Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luận văn tốt nghiệp “Kinh nghiệm và định hướng phát triển SMEs của Đài Loan và giải pháp phát triển SMEs của Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.56 KB, 90 trang )

Mục lục

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
M
M


C
C


L
L


C
C



Lời nói đầu................................................................................................................. 1
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ.............................................. 3
I. Khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ....................................... 3
1. Khái niệm................................................................................................................ 3
2. Tiêu chí xác định SMEs ở Đài Loan và một số nước. ............................................ 4
2.1. Đài Loan...................................................................................................... 4
2.2. Nhật Bản ..................................................................................................... 6
2.3. Khu vực ASEAN ........................................................................................ 7
2.4. Mỹ............................................................................................................... 8
2.5. Liên minh Châu Âu (EU)............................................................................ 8
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ.................. 8


II. Đặc điểm chung và vai trò của SMES ở một số nước trên thế giớ
i ..................... 11
1. Đặc điểm chung của các SMEs........................................................................... 11
1.1. Ưu thế: ...................................................................................................... 11
1.2. Hạn chế: .................................................................................................... 12
2. Vai trò của SMEs ở một số nước trên thế giới...................................................... 12
2.1. Vai trò của các SMEs ở Nhật Bản. ........................................................... 13
2.2. Vai trò của các SMEs trong nền kinh tế Mỹ............................................. 17
2.3. Vai trò của các SMEs ở CHLB Đức......................................................... 20
Chương 2: Kinh nghiệm và định hướng phát triển SMEs tại Đài Loan ........... 23
I. Quá trình phát triển của SMEs ở Đài Loan và nội dung hệ thống chính sách hỗ
trợ. .......................................................................................................................... 23
1. Quá trình phát triển của các SMEs........................................................................ 23
1.1. Giai đoạn từ 1945 đến năm 1952.............................................................. 23
1.2. Giai đoạn từ 1953 đến năm 1962.............................................................. 23
1.3. Giai đoạn từ 1963 đến năm 1972.............................................................. 24
1.4. Giai đoạn từ năm 1973 đến năm 1980...................................................... 26
1.5. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1997...................................................... 27
1.6. Giai đoạn từ năm 1998 đến nay................................................................ 29
2. Nội dung các chính sách hỗ trợ phát triển SMEs của Đài Loan. .......................... 29
2.1. Chính sách hỗ trợ tài chính và tín dụng. ................................................... 30
2.2. Chính sách hỗ trợ về quản lý .................................................................... 32
2.3. Chính sách hỗ
trợ công nghệ sản xuất: ..................................................... 34
2.4. Hỗ trợ về nghiên cứu và phát triển: .......................................................... 36
2.5. Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế........................................................ 37
Mục lục

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
2.6. Giúp đỡ các SMEs thích ứng với hệ thống pháp lý, tham gia vào các công

trình công cộng và hoạt động mua sắm của Chính phủ........................... 38
2.7. Kiểm soát ô nhiễm môi trường. ................................................................ 39
2.8. Trợ giúp lẫn nhau và hợp tác. ................................................................... 40
II. Thành tựu và kinh nghiệm phát triển SMES ở Đài Loan và định hướng phát triển
giai đoạn 2001 đến 2010........................................................................................ 42
1. Những thành tựu đạt được của các SMEs........................................................... 42
1.1. Về đặc điểm. ............................................................................................. 42
1.2. Thành tựu của các SMEs của Đài Loan.................................................... 45
2. Những kinh nghiệm thực hiện chính sách hỗ
trợ phát triển SMEs của Đài Loan.51
3. Định hướng phát triển SMEs của Đài Loan trong vòng 10 năm tới kể từ khi gia
nhập WTO........................................................................................................... 53
3.1. Cải thiện môi trường kinh doanh cho các SMES ..................................... 53
3.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các SMEs .......................................... 54
3.3. Nguồn vốn vay từ phía Chính phủ được khai thác hiệu quả dành cho các
SMEs........................................................................................................ 55
3.4. Ngoài ra, các SMEs của Đài Loan còn được tham gia vào các chương
trình phát triển chiến lược đặc biệt.......................................................... 55
Chương 3: Các giải pháp phát triển SMEs của Việt nam có liên hệ tới đài loan56

I. Thực trạng của các SMEs ở Việt nam ................................................................... 56
1. Khái niệm và tiêu chí xác định SMEs ở Việt Nam............................................. 56
1.1. Khái niệm.................................................................................................. 56
1.2. Tiêu chí xác định SMEs............................................................................ 56
2. Thực trạng các SMEs của Việt Nam..................................................................... 58
2.1. Về số lượng cơ cấu theo ngành của SMEs ............................................... 58
2.2. Vốn của các SMEs.................................................................................... 61
2.3. Công nghệ, thiết bị của các SMEs. ........................................................... 62
2.4. Lao động và đội ngũ lao động của các SMEs........................................... 63
2.5. Môi trường thể chế ở Việt Nam................................................................ 64

II. Vai trò và sự cần thiết phải phát triển SMES ở Việt nam .................................... 67
1. Vai trò c
ủa SMES ở Việt Nam............................................................................ 67
1.1. SMEs có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế ........... 67
1.2. SMEs góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người LĐ68
1.3. SMEs góp phần làm năng động, linh hoạt và tăng tính cạnh tranh trong
nền kinh tế................................................................................................ 68
1.4. SMEs thu hút được khá nhiều vốn trong dân cư. ..................................... 69
1.5. Vai trò SMEs trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế........................ 69
1.6. SMEs góp phần đáng kể vào thực hiện đô thị hoá phi tập trung.............. 69
1.7. SMEs là nơi đào tạ
o các nhà doanh nghiệp.............................................. 69
Mục lục

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
2. Sự cần thiết phải hỗ trợ và phát triển các SMEs ở Việt Nam. .............................. 70
3. Phương hướng phát triển SMEs ở Việt Nam........................................................ 71
3.1. Về ngành nghề: ......................................................................................... 71
3.2. Về sở hữu .................................................................................................. 71
3.3. Chú trọng phát triển SMEs ở các vùng nông thôn.................................... 71
3.4. Phát triển các SMEs với công nghệ cao: .................................................. 72
3.5. Thúc đẩy phát triển mối liên kết kinh tế giữa các SMEs với các doanh
nghiệp lớn theo mô hình "Vệ tinh - Trung tâm"...................................... 72
III. Một số kiến nghị nhằm hỗ trợ phát triển khu vực SMEs ở Việt Nam ................ 72
1. Nhóm giải pháp về môi trường pháp lý và quản lý nhà nước............................. 73
1.1. Đổi mới và hoàn thiện môi trường pháp lý............................................... 73
1.2. Quản lý nhà nước đối với SMEs............................................................... 73
1.3. Hình thành và phát triển các tổ chức hỗ trợ.............................................. 73
2. Nhóm giải pháp về chính sách kinh tế vĩ mô........................................................ 75
2.1. Chính sách đất đai..................................................................................... 75

2.2. Chính sách thuế......................................................................................... 76
2.3. Chính sách thị trường................................................................................ 77
3. Nhóm giải pháp hỗ trợ tài chính cho SMEs.......................................................... 77
4. Nhóm giải pháp hỗ trợ về công nghệ và nguồn nhân lực. .................................... 81
4.1. Nâng cao trình độ công nghệ của SMEs................................................... 81
4.2. Giải pháp phát triển nhân lực hỗ trợ
SMEs. ............................................. 82
4.3. Tăng cường công tác tư vấn, hỗ trợ các SMEs trực tiếp đào tạo và sử
dụng lao động .......................................................................................... 84
Kết Luận .................................................................................................................. 86


Mục lục

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
D
D
A
A
N
N
H
H


M
M


C

C


B
B


N
N
G
G





Bảng 1: Các tiêu chí xác định SMEs của Đài Loan từ năm 1967 tới nay................... 4
Bảng 2: Tiêu chí xác định SMEs của Nhật Bản.......................................................... 7
Bảng 3: Tỷ lệ SMEs trong tổng số doanh nghiệp ở một số nước trên thế giới......... 12
Bảng 4: Thời hạn hoạt động của các Doanh nghiệp trong năm 2000-2001.............. 45
Bảng 5 Sơ lược về các doanh nghiệp ở Việt Nam tại thời điểm 31/12/2002 ........ 58
Bảng 6 Phân loại Doanh nghiệp theo số v
ốn đăng ký ............................................ 60
Bảng 7 Phân loại Doanh nghiệp theo số lượng lao động........................................ 60
Bảng 8 Phân loại SMEs có mã số thuế theo hoạt động kinh tế .............................. 61
Bảng 9: Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị đang sử dụng tại các SMEs ở TP Hồ
Chí Minh so với trình độ chung của thế giới ........................................................... 62


