Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Xã hội hoá dịch vụ công - Lớp lãnh đạo cấp phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.81 KB, 17 trang )

…………………
……………………………………

BÀI THU HOẠCH
Lớp đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cấp Phòng ……………….
Chuyên đề: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ lãnh
đạo cấp phòng trong bối cảnh đẩy mạnh xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ công

Họ và tên:
Sinh ngày…… tháng…..năm…
Cơ quan công tác:

……., ngày…..tháng….. năm 2020

1


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU.......................................................................................................3

I. Lý do lựa chọn đề tài.............................................................3
II. Mục đích hướng tới của đề tài..............................................3
PHẦN II. NỘI DUNG..................................................................................................4

I. Cơ sở lý luận..........................................................................4
1. Nội dung............................................................................4
2. Phân tích...........................................................................5
II. Thực trạng công tác xã hội hóa dịch vụ công.......................7
1. Nội dung............................................................................7
2. Thuận lợi.........................................................................10
3. Khó khăn.........................................................................11


III. Kiến nghị, giải pháp...........................................................14
1. Kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước...............................14
2. Kiến nghị với cơ quan chức năng....................................15

2


PHẦN I. MỞ ĐẦU

I. Lý do lựa chọn đề tài
Xã hội hóa dịch vụ công là quá trình huy động sự tham gia dưới các hình thức
khác nhau của các chủ thể và cộng đồng xã hội nhằm nâng cao chất lượng, số lượng và
mở rộng các hình thức cung ứng dịch vụ công, đồng thời đổi mới vai trò của Nhà nước
trong việc quản lý, hỗ trợ cung ứng dịch vụ công từ khu vực công sang khu vực tư;
huy động kinh phí đóng góp của dân vào việc cung ứng các dịch vụ công của Nhà
nước; động viên, tổ chức sự tham gia hoạt động rộng rãi nhằm đa dạng hóa các hoạt
động cung ứng dịch vụ công.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nền hành chính công ở các quốc gia đều phải giải
quyết nhiều hơn những vấn đề phức tạp của đời sống kinh tế - xã hội, là thách thức đối
với chính phủ ở nhiều nước. Để vượt qua những thách thức này đòi hỏi hành chính
công ở các nước phải thay đổi mạnh mẽ và tích cực hơn. Theo đó, mô hình quản lý
công mới gắn liền với xây dựng một chính phủ gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả, nhanh
nhạy. Đây là một xu hướng mới trong hoạt động của nhà nước - nền hành chính
chuyển chức năng từ “cai trị” sang chức năng “phục vụ”, cung cấp dịch vụ công cho
xã hội.
Thực tiễn cho thấy, dịch vụ công hoạt động phục vụ các lợi ích chung thiết yếu,
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, do Nhà nước trực tiếp đảm
nhận hay ủy quyền cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và
công bằng xã hội. Nhiều hoạt động cung ứng dịch vụ công được chuyển giao dần cho
các khu vực ngoài nhà nước thực hiện, nhà nước không tự mình giải quyết tất cả các

vấn đề xã hội mà đẩy mạnh dân chủ hóa gắn với phân quyền, xã hội hóa nhằm tập
trung chỉ thực hiện tốt vai trò “lái thuyền”. Tuy nhiên, thực trạng xã hội hóa dịch vụ
công hiện nay đang còn rất nhiều bất cập về khung pháp lý cũng như chất lượng dịch
vụ, giá cả và nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước đặc biệt của lãnh
đạo cấp phòng, những vị trí tiếp xúc gần gũi với các doanh nghiệp, đơn vị tham gia xã
hội hóa dịch vụ công.
Chính vì lẽ đó, sau khi lĩnh hội các kiến thức về bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý cấp
phòng do các giảng viên …………………………. truyền đạt, tôi xin viết đề tài “Thực
trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ lãnh đạo cấp phòng trong
bối cảnh đẩy mạnh xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ công”.
II. Mục đích hướng tới của đề tài
Đề tài nhằm tìm hiểu và đưa ra những nhận xét đúng đắn hơn, một cách nhìn sâu
rộng hơn, có cái nhìn đúng về bản chất và mục tiêu xã hội hóa dịch vụ công trong nền
3


kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, đề tài đóng góp các ý
kiến về vai trò của lãnh đạo cấp phòng trong việc xã hội hóa các dịch vụ công.

