. Tới cuối năm 1996,
Trung Quốc đã phê chuẩn thành lập 148 cơ quan tài chính tiền tệ có vốn nước
ngoài, 18 liên doanh bán lẻ, 2 liên doanh về mậu dịch đối ngoại. Hoạt động của
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

23
các ngân hàng và các công ty bảo hiểm cũng đã phục vụ đắc lực cho mục tiêu
thu hút vốn nước ngoài của Trung Quốc. Tính đến cuối năm 1995, tổng số vốn

các ngân hàng này huy động được đã lên tới 3 tỷ USD tiền gửi và đã cho vay
gần 30 tỷ USD, trong đó trên 90% là cho vay trong nước. Trung Quốc cũng cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh tiền tệ và ngoại thương.
Đầu tư vào bất động sản tăng cực k
ỳ nhanh, tỷ lệ so với tổng số từ 6,9%
năm 1986 lên 30,6% và 39,3% trong các năm 1992 và 1993. Trong năm 1994,
nhiều dự án bất động sản phải chịu thua lỗ nặng nề. Đến nửa đầu năm 1995, tỷ
lệ vốn đầu tư vào ngành này chỉ còn 26 %.
Nông nghiệp thu hút được ít vốn đầu tư nhất với mức tỷ lệ bình quân trên
tổng lượng FDI là dưới 3%. Gần đây, nhờ những chính sách khuyến khích
đầu
tư nhiều hơn vào nông nghiệp mà tỷ trọng đầu tư vào ngành này có xu hướng
tăng lên, đạt 5% vào năm 1995.

6. Địa bàn đầu tư
Thời kỳ đầu, FDI tại Trung Quốc chủ yếu đến từ tư bản người Hoa và Hoa kiều
ở Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao nên địa điểm lý tưởng nhất cho đầu tư của họ
là vùng ven biển Đông Nam. Nơi đây giao thông thuận tiện, đượ
c chính phủ
Trung Quốc ưu tiên chọn làm trọng điểm đầu tư và quan trọng hơn, nơi đây
chính là quê hương của phần lớn bà con Hoa kiều. Trong vùng này, 5 tỉnh
thành gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang Tô, Sơn Đông và Thượng Hải có
mức độ tập trung cao nhất. Năm 1992, 1993, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào 5
tỉnh thành này chiếm 70,8% và 66,2% FDI cả nước. Cho đến nay, những thành
phố ven biển vẫn là nơi t
ập trung FDI lớn nhất. Năm 1998, lượng vốn FDI vào
14 thành phố ven biển chiếm tới 88% tổng lượng FDI của cả nước.
Khu vực rộng lớn nhưng lại thu hút lượng FDI ít hơn cả là vùng sâu
trong nội địa. Trong nhiều năm, tỷ trọng FDI vào vùng này chỉ chiếm trên dưới
10% trong tổng lượng FDI cả nước. Nhằm hạn chế bớt sự chênh lệch về phân

bố đầu tư giữa các vùng, gần
đây, chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ THU HẢO, A1 CN9

24
tăng sự hấp dẫn hơn nữa của miền Trung và miền Tây đối với nhà đầu tư nước
ngoài. Nhờ có những cố gắng như vậy mà gần đây, đầu tư nước ngoài đã vươn
tới những tỉnh nằm sâu trong nội địa. Bằng Tường, một tỉnh nghèo thuộc biên
giới Tây Nam, chỉ trong vòng 5 năm 1992 - 1997 đã thu hút được 21 xí nghiệp
“ba vốn” với l
ượng vốn đầu tư trị giá 33,6 triệu USD.
Đầu tư nước ngoài cũng có sự phát triển nhanh ở các tỉnh Hà Nam, Hồ
Bắc, Hồ Nam của khu vực Nam Trung Bộ, Tứ Xuyên ở khu vực Tây Nam. Kế
tiếp theo là bốn tỉnh, khu: Cam Túc, Tân Cương, Ninh Hạ, Thanh Hải của vùng
Tây Bắc. Đến cuối năm 1993, 4 tỉnh, khu này đã cho phép thành lập số doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lần lượt là 823, 570, 264, 67 triệu USD. Kim
ngạ
ch ký kết theo hiệp định lần lượt là: 0,467; 0,352; 0,102 và 0,028 tỷ USD.
Kim ngạch sử dụng thực tế lần lượt đạt: 12,7; 53; 15,42; 3,92 triệu USD.

III. NHỮNG NHÂN TỐ TẠO NÊN SỨC HẤP DẪN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI TRUNG QUỐC:
Trung Quốc là một mảnh đất đầu tư mầu mỡ đối với các nhà đầu tư
nước ngoài vì những lí do sau đây:

1. Kinh tế tăng trưởng mạnh
Trung Quốc là một thị trường đầy tiềm năng, đặc biệt khi các thị trường
Châu Âu và Bắc Mỹ đã tương đối bão hoà. Tính theo ngang giá sức mua PPP,

Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ và người ta dự
đoán quy mô của thị trường này sẽ vượt Mỹ vào năm 2020. Theo tạp chí
Econosystem số ra ngày 23 / 7 / 2001, Trung Quốc duy trì được mức tăng
trưởng GDP bình quân mộ
t năm khá cao 10,1% trong suốt mười năm từ 1991
đến 2000 và mức tăng trưởng trung bình là 9,7% kể từ 1980. Cho đến nay,
tương ứng với các thời kỳ, Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng
trưởng.

×