 DANH MỤC BIỂU



Biểu 1: Cơ cấu SMEs phân theo ngành kinh tế 2000-2001........................................ 1
Biểu 2: Tỷ lệ sản lượng của SMEs phân theo ngành ................................................ 44
Biểu 3: Lực lượng lao động làm việc trong các SMEs............................................. 46
Biểu 4: Giá trị sản lượng của SMEs 1996-2001 ....................................................... 47
Biểu 5: Giá trị xuất khẩu của SMEs 2000-2001 ....................................................... 48



Lời nói đầu

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 1 -
L
L


I
I


N
N
Ó
Ó
I
I



Đ
Đ


U
U


1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế của một quốc gia là tổng thể các doanh nghiệp lớn, nhỏ tạo
thành. Quy luật đi từ nhỏ lên lớn là con đường tất yếu về sự phát triển bền
vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Đồng thời, sự tồn tại
đan xen và k
ết hợp các loại quy mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế của
mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo nên tính đa dạng, phong
phú, linh hoạt, vừa đáp ứng các xu hướng phát triển đi lên, lẫn những biến đổi
nhanh chóng của thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ hiện đại, đảm bảo hiệu quả chung củ
a toàn nền kinh tế.
Nền kinh tế thế giới đã ghi nhận vô số những kinh nghiệm và thành tựu
của mô hình Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Trong đó, SMEs của Đài
Loan được các nước công nhận là một trong những điển hình đi đầu đóng góp
khá quan trọng đối với sự phát triển của “con rồng Châu á” này. Nền kinh tế
Việt nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, và, để phát huy tối đa hiệ
u quả
những lợi thế so sánh mà Việt nam có được, không thể không đề cập đến vai
trò của SMEs. Tuy nhiên, SMEs không còn là sự thử nghiệm hiệu quả hoạt
động của một mô hình hoạt động mà nó cần thiết phải được quan tâm nghiên
cứu, kế thừa kinh nghiệm và thành tựu của các nước bạn, ứng dụng và hoàn

cảnh thực tế của Việt Nam. Từ những thành công của mô hình SMEs của Đài
Loan và những nét tươ
ng đồng về điều kiện phát triển nền kinh tế giữa hai
nước, tác giả đã chọn nội dung: “Kinh nghiệm và định hướng phát triển SMEs
của Đài Loan và giải pháp phát triển SMEs của Việt Nam” làm đề tài nghiên
cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích của khoá luận tốt nghiệp
- Tìm hiểu khái niệm và vai trò của SMEs tại nhiều nước trên thế giới,
trên hết là
Đài loan, so sánh với những đóng góp kinh tế xã hội và tình hình
của SMEs tại Việt Nam.
- Phân tích kinh nghiệm và định hướng phát triển SMEs trong nền kinh
tế của Đài Loan.
- Đưa ra những những hướng đi và giải pháp để Chính phủ hỗ trợ SMEs
phát triển , và để giúp khu vực SMEs có chiến lược phát triển phù hợp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp
 Khoá luận tốt nghi
ệp (KLTN) đi sâu vào vấn đề nghiên cứu kinh
nghiệm và thành tựu phát triển khu vực SMEs ở Đài Loan, cũng như các nước
khác so sánh với thực trạng phát triển SMEs của Việt Nam, đồng thời đưa ra
Lời nói đầu

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 2 -
một cái nhìn tổng quát so sánh những khả năng ứng dụng những vấn đề
nghiên cứu
 KLTN cũng đề cập đến những định hướng mang tính chiến lược nhằm
phát triển SMEs của Đài Loan trong giai đoạn 2001-2010 và phướng hướng
phát triển SMEs của Việt Nam trong ngắn hạn như những so sánh thực tế nhất
để đi tới những kiến nghị cụ thể nhất.

4. Phương pháp nghiên cứu
KLTN xoay quanh phương pháp nghiên cứu chủ đạo là tồng hợp và phân
tích, dựa trên số liệu để thống kê, khái quát hoá vấn đề vừa ở tầm vi mô lẫn vĩ
mô, kết hợp với phương pháp hệ thống hoá thông tin một cách hiện đại để
mang tới cho người đọc một cái nhìn mang tính chỉnh thể và dễ tiếp cận.
5. Bố cục của khoá luận tốt nghiệp
Ngoài l
ời nói đầu, kết luận và danh mục bảng, hình và tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về SMEs
Chương II: Kinh nghiệm và định hướng phát triển SMEs của Đài loan.
Chương III: Các giải pháp phát triển SMEs ở Việt nam có liên hệ tới
Đài Loan
Cùng với tốc độ phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, chứa
đựng trong nó là những biến động và vô vàn rủi ro tiềm ẩ
n, mọi kết quả
nghiên cứu đều mang tính lịch sử, giai đoạn. KLTN với vấn đề nghiên cứu
“Kinh nghiệm và định hướng phát triển SMEs của Đài Loan và giải pháp
phát triển SMEs của Việt Nam” không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế về thông tin. Tác giả xin cám ơn giáo viên hướng dẫn - Thạc sĩ Phạm Thị
Hồng Yến đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành đề tài này.
Hà nội, tháng 12 n
ăm 2003
Sinh viên thực hiện


Trần Trí Dũng
Nhật 3 - K38F - ĐH Ngoại thương
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ


Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 3 -
C
C
H
H
Ư
Ư
Ơ
Ơ
N
N
G
G


1
1
:
:


T
T


N
N
G
G



Q
Q
U
U
A
A
N
N


V
V




D
D
O
O
A
A
N
N
H
H



N
N
G
G
H
H
I
I


P
P


V
V


A
A


V
V
À
À


N
N

H
H




I. KHÁI NIỆM VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ.
1.
Khái niệm

Khái niệm “Doanh nghiệp vừa và nhỏ” là một khái niệm có tính chất ước
lệ. Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) có ý
nghĩa lớn để xác định đúng đối tượng được hỗ trợ. Nếu phạm vi hỗ trợ quá
rộng sẽ không đủ sức bao quát và tác dụng hỗ trợ sẽ giảm đáng kể, vì hỗ trợ
tất cả nghĩa là không hỗ tr
ợ ai. Còn nếu phạm vi quá hẹp sẽ không có ý nghĩa
và ít tác dụng trong nền kinh tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tiêu thức phân
loại SMEs để thực hiện thành công các chính sách hỗ trợ quản lý đối với loại
hình doanh nghiệp này, phát huy được thế mạnh và giảm thiểu các hạn chế
của nó là một việc làm được các Chính phủ các nước đặc biệt quan tâm. Tuy
nhiên, không có tiêu thức thống nhất để phân loại SMEs cho tất cả các nước,
vì đ
iệu kiện kinh tế-xã hộif mỗi nước là khác nhau, và ngay trong một nước,
sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề và vùng
lãnh thổ.
Có hai tiêu chí phổ biến dùng để phân loại SMEs: tiêu chí định tính và
tiêu chí định lượng.
Nhóm tiêu chí định tính: dựa trên những đặc trưng cơ bản của các SMEs
như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản

lý thấp các tiêu chí này có
ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng
thường khó xác định trên thực tế. Dó đó, nó chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm
chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế.
Nhóm tiêu chí định lượng: có thể sử dụng các tiêu chí như: số lao động,
giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận, trong đó:
- Số lao động có thể là lao độ
ng trung bình trong danh sách, lao động
thường xuyên, lao động thực tế.
- Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản cố định
(hay vốn cố định), giá trị tài sản còn lại.
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 4 -
- Doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm (hiện
nay, có xu hướng sử dụng chỉ số này).
Ở hầu hết các nước trên thế giới, các SMEs thường được quy định bởi các
quy mô về vốn, về số lao động không lớn. Một điểm chung ở các nước là
không có nước nào quy định các yếu tố về công nghệ về quản lý và chất
lượng sản phẩm. Phải ch
ăng các yếu tố nay không có ranh giới giữa doanh
nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ.
2. Tiêu chí xác định SMEs ở Đài Loan và một số nước.
2.1. Đài Loan
Khái niệm SMEs được chính thức sử dụng ở Đài Loan vào tháng 9 năm
1967 khi Chính phủ đưa ra các tiêu chuẩn xác định SMEs để hỗ trợ và hướng
dẫn các doanh nghiệp này.
Theo quy định này, các tiêu chí xác định SMEs bao gồm vốn kinh doanh,
doanh thu và lao động. Từ đó đến nay, trị giá các tiêu chí này đã được điều