PHẦN II. NỘI DUNG

I. Cơ sở lý luận
1. Nội dung
a) Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển và đảm bảo chất lượng dịch vụ công
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, cải cách hành chính, Nhà nước
không chỉ tổ chức, quản lý xã hội bằng các thiết chế pháp luật mà còn phải thông qua
việc thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người dân - cung ứng các dịch vụ công cho
xã hội. Để thực hiện tốt chức năng này, cần phải đổi mới và xác định rõ hơn vai trò,
chức năng của bộ máy nhà nước nói chung, vai trò, trách nhiệm trong cung cấp dịch
vụ công nói riêng nhằm hướng tới nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động này,

thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của người dân và xã hội, thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội bền vững và xây dựng Nhà nước ngày càng vững mạnh.
Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với dịch vụ công đã được xác định rõ
trong đường lối, chủ trương của Đảng cũng như trong các quy định pháp luật. Vai trò,
trách nhiệm của Nhà nước đối với dịch vụ công được thể hiện như sau:
- Trực tiếp tổ chức thực hiện một số dịch vụ công.
Dịch vụ công là dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm, vì thế Nhà nước phải
trực tiếp thực hiện cung ứng một số dịch vụ công thông qua các cơ quan tổ chức của
mình lập ra. Chỉ có điều khi trực tiếp thực hiện việc này, Nhà nước cần phải nghiên
cứu, xác định rõ các dịch vụ nào thực sự cần thiết phải trực tiếp làm, phạm vi đến đâu
để tránh ôm đồm quá với khả năng cho phép nhất là về tài chính và bộ máy nhân sự.
- Xây dựng cơ chế chính sách chung, thống nhất, đồng thời hoàn thiện cơ chế
chính sách cho mỗi loại dịch vụ công.
Được gọi chung là dịch vụ công, nhưng nó gồm nhiều loại và trong mỗi loại lại
có nhiều hình thức dịch vụ cụ thể mang những tính chất riêng. Tham gia vào cung ứng
các dịch vụ đó trong điều kiện xã hội hiện đại, gồm nhiều chủ thể khác nhau: nhà
nước, thị trường, các tổ chức xã hội, các cá nhân... Ngay trong khu vực nhà nước cũng
gồm nhiều chủ thể khác nhau: cơ quan hành chính, tổ chức đơn vị sự nghiệp, các
doanh nghiệp nhà nước. Việc cung ứng dịch vụ của các chủ thể nhằm những mục đích
khác nhau. Chính vì vậy, Nhà nước phải xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách đối
với việc cung ứng dịch vụ công làm căn cứ pháp lý để tổ chức, chỉ đạo thống nhất.
4


Đồng thời, đó cũng là cơ sở để các tổ chức xã hội và công dân có thể lựa chọn và tham
gia vào việc cung ứng các dịch vụ công một cách hiệu quả.
b) Việc xã hội hóa dịch vụ công
Xã hội hóa dịch vụ công là quá trình vận động, tổ chức thực hiện để nhân dân và
toàn xã hội tham gia góp vốn, tài sản, sức lao động và trí tuệ vào việc cung ứng dich
vụ công, hình thành tính cộng đồng trách nhiệm giữa nhà nước và khu vực ngoài nhà

nước; là quá trình đa dạng hóa các hình thức hoat động, mở ra có hội để mọi người chủ
động và bình đẳng tham gia; là quá trình đa dạng hóa nguồn lực đầu tư để thu hút, khai
thác mọi tiềm năng trong xã hội.
Xã hội hóa dịch vụ công không có nghĩa là nhà nước giảm trách nhiệm trong việc
cung ứng dịch vụ công, nhà nước giảm một phần việc trực tiếp cung cấp dịch vụ công,
ủy quyền cho các chủ thể khác thực hiện và nhà nước là người ban hành khung khổ
luật pháp, chính sách, tạo điều kiên cho các chủ thể khác tham gia, cung cấp tài chính
và kiểm soát chất lượng cung cấp dịch vụ công các chủ thể khác.
Xã hội hóa dịch vụ công là một xu hướng tất yếu gắn liền với phát triển kinh tế
thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở từng giai đoạn phát triển; Do sự phát
triển không ngừng của đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu của con người và xã hội ngày
càng tăng cao, vì vậy việc cải cách, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công đáp
ứng kịp thời các yêu cầu của công dân và xã hội là vấn đề luôn được Nhà nước quan
tâm.
Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội
hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao… đã tạo cơ sở pháp lý quan
trọng thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ công ở nước ta trong những năm qua; Cụ thể, việc
ủy quyền cho các tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện một số dịch vụ công đã tạo ra môi
trường cạnh tranh và cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng những dịch vụ
tốt nhất. Sự ra đời và hoạt động bước đầu có hiệu quả của các bệnh viện tư, các hãng
phim tư nhân và những công ty tổ chức biểu diễn, các trường đại học tư thục; các
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa và làm ăn có hiệu quả… đã từng bước thể hiện
tính đúng đắn của chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ dịch vụ công trên phạm vi rộng.
Việc xã hội hóa các dịch vụ công đã và đang tạo điều kiện cho mọi người tham gia chủ
động và tích cực, phát huy được tiềm năng trong xã hội trong việc cung ứng các dịch
vụ công; đồng thời góp phần làm giảm bớt gánh nặng của ngân sách nhà nước trong
điều kiện ngân sách còn hạn hẹp.
2. Phân tích
Xu hướng chung của thế giới hiện nay là nhà nước chỉ trực tiếp thực hiện những
dịch vụ công nào mà xã hội không thể làm được hoặc không muốn làm. Trong điều