chỉnh nhiều lần cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ của Đài
Loan trong hơn 4 thậ
p kỷ vừa qua. Quá trình điều chỉnh đó được thể hiện qua
bảng 1:
Tháng 9 năm 1967, Chính phủ Đài Loan ban hành văn bản chính thức xác
định các tiêu chí của một SMEs. Lúc đầu văn bản này chỉ phân chia các
SMEs trong 2 lĩnh vực chính là sản xuất và thương mại-dịch vụ. Trong lĩnh
vực sản xuất, tất cả các doanh nghiệp có vốn kinh doanh nhỏ hơn 5 triệu NT$
hoặc có số lao động thường xuyên ít hơn 100 ngườ
i đều được coi là SMEs.
Trong lĩnh vực thương mại, vận tải và các dịch vụ khác như dịch vụ công
nghiệp, bảo hiểm... thì tất cả các doanh nghiệp có doanh số hằng năm nhỏ hơn
50 triệu NT$ hoặc có số lao động thường xuyên nhỏ hơn 50 người đều được
coi là SMEs.
Tháng 3 năm 1973, Chính phủ Đài Loan đã điều chỉnh lần thứ nhất các
tiêu chí xác định SMEs để phù hợp v
ới điệu kiện phát triển kinh tế của đất
nước và để các chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với SMEs mang lại hiệu
quả cao hơn. Theo sự điều chỉnh này, trong các ngành sản xuất, các doanh
nghiệp có vốn kinh doanh nhỏ hơn 5 triệu NT$ và tổng tài sản của doanh
nghiệp nhỏ hơn 20 triệu NT$ hoặc các doanh nghiệp có vốn kinh doanh nhỏ
hơn 5 triệu và có số lao động thường xuyên nhỏ h
ơn 300 người (trong ngành
dệt may và giầy dép), 200 người trong ngành sản xuất thực phẩm, hay 100
người (trong các ngành chế tạo khác) đều được coi là SMEs.
 Bảng 1: Các tiêu chí xác định SMEs của Đài Loan từ năm 1967 tới nay.
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 5 -

Đơn vị : Đô la Đài Loan (NT$)
Năm Ngành sản xuất Ngành khai khoáng
Ngành Thương mại,
vận tải, dịch vụ khác
1967
-Vốn kinh doanh < 5 triệu hoặc
-Lao động <100 người

-
-Doanh thu < 5triệu
-Lao động < 50 người
1973
-Vốn kinh doanh < 5 triệu và
-Tổng giá trị tài sản <20 triệu
hoặc
-Vốn kinh doanh < 5 triệu và
- Số lao động < 300 người

1977
-Vốn kinh doanh < 20 triệu và
-Tổng tài sản <60 triệu hoặc
-Lao động <300 người
-Vốn kinh doanh < 20triệu
hoặc
-Lao động < 500 người
-Doanh thu/năm < 20
triệu hoặc
-Lao động<50 người
1979 nt -Vốn kinh doanh < 20triệu nt
1982

-Vốn kinh doanh < 40 triệu và
-Tổng tài sản <120 triệu
Nt -Doanh thu/ năm < 40
triệu
1991
-Như trên nhưng áp dụng thêm
cho cả ngành XD
Nt nt
1995
-Vốn kinh doanh < 60 triệu hoặc
-Lao động <200 người

-Doanh thu/ năm < 80
triệu hoặc
-Lao động<50 người
Nguồn: White paper on Small and Medium Enterprises in Taiwan.1998, Trang 177. Edited
by Chung-Hua Institution for economic Research.
Tháng 8 năm 1977, Chính phủ Đài Loan tiếp tục điều chỉnh các tiêu chí
xác định SMEs. Trong lần điều chỉnh này, Đài Loan phân chia một cách cụ
thể hơn trong từng ngành và tất cả các tiêu chí đều tăng lên so với giai đoạn
trước. Chẳng hạn, trong ngành sản xuất, các doanh nghiệp có vốn kinh doanh
nhỏ hơn 20 triệu NT$ với tổng tài sản nhỏ hơn 60 triệu NT$ đều được coi là
SMEs. Trong ngành khai khoáng (là ngành độc lập kể từ
lần điều chỉnh này),
các doanh nghiệp có vốn kinh doanh nhỏ hơn 20 triệu NT$ hoặc có số lao
động thường xuyên nhỏ hơn 500 người đều được coi là SMEs. Tương tự,
trong các ngành thương mại, vận tải và các loại hình dịch vụ khác, doanh số
hằng năm của các SMEs được nâng lên tới 20 triệu NT$. Sở dĩ trong lần điều
chỉnh này, giá trị các chỉ tiêu tăng lên nhiều so với giai đoạn trước vì n
ền kinh

tế Đài Loan giai đoạn này phát triển rất nhanh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở
mức hai con số, đặc biệt vào các năm 1976 tốc độ tăng trưởng là 13,9%, năm
1977 là 10,2% và năm 1978 là 13,6%.
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 6 -
Tháng 2/1979, để đơn giản hoá các tiêu chí xác định SMEs, nhằm bảo
đảm hiệu quả cao cho các chính sách hỗ trợ và quản lý của Chính phủ đối với
các SMEs trong ngành khai khoáng. Chính phủ quy định tất cả các doanh
nghiệp chỉ cần có số vốn kinh doanh nhỏ hơn 20 triệu NT$ đều được coi là
SMEs, bất luận số lao động thường xuyên của các doanh nghiệp này là bao
nhiêu.
Tháng 9/1995 là lần sửa đổi cuối cùng các tiêu chí xác định SMEs của Đài
Loan. Theo lần sửa đổi này các doanh nghi
ệp trong các ngành chế tạo, xây
dựng và khai khoáng có số vốn kinh doanh thấp hơn 60 triệu NT$ hoặc có số
lao động thường xuyên thấp hơn 200 người là các SMEs. Còn trong lĩnh vực
nông, lâm, ngư nghiệp, cung cấp điện, ga, dầu, thương mại, vận tải, kho bãi,
viễn thông, tài chính, bảo hiểm, dịch vụ bất động sản, dịch vụ công nghiệp,
thương mại, xã hội và con người, tất cả các doanh nghiệp có doanh số hàng

m nhỏ hơn 80 triệu NT$ hoặc có số lao động thường xuyên ít hơn ít hơn 50
người đều là SMEs.
Cũng trong lần sửa đổi này, ngoài khái niệm về SMEs, Đài Loan còn đ-
ưa ra các tiêu chí để xác định thế nào là một doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
Theo đó các doanh nghiệp thoả mãn các điệu kiện sau được gọi là doanh
nghiệp có quy mô nhỏ:
- Trong lĩnh vực chế tạo, xây dựng và khai khoáng: Số lượng lao động
thường xuyên của các doanh nghi

ệp thấp hơn 20 người.
- Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, cung cấp điện, ga và dầu làm
nhiên liệu, thương mại, vận tải, kho bãi, bưu chính viễn thông, tài chính,
bảo hiểm, dịch vụ công nghiệp, dịch vụ nhà đất, dịch vụ thương mại, công
nghiệp, xã hội và con người: Số lao động thường xuyên của các doanh
nghiệp ít hơn 5 người.
2.2. Nhật Bản
Phần lớn các SMEs của Nh
ật Bản có nguồn gốc từ các cơ sở sản xuất
trong các ngành thủ công truyền thống đã từng tồn tại từ thời Minh Trị Thiên
Hoàng. Nhưng vai trò và vị trí của các SMEs chỉ được nói tới nhiều kể từ khi
kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II. Sau Chiến tranh, để phát triển kinh tế,
giải pháp hữu hiệu và thực tế nhất được chính phủ Nhật Bản tính đế
n là nhanh
chóng phục hồi và phát triển hệ thống SMEs. Để thực hiện chiến lược đó,
chính phủ Nhật Bản đã áp dụng nhiều biện pháp kiên quyết để giúp đỡ SMEs.
Cụ thể là năm 1948, Tổng cục quản lý các SMEs đã được thành lập. Đến
1963 Nhật Bản đã chính thức ban hành "Luật phát triển doanh ngiệp vừa và
nhỏ" và được sửa đổi vào năm 1973.
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 7 -
 Bảng 2: Tiêu chí xác định SMEs của Nhật Bản.
SMEs
Luật về SMEs 1963 Luật về SMEs 1973

Ngành
Lao động
(Người)

Vốn
(Triệu yên)
Lao động
(Người)
Vốn
(Triệu yên)
Doanh
nghiệp nhỏ
Khai khoáng,
Chế tạo, vận
tải, XD

≤ 300

≤ 50

≤ 300

≤ 100

≤ 20
(người)
Bán buôn
≤ 30 ≤ 10 ≤ 100 ≤ 30 ≤ 20
(người)

Bán lẻ và
dịch vụ
≤ 30 ≤ 10 ≤ 50 ≤ 10 ≤ 20
(người)


Nguồn: PGS-PTS Lê Văn Sang - Vai trò của SMEs trong phát triển kinh tế Nhật
Bản - NXB Khoa học Xã hội 1997, Trang 23.

Như vậy, nhìn vào Bảng 2 trên có thể thấy giá trị các tiêu chí để xác định
các SMEs trong Luật phát triển SMEs sửa đổi năm 1973 đều tăng lên so với
năm 1963. Chẳng hạn tiêu chí về vốn trong ngành khai khoáng, chế tạo, vận
tải, xây dựng tăng gấp 2 lần, tới 100 triệu yên. Trong bán buôn tiêu chí lao
động tăng từ 30 tới 100 người, tiêu chí vốn tăng từ 10 triệu tới 30 triệu yên,
trong bán lẻ và dịch vụ cũng tăng tươ
ng tự.
2.3. Khu vực ASEAN
Tại các nước ASEAN, khái niệm về SMEs còn có sự khác nhau. Song
nhìn chung các nước Singapore, Malaixia, Inđônêxia, Thái lan, Philippin đều
dựa vào 2 tiêu chí cơ bản để phân định một doanh nghiệp thuộc quy mô vừa,
nhỏ hay lớn, đó là: số lượng lao động được sử dụng và vốn đầu tư. Singapore
quan niệm SMEs là những doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 100
người và vốn đầu tư dưới 1,2 triệu đô la Singapore. Với Malaixia, SMEs là
nh
ững doanh nghiệp có số lao động dưới 200 người và vốn đầu tư dưới 2,5
triệu đô la Malaixia. Còn với Inđônêxia, Thái Lan và Philippin thì có sự phân
loại chi tiết hơn thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp
cực nhỏ trong đó doanh nghiệp cực nhỏ thường là những hộ kinh doanh trong
phạm vi gia đình.
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 8 -
Như vậy quan niệm thế nào là một SMEs ở một số nước ASEAN còn có
sự khác nhau, đồng thời sự phân định này chỉ mang ý nghĩa tương đối và chủ

yếu căn cứ vào quy mô về vốn và lao động của nó. Do đó cách xác định
SMEs cũng mắc phải một số nhược điểm như cách phân loại một số nước
trong khu vực EU, Tức là chưa xét đến yếu tố đặc
điểm kinh tế ngành.
2.4. Mỹ
Tại Mỹ, nơi mà khi nhắc tới, người ta nghĩ ngay đến những tập đoàn kinh
tế hùng mạnh thì vai trò của các SMEs cũng được rất đề cao ở đây. Việc phân
loại các SMEs cũng đã tính đến sự khác biệt giữa các ngành. Bên cạnh những
tiêu chuẩn về mặt định lượng như: Lợi nhuận với mức tăng trưởng hàng năm
dướ
i 150.000 USD trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và thương mại;
hay các tiêu chuẩn về lao động để phân loại quy mô SMEs tùy thuộc vào từng
ngành riêng biệt như sau:
- Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Tổ chức có từ 250 lao động trở
xuống được coi là doanh nghiệp nhỏ.
- Trong ngành công nghiệp, dịch vụ và thương mại bán lẻ: doanh nghiệp
có dưới 100 lao động thì được coi là nhỏ; từ
100-1.000 lao động được coi
là vừa và từ 1.000 lao động trở lên được coi là lớn và rất lớn.
Luật SMEs của Mỹ còn có thêm một số tiêu chuẩn về mặt định tính như:
SMEs là một xí nghiệp độc lập, không ở vào địa vị chi phối trong ngành của
mình liên quan. Theo khái niệm của Mỹ, các SMEs không phải là công ty con
hoặc xí nghiệp vệ tinh của những công ty lớn. Điều này khác hẳn với các
SMEs ở Nhật, các công ty con hoặc xí nghiệp v
ệ tinh thuộc công ty lớn vẫn
được hưởng những đặc quyền của các SMEs.
2.5. Liên minh Châu Âu (EU).
Khu vực SMEs được phát triển rất mạnh ở các nước EU, 80% số doanh
nghiệp ở EU có số nhân công dưới 100 người. Tiêu chí phân loại SMEs ở EU
thường căn cứ vào số lao động và doanh số hoặc vốn kinh doanh. Các doanh

nghiệp được coi là SMEs là các doanh nghiệp có dưới 250 lao động, doanh số
không quá 40 triệu EURO hoặc có tổng số vốn hằng năm không quá 27 triệu
EURO ho
ặc cổ phần không quá 25% ở một doanh nghiệp lớn.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, nhỏ có tính chất quy ước và
phụ thuộc nhiều vào nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố chính bao gồm :
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 9 -
- Trình độ phát triển kinh tế của một nước: Trình độ phát triển kinh tế của
một nước càng cao giá trị các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy, ở các nước
có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn... để
phân loại SMEs thường thấp hơn so với các nước phát triển. Ví dụ, ở Nhật
Bản, các loại doanh nghiệp trong ngành công nghiệp khai thác, chế tạo,
vận tải, xây d
ựng.... được gọi là SMEs khi số vốn kinh doanh của chúng
dưới 100 triệu yên và số lao động thường xuyên trong năm dưới 300
người. Trong khi đó ở Thái Lan, các tiêu chí tương ứng là 20 triệu Baht và
100 người.
- Tính chất nghề nghiệp : Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử
dụng nhiều lao động (như ngành dệt may), có ngành sử dụng nhiều vốn
(như các ngành công nghiệp nặng , chế tạo,.. ). Do đó, cầ
n tính đến tính
chất này để có sự so sánh, đối chứng trong phân loại SMEs giữa các
ngành khác nhau. Trên thực tế, ở các nước người ta phân loại SMEs dựa
vào đến 3 nhóm ngành. Chẳng hạn, ở Nhật Bản, người ta phân chia theo 3
nhóm: (1) Nhóm công nghiệp khai thác chế tạo; (2) Nhóm thương nghiệp

bán buôn và (3) Nhóm thương nghiệp bán lẻ và dịch vụ.
- Vùng lãnh thổ: Do trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng khác nhau
cho nên quy mô các SMEs cũng khác nhau. Một SMEs ở các vùng đô thị
nhưng nó có thể là doanh nghi
ệp lớn ở các vùng nông thôn và miền núi.
Các chỉ tiêu của SMEs ở thành thị thường cao hơn các chỉ tiêu SMEs ở
nông thôn. Theo kết quả điều tra năm 1990 của Viện Khoa học Lao động
và Các vấn đề xã hội thì ở thành thị, mỗi doanh nghiệp nhỏ bình quân tạo
ra 15,5 chỗ làm việc, vốn bình quân của một doanh nghiệp là 25.636 USD
; tổng giá trị tăng thêm là 10.260 USD doanh thu bình quân là 40.883
USD. Trong khi đó, ở nông thôn, mỗi doanh nghiệp nhỏ bình quân tạo ra
10,4 chỗ làm việ
c (bằng 67% doanh nghiệp ở thành thị); tổng giá trị tăng
thêm bằng một nửa của các doanh nghiệp ở thành thị; doanh thu bình
quân một doanh nghiệp là 13.548 USD (bằng 33% so với doanh nghiệp ở
thành thị).
- Tính lịch sử : Một doanh nghiệp có quy mô lớn trong quá khứ nhưng
hiện tại hoặc tương lai nó lại là SMEs. Chẳng hạn ở Đài Loan, năm 1967
Chính phủ quy định rằng : trong ngành công nghiệp, các doanh nghiệp có
vốn kinh doanh nhỏ
hơn 5 triệu NT$ (tương đương với 130.000 USD) là
SMEs nhưng tới năm 1989, tiêu chí này là 40 triệu NT$ (tương đương
1,40 triệu USD) và năm 1995, tiêu chí này lại tăng lên tới 60 triệu NT$.
MỤC ĐÍCH PHÂN LOẠI: Khái niệm SMEs sẽ khác nhau nếu mục đích
phân loại khác nhau. Chẳng hạn, khái niệm SMEs với mục đích phân loại để
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 10
hỗ trợ các doanh nghiệp yếu, mới ra đời sẽ khác khái khái niệm SMEs với