kiện Việt Nam, Nhà nước vừa đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công về giáo dục,
y tế, văn hóa, xã hội, đồng thời phân cấp mạnh cho các cấp chính quyền địa phương
5


trực tiếp quản lý và thực hiện các loại dịch vụ công liên quan trực tiếp đến đời sống
công dân, cộng đồng. Chính phủ, các Bộ chỉ trực tiếp thực hiện cung cấp những loại
dịch vụ quan trọng, đòi hỏi chất lượng và trình độ cao. Các dịch vụ công mà xã hội có
thể đảm nhận được, Nhà nước thực hiện chuyển giao, khuyến khích, tạo điều kiện cho
các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tư nhân thực hiện trong sự định hướng và hỗ trợ
của Nhà nước. Các dịch vụ công nào sau một thời gian, xã hội có thể hoàn toàn đảm
nhiệm được và người dân có thể chấp nhận được với giá cả thị trường thì chuyển thành
các dịch vụ thông thường.
Mặt khác, nhà nước cần xây dựng, hoàn chỉnh chính sách về dịch vụ công còn là
để đảm bảo sản phẩm hàng hóa dịch vụ công đến tận tay người được hưởng thụ, khắc
phục sự thất thoát từ những tổ chức thực hiện dịch vụ. Trong một số lĩnh vực, cần
nghiên cứu cơ chế cấp ngân sách dịch vụ thẳng cho đối tượng được hưởng dịch vụ, bỏ
cơ chế cấp qua tổ chức thực hiện. Trong lĩnh vực giáo dục, đối với những nơi, những
đối tượng còn bao cấp, có thể nghiên cứu thay việc cấp kinh phí đào tạo cho các
trường bằng việc cấp cho học sinh để họ tự tìm học ở trường họ muốn, hoặc trong lĩnh
vực y tế cũng có thể áp dụng hình thức tương tự trong việc cấp kinh phí về bảo hiểm y
tế đối với các đối tượng chính sách. Những lĩnh vực khác như việc trợ giúp pháp lý
cho các đối tượng theo Luật Trợ giúp pháp lý cần được thực hiện linh hoạt hơn, bên
cạnh cách thức hiện hành cần bổ sung thêm cách thanh toán qua ngân hàng chuyển cho
đương sự để đương sự tự lựa chọn tổ chức, cá nhân phù hợp.
Thực tiễn cho thấy, dịch vụ công hoạt động phục vụ các lợi ích chung thiết yếu,
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, do Nhà nước trực tiếp đảm
nhận hay ủy quyền cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và
công bằng xã hội. Xã hội hóa dịch vụ công là quá trình huy động sự tham gia dưới các
hình thức khác nhau của các chủ thể và cộng đồng xã hội nhằm nâng cao chất lượng,

số lượng và mở rộng các hình thức cung ứng dịch vụ công, đồng thời đổi mới vai trò
của Nhà nước trong việc quản lý, hỗ trợ cung ứng dịch vụ công từ khu vực công sang
khu vực tư; huy động kinh phí đóng góp của dân vào việc cung ứng các dịch vụ công
của Nhà nước; động viên, tổ chức sự tham gia hoạt động rộng rãi nhằm đa dạng hóa
các hoạt động cung ứng dịch vụ công.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, quá trình xã hội hóa dịch vụ công ở
nước ta đang đặt ra nhiều thách thức mà nếu không giải quyết triệt để thì sẽ ảnh hưởng
đến hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; Đó là, các doanh nghiệp trong khu vực tư
nhân chú trọng nhiều đến lợi nhuận, luôn có xu hướng đẩy giá dịch vụ lên cao, các loại
phí dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ yếu, cơ chế tài chính không minh
bạch. Một số cơ sở tư nhân được thành lập dưới dạng tự phát nên khó kiểm soát chất
lượng; Hàng loạt trường mầm non tư thục không đủ tiêu chuẩn như thiếu không gian
cho trẻ, thực phẩm không an toàn, các điều kiện chăm sóc trẻ không đảm bảo; các cơ
sở khám chữa bệnh không đáp ứng được yêu cầu, tùy tiện nâng giá thuốc; các trường
6