mục đích để giảm thuế cho các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại và
không gây ô nhiễm môi trường....
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 11
II. ĐẶC ĐIỂM CHUNG VÀ VAI TRÒ CỦA SMES Ở MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1. Đặc điểm chung của các SMEs.
1.1. Ưu thế:
- Nhạy cảm, thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường. Thông
thường, các SMEs năng động và linh hoạt hơn so với các doanh nghiệp
lớn trong sản xuất kinh doanh. Phần lớn các SMEs có khả năng đổi mới
trang thiết bị kỹ thuật nhanh hơn, có khả năng thích ứng nhanh hơn với
nhu cầu của thị trường. Khi thị trường biến động thì các SMEs c
ũng dễ
dàng thay đổi mặt hàng hoặc chuyển hướng kinh doanh.
- SMES được thành lập dễ dàng vì vốn đầu tư ít: Do đó chúng tạo ra cơ
hội đầu tư đối với nhiều người, tạo điệu kiện cho mọi tầng lớp nhân dân
trong nước dù ở điệu kiện văn hoá, giáo dục khác nhau đều có thể tìm
kiếm cơ hội lập nghiệp. Chính vì thế mà ở các nướ
c phát triển cũng như
các nước đang phát triển, số lượng SMEs tăng rất nhanh và chiếm tỷ lệ
tuyệt đối trong tổng số các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Sau khi thành lập, SMEs sớm đi vào hoạt động và có khả năng thu hồi
vốn nhanh. ở các nước phát triển (ví dụ ở Mỹ, Anh, Pháp) cho thấy các
SMEs hàng năm có thể khấu hao đến 50-60% giá trị tài sản cố định và
thời gian hoàn vố
n không quá 2 năm. ở các nước đang phát triển, việc
thu hồi vốn cũng tương đối nhanh, tuỳ thuộc vào khả năng điều hành của

chủ doanh nghiệp và đặc điểm từng lĩnh vực kinh doanh cũng như chính
sách khấu hao tài sản cố định của Nhà nước....
- SMEs thường sử dụng các loại máy móc công nghệ trung bình, đòi hỏi
sử dụng nhiều lao động, đặc bi
ệt trong lĩnh vực, dệt, giầy da... Tuy nhiên,
các SMEs dù có quy mô nhỏ nhưng vẫn có điệu kiện sử dụng các máy
móc trang thiết bị hiện đại, năng suất cao, đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Ví dụ, các SMEs trong lĩnh vực chế tạo ở Nhật được trang bị máy móc
thiết bị rất hiện đại và thường là các nhà thầu phụ cung cấp một phần linh
kiện, phụ tùng trong các sản ph
ẩm hoàn chỉnh của các công ty lớn, mặc dù
điệu kiện kỹ thuật đòi hỏi rất cao.
- SMEs cần diện tích nhỏ, đòi hỏi về cơ sở hạ tầng không quá cao. Vì thế
nó có thể được đặt ở nhiều nơi trong nước, từ thành thị cho tới các vùng
nông thôn, miền núi và hải đảo... Đó chính là đặc điểm quan trọng nhất
của SMEs để có thể giảm b
ớt sự chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 12
vùng trong một nước, giảm bớt luồng chảy lao động tập trung vào các
thành phố, để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn.
Ngoài ra, các SMEs còn có ưu thế ở chỗ được quản lý chặt chẽ, quan hệ
giữa người sử dụng lao động và người lao động gần gũi, thân thiện hơn so với
các doanh nghiệp lớn. Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các SMEs có ảnh
hưởng ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế-xã hộ
i, đồng thời các
SMEs ít bị ảnh hưởng hơn bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế...
1.2. Hạn chế:

Các SMEs có quy mô nhỏ, nên có những hạn chế chủ yếu như:
- SMEs khó có khả năng đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ đòi
hỏi đầu tư vốn lớn, do đó ảnh hưởng tới năng suất lao động, hạn chế khả

ng cạnh tranh trên thị trường.
- SMEs thiếu khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ quốc tế, khó khăn trong
việc thiết lập và mở rộng hợp tác với bên ngoài.
- SMEs thường thiếu những nhà quản lý có trình độ, thiếu đội ngũ lao động
lành nghề, thiếu chuyên gia cố vấn cho doanh nghiệp.
- SMEs khó có khả năng tìm được các nguồn vốn của ngân hàng. Vì bản
thân nó thiếu tài sản th
ế chấp, khó xây dựng được các phương án kinh
doanh...
- SMEs khó cập nhật được các thông tin trong kinh doanh và dễ bị các công
ty lớn thôn tính...
2. Vai trò của SMEs ở một số nước trên thế giới.
Nhìn vào trong Bảng 3 (ở trang sau) ta có thể thấy rằng, các SMEs đang
chiếm tuyệt đại đa số trong tổng số các doanh nghiệp ở các nước. Thấp nhất
là Thái Lan, các SMEs cũng chiếm tới đến 80% còn lại hầu hết các nước tỷ lệ
này là trên 90%, đặc biệt các nước như Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc,
Đức, Mỹ.... tỷ lệ này lên tới trên 98%.
 Bảng 3: Tỷ lệ SMEs trong tổng số doanh nghiệp
ở một số nước trên thế
giới
Nước
Tỷ lệ SMEs/
Tổng số DN
Tỷ lệ Lao động
(%)
Tỷ lệ tổng giá tri

sản lượng (%)
Đài Loan 98,6 78,0 50
Canada 98,1 70,0 50
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 13
Nhât Bản 99,1 79,2 51,8
Pháp 98,2 73,5 52
Hồng kông 98 60 57
Phi-lip-pin 95,4 73,5 52
Singapo 98 48 -
Đức 98,6 75 45,5
Hàn Quốc 98 77,8 50,2
Hoa Kỳ 98 78,5 50
Trung Quốc 99,1 - 66,9
Ấn Độ 90 80,2 50
Thái Lan 80 80 52
Nguồn: PTS Lê Thanh Hà-Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển SMEs ở VN Tạp
chí phát triển kinh tế số 12 - Tháng 10/96, Trang 36.
Tuy các SMEs chưa đóng góp vào tổng giá trị sản lượng tương xứng với
tỷ lệ của nó (chiếm khoảng trên 1/2 tổng giá tri sản lượng của các nước),
nhưng tỷ lệ việc làm mà các doanh nghiệp này tạo ra thì thật đáng kể, hầu hết
các nước tỷ lệ này là khoảng 60%-70%, riêng Thái Lan nước có tỷ lệ SMEs
trong tổng số thấp nhất (so với các nước liệt kê) thì tỷ lệ lao động làm trong
các doanh nghiệ
p này lại chiếm rất cao, tới 80% và thấp nhất là Singapore
cũng chiếm 48%.
Vậy có thể nói các SMEs đang chiếm tuyệt đại đa số trong tổng số các
doanh nghiệp ở các,với số lượng hùng hậu như vậy các doanh nghiệp này

cũng đang đóng góp đáng kể vào tổng sản lượng trong nền kinh tế của các
nước, nhưng đIểm nổi bật của các doanh nghiệp này là khả nă
ng giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động. Sau đây, chúng ta sẽ đi sâu phân tích
vai trò của SMEs ở một số nước cụ thể.
2.1. Vai trò của các SMEs ở Nhật Bản.
Nếu như đặc điểm về quy mô và lĩnh vực hoạt động thì loại hình SMEs ở
Nhật Bản không khác biệt nhiều so với nhiều nước, thì việc phối hợp hợp tác
chặt chẽ và quan hệ đan xen gi
ữa chúng với doanh nghiệp lớn ở Nhật Bản lại
là đặc điểm khá độc đáo trong cơ cấu công nghiệp nước này. Chính sự phối
hợp có hiệu quả đó đã tạo nên một nền kinh tế Nhật Bản đồng điệu như một
giàn nhạc giao hưởng vĩ đại, mà trong đó các doanh nghiệp chính là các nhạc
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 14
công, đã tạo nên một bản nhạc kỳ diệu của - Sự phát triển thần kỳ của nền
kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ II. Ta có thể phân tích cụ thể
đặc trưng này thông qua một số khía cạnh chủ yếu sau đây.
- Thứ nhất, Dù phân tán và hoạt động ở nhiều lĩnh vực song xét trong cơ
cấu chung, các SMEs ở Nhật Bản là một bộ ph
ận cấu thành trong dây
truyền sản xuất chung. Điều này thể hiện rất rõ trong việc phân công lao
động sản xuất. Thường các SMEs đảm nhận các công đoạn trước và sau
của quá trình chế tạo của các doanh nghiệp lớn. Hiện nay, phần lớn các
SMEs là xí nghiệp gia công chế biến của các hãng lớn. Nhiều xí nghiệp
phụ thuộc vào hoàn toàn công ty “mẹ”. Song, đa phần là có quan hệ với
nhiều công ty khác. Do vậy, số lượng của nó m
ột phần phụ thuộc vào quy

mô của các hãng lớn. Người ta tính rằng 3/4 các hãng, các công ty lớn của
Nhật sử dụng từ 100 xí nghiệp gia công chế biến trở lên. Một công ty lớn
có thể hợp đồng gia công chế biến tới 50% số lượng trực tiếp tạo ra sản
phẩm của nó. Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều hình thức gia công
chế biến là công nghiệp lắp ráp, những ngành mà sản xuất thường đi qua
nhiều công đoạn khác nhau trong một nhà máy, hoặc dây chuyền sản xuất.
Do đó, tính bền vững của các mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn và
SMEs ở một khía cạnh nào đó được quyết định bởi tính chất “kỹ thuật”
của quá trình sản xuất. Đứng về phía mình các SMEs trở thành một bộ
phận của dây chuyền sản xuất trong một công ty lớn, thậm trí ở các công
ty khác nhau, đã cho phép phát huy lợi thế
của mình. Về phía công ty lớn,
ích lợi do việc phân phối là không thể thiếu được. Hơn thế nữa, đứng trên
quan điểm chung, chính sự phân công này đã tạo ra nhiều ưu thế, cho
phép khai thác tối đa tiềm năng của cá nhân, xí nghiệp và đưa lại hiệu quả
cao, với chi phí thấp góp phần hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản
phẩm.
- Thứ hai, Việc tìm kiếm và huy động các nguồn vốn củ
a SMEs cũng là
một cách để duy trì hoạt động bình thường của cả quy trình sản xuất khi
coi xí nghiệp lớn, xí nghiệp vừa và nhỏ nằm trong một hệ thống có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ cơ cấu này còn thể hiện rất rõ trong
việc phát triển kinh tế và cải tổ sản xuất. Bản thân các công ty nhỏ phải tự
vươn lên đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và chấ
t lượng để có thể giữ uy tín với
công ty “mẹ”. Chính vì lẽ đó, việc liên tục vươn lên của chính mình là
một yêu cầu khách quan trong điệu kiện cạnh gay gắt và đến lượt nó lại là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung. Điều quan trọng nữa là
nhờ đó mà có thể giúp công ty liên tục thay đổi từng phần kỹ thuật và
công nghệ của mình.

Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 15
- Thứ ba, Lợi ích và sự gắn bó giữa SMEs với doanh nghiệp lớn còn thể
hiện ở việc phối hợp đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Bản thân
các xí nghiệp lớn không thể thoả mãn được thị trường nói chung vì thế sự
bổ sung khoảng trống đó bằng việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu lại là lợi thế
mà SMEs có thể
thực hiện tốt. Hơn thế nữa, tính chất phân phối hợp và
gắn bó thể rất rõ khi SMEs là chủ lực ở các thị trường địa phương. Vì thế
quan hệ giữa doanh nghiệp lớn và địa phương dựa trên nguyên tắc “tận
dụng địa phương là chính”, còn SMEs thì coi việc tồn tại tương hỗ giữa
doanh nghiệp và địa phương là “cở sở”. Chính vì vậy, việc nhanh chóng
đáp ứng yêu cầu c
ủa thị trường đã được các SMEs thực hiện một cách
xuất sắc, góp phần cùng với các nghiệp lớn ổn định được thị trường và
giúp đỡ lẫn nhau để giải quyết những khó khăn chung.
- Thứ tư, quan hệ giữa SMEs với doanh nghiệp lớn có thể nhận thấy qua sự
vận động của thị trường lao động và vốn. Thường thường SMEs là nơi thu
hút lao
động dôi ra từ nông nghiệp và các nguồn lao động dư thừa khác:
hoc sinh, sinh viên mới ra trường, người về hưu... Chính đội ngũ lao động
này được sử dụng một cách phù hợp và mang lại hiệu quả trong các
SMEs. Đại bộ phận người Nhật Bản phát huy năng lực của mình tại các
SMEs và đã tái sản xuất ra cuộc sống bản thân và gia đình mình tại đó.
Theo truyền thống của Nhật Bản, các công ty thường ít sa th
ải công nhân
dù họ gặp khó khăn trong kinh doanh, kể cả ở thời kỳ suy thoái. Do vậy,
để đối phó với vấn đề này thường công ty lớn sẽ bớt lại một số công việc

mà bạn hàng của họ là các SMEs đã thực hiện để cho công nhân của
mình tự làm lấy. Điều đó đã buộc các công ty vừa và nhỏ phải tự điều
chỉnh và thường là gặp khó khăn: phả
i giảm giá thành, vốn.... Vì thế,
người ta nói trong quan hệ này các SMEs như các cái “van” để điều tiết
khi kinh tế suy thoái hay hưng thịnh.
- Thứ năm, Dù có nhiều điểm bất lợi trong kinh doanh, song không vì thế
mà những ưu thế của SMEs bị lu mờ. Trái lại tính năng động và tự chủ
của nó là biểu hiện rất rõ về tính độc lập tương đối trong quá trình phát
triển. Để đáp ứng nhu cầ
u đa dạng của thị trường và tìm chỗ đứng trong
thương trường cạnh tranh ngày một gay gắt trong nước cũng như quốc tế,
nhiều công ty vừa và nhỏ đã đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển sản
phẩm mới và xuất hiện bằng những sản phẩm độc đáo và phương thức
kinh doanh độc lập của mình. Nhiều công ty lớn đã trưởng thành từ những
SMEs như vậy. Chẳng hạn như tập đoàn khổng lồ Sony về thiết bị nghe
nhìn, hoặc Kyacera về thiết bị điện tử, Daiei về kinh doanh siêu thị. Đặc
biệt là khi nền kinh tế Nhật lâm vào thời kỳ suy thoái từ đầu thập kỷ 90,
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 16
các SMEs lại thể hiện rất rõ tính độc lập tương đối của mình. Các công ty
này vẫn duy trì được hoạt động của mình và kịp điều chỉnh, phục hồi và
đứng vững trên thị trường. Một biểu hiện rất rõ tính độc lập rất rõ tính
độc lập của các SMEs ở Nhật Bản là sự phát triển mạnh mẽ đầu tư ra
nước ngoài. Chỉ riêng, năm 1993 các SMEs Nhật Bản đã th
ực hiện 698 dự
án đầu tư ra nước ngoài bao gồm 432 dự án của các công ty sản xuất, 110
dự án của các công ty thương mại và 19 dự án của các công ty xây dựng,

trong số đó có 533 dự án đầu tư vào khu vực châu Á.
Qua những phân tích ở trên ta có thể thấy tính độc lập và sự phối hợp chặt
chẽ giữa khu vực doanh nghiệp này với các doanh nghiệp lớn quả là độc đáo.
Chính vì thế các SMEs đã phát huy tối đ
a tiềm năng và thế mạnh của mình,
đóng một vai trò lớn trong mọi giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Sự đóng
góp đó được thể hiện qua nhiều mặt trong nền kinh tế và xã hội Nhật Bản mà
ta có thể tóm lại như sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần nâng cao khối lượng và chất
lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ dân cư, tạo ra nhiều việc làm và đào
tạo tay nghề cho người lao động.
- Bổ xung cho hoạt động của các doanh nghiệp lớn: làm cơ sở vệ tinh, gia
công, cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp lớn, kể cả việc thu hút lao
động từ doanh nghiệp lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm
đổi mới kỹ thuật công nghệ. SMEs năng động trong cơ cấu cạnh tranh với
các doanh nghiệp lớn.
- Chi phí đầu tư th
ấp, tạo khả năng thử nghiệm các sản phẩm mới, nên các
SMEs là "vườn ươm" của các sản nghiệp đang hình thành.
- Góp phần vào phát triển và làm sống động kinh tế địa phương.
- SMEs tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh vừa chống độc quyền trong
kinh doanh.
- SMEs có những đóng góp không nhỏ cho xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất
nước. Không chỉ ở phần gián tiếp qua sản phẩ
m xuất khẩu của các doanh
nghiệp lớn, mà nhiều sản phẩm của họ có giá và có được thị trường truyền
thống, trực tiếp tham gia phân công, hợp tác quốc tế thông qua đầu tư ra
nước ngoài, không chỉ xuất khẩu tư bản mà cả kỹ thuật công nghệ.
- Về mặt xã hội, các SMEs góp phần tích cực cho quá trình tái phân phối,
thu nhập, và bình đẵng xã hội, vừa thúc đẩy làm tăng tầng lớp trung lư