học tư thục thiếu giáo viên cơ hữu…Tất cả đang đặt ra vấn đề về kiểm soát chất lượng
đối với các dịch vụ được khối tư nhân cung ứng cho xã hội.
3. Kết luận
Trong thời gian tới, nhằm thực hiện xã hội hóa các dịch vụ công có hiệu quả,
trước hết về mặt nhận thức, cần có cái nhìn đúng về bản chất và mục tiêu xã hội hóa
dịch vụ công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xã hội hóa
không phải chạy theo số lượng, hay mức độ xã hội hóa nhiều hay ít, rộng hay hẹp mà
phải tính đến chất lượng, sự cần thiết của nó trong thực tiễn quản lý và trên hết là phải
xuất phát từ thực tiễn đòi hỏi đáp ứng các nhu cầu của xã hội.
Về mặt nội dung, xã hội hóa dịch vụ công đòi hỏi phải đảm bảo một số nguyên
tắc cơ bản: Các dịch vụ công nào mà khu vực ngoài nhà nước không làm được, không
muốn làm hoặc không được phép làm nhưng xã hội có nhu cầu thì Nhà nước phải tiến
hành cung cấp; Nhà nước phối hợp tổ chức xã hội và tư nhân thực hiện cung ứng dịch

vụ công theo pháp luật và quy chế; các dịch vụ công nào mà các thành phần kinh tế
khác có khả năng và muốn tham gia thì Nhà nước khuyến khích họ tham gia cung ứng
cho xã hội, nhưng Nhà nước vẫn chịu trách nhiệm trước xã hội về số lượng và chất
lượng các dịch vụ công để chuyển giao cho khu vực tư.
Về cách thức thực hiện, nâng cao vai trò công tác thông tin, tuyên truyền để xã
hội, công dân và cả cán bộ, công chức nhận thức rõ hơn về chủ trương xã hội hóa dịch
vụ công. Cơ quan Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập cần cải cách hoạt động
của các tổ chức cung ứng dịch vụ và đổi mới phương thức phục vụ để nâng cao khả
năng cạnh tranh với khu vực tư. Tiến tới bổ sung và hoàn thiện hành lang pháp lý cùng
với các cơ chế, chính sách ưu đãi hữu hiệu và khả thi để khuyến khích việc tham gia
cung ứng các dịch vụ công cho xã hội. Trong đó đặc biệt quan tâm đến việc chuyển
đổi mô hình hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp bán công và công lập sang hình
thức tư thục, thành lập các cơ sở ngoài công lập, cổ phần hóa…; xây dựng và duy trì
sự cạnh tranh giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ. Tạo lập môi trường để tăng cường
tiếng nói và sự phản hồi của người dân đối với các chính sách của Nhà nước trong việc
cung ứng các dịch vụ công nói riêng. Đồng thời, phát huy vai trò của Nhà nước về
tăng cường kiểm tra kiểm soát hợp lý nhằm đảm bảo chất lượng cung ứng dịch vụ
công; Cụ thể, phải rà soát lại số lượng, chất lượng hoạt động cung ứng dịch vụ công
của khu vực công và cả khu vực tư hiện nay để có những kiến nghị phù hợp cho công
tác quy hoạch, định hướng phát triển; xử lý nghiêm các trường hợp có hành vi vi phạm
pháp luật trong cung ứng các dịch vụ công.
II. Thực trạng công tác xã hội hóa dịch vụ công
1. Nội dung
1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa dịch
vụ công
7


Tư tưởng về xã hội hoá dịch vụ công được hình thành từ Nghị quyết Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư (khoá VII) - “Đa dạng hóa các hình thức