u
có thu nhập khá, vừa làm giảm người nghèo, đồng thời góp phần nâng cao
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 17
tiêu dùng của dân cư với nhu cầu đa dạng, nhiều chủng loại sản phẩm chất
lượng cao.
- Các SMEs còn thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, đặc biệt những vùng mà
các doanh nghiệp lớn không với tới được, góp phần làm tăng thu nhập, tạo
việc làm cho dân cư nơi mà doanh nghiệp hoạt động và đặc biệt là duy trì
và phát triển các ngành nghề truyền thống vì các loại ngành nghề này phù
hợp với loại hình SMEs....
Như
vậy, dù với quy mô khiêm tốn song vị trí của các SMEs xét về số
lượng và mức độ đóng góp trong nền kinh tế Nhật Bản thì quả thực là hoàn
toàn không nhỏ (có thể minh hoạ qua con số thống kê năm 1991, các SMEs ở
Nhật Bản chiếm 99,1% số các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp và sử
dụng 79,2 lao động trong các ngành đó. Riêng ngành chế tạo, các doanh
nghiệp này chiếm 99,5% số doanh nghiệp, 73,8% số lao động và 51,8% giá trị
hàng hoá bán ra). Vậy có thể nói rằng n
ền công nghiệp Nhật bản đang thực sự
dựa vào các SMEs. Đặc biệt, loại hình doanh nghiệp này hoạt động trong hầu
hết các ngành sản xuất và dịch vụ tuy mức độ có khác nhau. Một đặc điểm
khá rõ nét là các SMEs hoạt động ở những nơi có quy mô thị trường nhỏ hoặc
những ngành mà cung cấp kỹ thuật hiện đại khó khăn. Còn các doanh nghiệp
lớn thường hoạt động trong các ngành sản xu
ất có ưu thế về quy mô. Thực tế,
những lĩnh vực nào phù hợp với các SMEs về mặt kỹ thuật thì nhất định nó
tồn tại, còn trong lĩnh vực hoạt động mới thì liên tục nảy sinh và các SMEs

nhanh chóng ra đời. Vì thế, việc các SMEs hoạt động đa lĩnh vực và nếu
không có nó thì việc tái sản xuất và sự phát triển liên tục bền vững của nền
kinh tế Nhật Bản không th
ể thành công như chúng ta đã chứng kiến.
2.2. Vai trò của các SMEs trong nền kinh tế Mỹ.
Nếu không đọc các số liệu cụ thể mà chỉ dựa vào ấn tượng thì chắc chắn
là hầu hết chúng ta sẽ đánh giá thấp vai trò của các SMEs ở Mỹ. Điều thú vị
là ngay trên trên đất nước được gọi là "Đại bản doanh" của hàng nghìn công
ty khổng lồ nhất nhì thế giới này lại có một Cục Quản lý các doanh nghi
ệp
vừa và nhỏ toàn quốc (SBA) và trực thuộc Tổng thống Mỹ. Thông qua những
số liệu cụ thể và phân tích dưới đây có thể sẽ làm thay đổi quan niệm của
những ai chưa biết nhiều về SMEs ở Mỹ.
Có thể nói các SMEs là bộ phận cấu thành cực kỳ quan trọng trong nền
kinh tế Mỹ, chúng giữ một vai trò đáng kể trong quá trình tăng trưởng kinh tế
và phát triển khoa học kỹ
thuật. Theo lời Ông Al Gore, phó tổng thống Mỹ,
thì: “Các SMEs chính là giường cột của nền kinh tế Mỹ, bởi hơn 90% trong
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 18
số hơn 21 triệu doanh nghiệp của Mỹ là các SMEs, chiếm xấp xỉ 1/2 GNP của
nước Mỹ, đã tạo ra khoảng 2/3 chỗ làm mới trong tổng số của toàn nước Mỹ”.
Một trong những vai trò nổi bật đầu tiên phải kể đến của các SMEs ở Mỹ
đó là đóng góp của loại hình doanh nghiệp này trong lĩnh vực tạo việc làm.
Cũng như những nước có nền kinh tế phát triể
n khác, các doanh nghiệp nói
chung chỉ thuê số lượng công nhân ở mức tối thiểu để giảm tối đa chi phí lao
động. Thế nhưng, đại đa số các SMEs của Mỹ đều thuộc loại doanh nghiệp

thu hút lực lương lao động rất đông đảo. Trong khi các doanh nghiệp lớn
giảm công nhân viên và ít nhận người mới, thì riêng trong năm 1997 toàn bộ
chỗ làm việc tăng thêm đều là do các SMEs tạo ra.
Các SMEs của Mỹ không những đã tạ
o ra khá nhiều cơ hội việc làm cho
người lao động mà chúng còn thu hút một số lượng lao động lớn những người
trẻ tuổi, phụ nữ, người tàn tật, quân nhân xuất ngũ, các thành viên của những
dân tộc ít người và những người già bị những doanh nghiệp lớn đẩy ra ngoài.
Hơn nữa, trong những năm gần đây, ngành sản xuất thứ 3 (ngành dịch vụ
hiểu theo nghĩa rộng) và các ngành kỹ thuậ
t cao của Mỹ đã không ngừng xuất
hiện những lĩnh vực mới và ngành nghề mới.Và ở giai đoạn mới bắt đầu, cơ
sở phát triển của chúng chính là các SMEs. Ví dụ năm 1975, khi Bill Gates
cùng với một người nữa đi đầu trong việc lập ra Công ty phần mềm vi tính thì
chỉ có 900 USD tiền vốn, đến năm 1994 mức bán ra của công ty đã tăng lên
40 tỷ USD, đồng thời thuê 16.400 người làm ở
49 nước. Vì vậy mà ngày nay
khi mức độ tích luỹ tư bản ngày càng cao, trong khi nhu cầu về sức lao động
của các doanh nghiệp lớn ngày càng giảm bớt, thì các SMEs ở Mỹ lại có khá
nhiều công việc phù hợp cho mọi đối tượng lao động.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, Chính phủ Mỹ bắt đầu coi trọng vai trò
của các SMEs. Cơ cấu kinh tế nhà nước Mỹ phải chuyển từ thời chiến sang
th
ời bình, từ quân sự sang dân sự. Rất nhiều công nhân viên từ ngạch quân sự
chuyển sang dân sự hoặc về các địa phương. Do đó, giải quyết việc làm cho
đội quân khổng lồ này đã trở thành một vấn đề lớn nan giải và trong thực tế
các doanh nghiệp lớn không nhận nổi số đông người như vậy. Đến lượt mình,
các SMES đã phát huy vai trò giải quyết việc làm cho người lao động. Theo
số
liệu thống kê của Cục quản lý các SMEs của Mỹ (SBA) thì vào năm 1958

số người làm trong các SMEs chiếm 55% trong tổng số, qua các năm tỷ lệ
này luôn giữ ổn định trên 50% và năm 1995 tỷ lệ này là 54%. Trong vòng 20
năm từ 1964-1984, số lượng việc làm do 1000 Công ty lớn nhất của Mỹ tạo ra
gần như bằng không, trong khi đó, các SMEs đã cung cấp được 25 triệu chỗ
làm mới.
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 19
Bất kể ở thời kỳ nền kinh tế mở rộng hay suy thoái, các SMEs đều là
những cơ sở chủ yếu cung cấp thêm nhiều cơ hội việc làm mới. Đặc biệt chú
ý là thời kỳ suy thoái kinh tế ngiêm trọng nhất sau chiến tranh của Mỹ trong
những năm 1980-1982 thì số người làm việc trong các SMEs vấn tiếp tục
tăng, còn số người làm việc trong các doanh nghiệp lớn lại giảm sút một cách
phổ biến. Bởi vì trong thời kỳ này, để nâng cao năng lực cạnh tranh cạnh
tranh của mình, các doanh nghiệp lớn ở Mỹ đã lên cơn sốt giãn thợ, rất nhiều
người bị mất việc. Một lần nữa, số lượng chỗ làm mới do các SMEs tạo ra đã
có tác dụng làm hoà hoãn sự căng thẳng này, giảm được sức ép đối với xã
hội. Sang đầu thập kỷ 90, kinh tế M
ỹ lại lâm vào suy thoái. Nhưng khoảng 2
triệu SMEs ở Mỹ vẫn giữ được xu thế phát triển, nhờ đó đã rút ngắn được
thời kỳ suy thoái và nền kih tế Mỹ nhanh chóng hồi phục.
Bên cạnh vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực tạo việc làm. Các SMEs
còn góp phần rất lớn trong quá trình phát triển của nền kinh tế và tiến bộ khoa
học-công nghệ. Hiện nay, các SMEs đang tạo ra khoảng 1/2 GNP của nước
Mỹ, chiếm khoảng 55% tổng số phát minh trong khối doanh nghiệp và thu
nhận 28% tổng số cán bộ công nghệ cao mới tìm được việc làm. Điều đó lại
càng trở nên có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ công nghệ cao như hiện nay.
Tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ trong những năm gần đây có được một
phần là do tăng mạnh trong hoạt động xuất khẩu. “Trong bài phát biểu củ

a
mình Tổng thống B.Clinton cho biết, năm 1997 1/3 GDP tăng trưởng của Mỹ
đạt được là nhờ mở rộng hoạt động xuất khẩu”. Trong đó có phần đóng góp
rất tích cực của các SMES. Thực vậy, trong thời gian 1987-1996 kim ngạch
xuất khẩu của các SMEs tăng từ 67 tỷ USD lên tới 184 tỷ USD, bình quân
hằng năm tăng 12%, đấy là chúng ta chưa kể giá trị tạo của các SMEs kết tinh
trong hàng hoá xuất khẩu c
ủa các doanh nghiệp lớn. Không những thế, số
SMEs làm hàng xuất khẩu lại có chiều hướng tăng lên, từ 1987-1992 tăng lên
64%. Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp lớn thì các SMEs còn gặp khó khăn
trong việc xuất sản phẩm của mình, dù là họ có những sản phẩm tốt đi nữa. Vì
vậy, nếu chính phủ Mỹ hỗ trợ tốt cho khu vực doanh nghiệp thì họ sẽ còn
đóng góp nhiều hơn cho xuất khẩu, góp phần nhiề
u hơn vào tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế Mỹ.
Tóm lại, từ thập niên 70 đến nay, đóng góp của các SMEs trong nền kinh
tế Mỹ là quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực tạo công ăn việc làm. Sự tăng
trưởng lâu dài và ổn định về số lượng việc làm do các SMEs tạo ra, đã có tác
dụng bù đắp những ảnh hưởng bất lợi do các doanh nghiệp lớn cắt giảm nhân
viên gây ra. Những công việc do các SMEs tạo ra đã làm cho mức thu nhập
của quần chúng lao động nói chung được giữ vững hoặc nâng cao, khiến sức
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 20
mua của xã hội được duy trì ở một mức thích đáng, có tác dụng tăng cường
tính linh hoạt và khả năng nhanh nhậy cho nền kinh tế Mỹ, đồng thời còn góp
phần làm dịu bớt một loạt mâu thuẫn xã hội. Đặc biệt là trong thời kỳ suy
thoái, thông qua việc thu hút một số lượng lớn lao động, các SMEs không
những đã kìm chế được nạn thất nghiệp, mà còn hạ thấp được tỷ lệ th

ất
nghiệp, đồng thời thúc đẩy sự hồi phục kinh tế, góp phần làm cho nền kinh tế
phát triển tương đối ổn định. Nếu không có sự phát triển nhanh chóng của các
SMEs thì những đòn đánh của suy thoái và khủng hoảng mà nền kinh tế Mỹ
phải chịu, nhất định sẽ càng nghiêm trọng hơn, tốc độ tăng trưởng kinh tế còn
có thể sẽ châm trễ hơn nữa. Ngoài ra, các SMEs còn có tác dụng thúc
đẩy
cạnh tranh bình đẵng giữa các doanh nghiệp và làm giảm độc quyền trong nền
kinh tế, điều đó tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Mỹ.
Chính vì thế các SMEs với những vai trò và đóng góp của mình đã thu hút
được sự chú ý ngày càng tăng của các nhà lãnh đạo, chính phủ, các nhà kinh
doanh và các học giả kinh tế trong và ngoài nước Mỹ. Riêng việc cục Quản lý
SMEs không đặt trong Bộ Thương mại mà trực thu
ộc Tổng thống Mỹ cũng
đủ nói lên chính quyền nước này rất coi trọng vai trò của các SMEs.
2.3. Vai trò của các SMEs ở CHLB Đức
Theo số liệu thống kê chính thức, năm 1996 CHLB Đức có 3,2 triệu
SMEs, chiếm 99,6% tổng số doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế quốc
dân. các SMEs này đã tạo việc làm cho 20 triệu lao động, chiếm 68% nhân
công, đào tạo tới 80% học sinh học nghề, một tỷ lệ rất cao, mà chỉ nhờ v
ị trí
và năng lực đặc biệt lớn của loại hình doanh nghiệp có quy mô nhỏ này mới
có thể đảm đương nổi. Các SMEs góp phần tạo ra 53% giá trị gia tăng trong
tổng giá trị gia tăng của tất các doanh nghiệp; nếu tính tổng giá trị gia tăng
của toàn bộ nền kinh tế, thì chúng tạo ra 44,7%. Loai hình doanh nghiệp này
đóng góp 45,4% tổng lượng đầu tư. Tính ở thời điểm năm 1992 các SMEs đã
sản xuất t
ới 50% tổng sản phẩm xã hội. Chính vì vậy các SMEs được coi là
xương sống, là một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế, là nhân tố
bảo đảm cho sự phát triển ổn định, bền vững của quốc gia và cộng đồng. Ta

có thể làm rõ vai trò của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế Đức
thông qua những thực tế sau đây:
- Một là, các SMEs bảo đảm cho tính năng độ
ng của nền kinh tế. Chúng có
khả năng tạo ra một lượng cung về hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng
đầy đủ, kịp thời, với giá cả hợp lý các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của
xã hội. Chính nhờ tính linh hoạt, khả năng thích ứng với thị trường và
chấp nhận rủ ro của chúng, mà loại hình doanh nghiệp này có được khả
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trần Trí Dũng – Nhật 3 – K38
- 21
năng đổi mới, mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế và do đó mà tự nó đã
thể hiện được các chức năng kinh tế to lớn đối với xã hội.
Do quy mô và tổ chức xí nghiệp, SMEs không tiến sản xuất hàng loạt lớn,
nhưng lại có khả năng tạo ra những mặt hàng sản xuất chuyên biệt với số
lượng nhỏ và giá thành hợp lý. Đặc biệt, chúng rất nhanh nhạy trong vi
ệc
phát hiện nhu cầu của thị trường và do đó có khả năng bù đắp kịp thời
những thiếu hụt về cung đối với xã hội.
Đặc biệt cần nhấn mạnh rằng, loại hình doanh nghiệp này hiện diện ở
khắp mọi miền đất nước, kể cả ở nông thôn và vùng núi, những nơi thưa
dân, cơ cấu kinh tế chưa phát triển. Nhờ đó, chúng có khả
năng huy động
mọi nguồn lực chưa được huy động, cung cấp vững chắc hàng hoá và dịch
vụ cho dân cư địa phương và những vùng phụ cận. Chúng cung ứng sản
phẩm tại chỗ với 95% sản phẩm tiêu thụ nội địa, mà chủ yếu là tiêu thụ
trong vùng (80% sản phẩm tiêu thụ trong vòng bán kính 30 km); 5% sản
phẩm dành cho xuất khẩu. Như vậy, các SMEs ở Đức thực sự góp phần
đắc lực cho sự tăng trưởng kinh tế (thực hiện chức năng tăng trưởng) và

chuyển dịch cơ cấu (chức năng thực hiện chính sách cơ cấu).
- Hai là, các SMEs thu nhận tới trên 60% lao động xã hội. Chúng có khả
năng phản ứng linh hoạt hơn so với các doanh nghiệp lớn, đặc biệt trong
những thời kỳ chuyển dịch cơ cấu kinh tế hay suy thoái. Do đó những y
ếu
tố này ít tác động, thậm chí hầu như không tác động xấu đến khả năng thu
hút việc làm của các SMEs. Ví dụ từ 1970-1987, trong khi các doanh
nghiệp lớn có trên 1000 lao động đã sa thải 360.000 công nhân, tức giảm
10% việc làm; thì ngược lại cũng trong thời gian đó các SMEs dưới 20 lao
động lại tạo thêm 1,6 triệu việc làm mới.
Năm 1994, các doanh nghiệp có trên 500 công nhân sa thải tới 10% lao
động, trong khi đó các đoang nghiệp có từ 1-9 công nhân lại thu hút thêm
18%lao động; số doanh nghiệ
p có từ 10- 19 công nhân thu hút thêm 12%
lao động, các doanh nghiệp có từ 20-49 lao đông thuê thêm 5% công
nhân. Rõ ràng là, với những lợi thế của chúng: Số lượng lớn, phân bổ
rộng khắp mọi miền đất nước, tính linh hoạt cao và ít bị tác động xấu bởi
những biến động kinh tế, bởi sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự suy thoái
kinh tế; cho nên các SMEs tỏ rõ ưu thế của mình trong việc giải quyết
việc làm cho người lao
động. Chức năng xã hội của chúng nhờ đó được
thể hiện một cách đặc biệt nổi bật, điều mà chắc chắn quốc gia nào, dù
phát triển cao hay đang phát triển, cũng hết sức quan tâm.

×