tổ chức chăm sóc sức khỏe (nhà nước, tập thể, nhân dân) trong đó y tế nhà nước là chủ
đạo”, và được chính thức đưa vào trong văn kiện Đại hội Đảng VIII - “Các vấn đề
chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng
cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội,
các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội”.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định: “Các chính sách xã hội được tiến
hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động
các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức
xã hội”. Văn kiện Đại hội Đảng X tiếp tục cụ thể hóa: “Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục
và đào tạo” và “Xúc tiến xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin với
bước đi thích hợp cho từng loại hình, từng vùng”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
“Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã
khẳng định: “Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể
thao, đặc biệt là cho những vùng nghèo, người nghèo, bảo đảm những dịch vụ cơ bản
cho nhân dân. Đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, vận dụng hợp lý những mặt tích cực
của cơ chế thị trường”.
Thể chế hoá chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/NQCP ngày 21/8/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo
dục, y tế và văn hóa; Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội
hóa đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Trong Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 của Chính phủ, vấn
đề dịch vụ công được đề cập rất cụ thể: “Xây dựng quan niệm đúng đắn về dịch vụ
công. Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân,
nhưng không phải vì thế mà mọi công việc về dịch vụ công đều do cơ quan nhà nước
trực tiếp đảm nhiệm. Trong từng lĩnh vực cần định rõ những công việc mà Nhà nước
phải đầu tư và trực tiếp thực hiện, những công việc cần chuyển giao cho các tổ chức xã
hội đảm nhiệm”.
Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội
hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao khẳng định: Xã hội hoá
nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội

chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Các nhiệm vụ đẩy mạnh
xã hội hóa chủ yếu gồm:
1) Nhà nước đổi mới cơ chế chính sách, đổi mới phương thức cơ cấu đầu tư;
2) Chuyển các cơ sở công lập đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng
tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ;
8


3) Phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập với hai loại hình dân lập và tư nhân;
4) Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Như vậy, theo tinh thần các văn kiện của Đảng và Nhà nước, xã hội hoá chính là
huy động nguồn lực từ trong nhân dân và sự tham gia của người dân vào việc giải
quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội của Nhà nước, nhưng không làm giảm vai
trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo các dịch vụ công cơ bản cho người
dân.
1.2. Những kết quả đạt được và hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện xã
hội hóa dịch vụ công
1.2.1. Kết quả đạt được
Thời gian qua, chúng ta đã đạt được một số thành quả từ việc xã hội hóa dịch vụ
công trên tất cả các lĩnh vực đời sống. Có thể thấy nó đã đem lại những lợi ích không
thể phủ nhận. Bắt đầu từ thay đổi nhận thức về vai trò của Nhà nước đối với các dịch
vụ công liên quan đến thủ tục hành chính - lĩnh vực mà trước đây chỉ có Nhà nước
đảm trách - thì hiện nay đã chuyển giao một phần cho các tổ chức ngoài nhà nước.
Các chính sách, quy định làm cơ sở cho việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã
hội hóa đã được Chính phủ nghiên cứu, ban hành nhằm thu hút các nguồn lực tham gia
vào hoạt động phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Kết quả
cho thấy, hệ thống các cơ sở cung ứng dịch vụ công ngoài công lập ngày càng phát
triển, đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu của xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế,
văn hóa và thể dục thể thao… tạo công ăn việc làm cho hàng chục vạn người.
Mạng lưới các trường, cơ sở đào tạo, dạy nghề ngoài công lập đã được mở rộng ở

các cấp học. Trình độ đào tạo; tỷ lệ học sinh, sinh viên ở các trường ngoài công lập
ngày càng tăng. Nhiều cơ sở y tế ngoài công lập được thành lập ở các địa phương, thực
hiện cấp cứu, khám chữa bệnh cho hàng triệu lượt người, góp phần giảm tải cho các cơ
sở khám chữa bệnh công lập. Các cơ sở cung ứng dịch vụ văn hóa và thể dục thể thao
ngoài công lập tăng nhanh, thu hút được nhiều nguồn lực, nhiều thành phần kinh tế
trong xã hội tham gia.
Có thể thấy, Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa,
huy động được nhiều nguồn lực xã hội để cùng với ngân sách nhà nước đầu tư cho các
lĩnh vực dịch vụ công, tạo điều kiện cho ngân sách nhà nước tập trung đầu tư phát
triển các cơ sở công lập phục vụ những vùng nghèo, người nghèo và đảm bảo những
dịch vụ cơ bản như: Giáo dục phổ cập; Các chương trình mục tiêu quốc gia; Y tế dự
phòng, y tế cơ sở, chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho các đối tượng chính sách, người
nghèo...
Đẩy mạnh xã hội hóa bằng việc khuyến khích thành lập các cơ sở ngoài công lập,
mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng dịch vụ của các cơ sở này; thúc đẩy việc hình
9


thành cơ chế cạnh tranh giữa các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ công lập và ngoài
công lập nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng phục vụ; nâng cao ý thức trách nhiệm
và mở rộng sự tham gia của toàn dân vào sự nghiệp phát triển giáo dục, y tế, văn hóa,
thể dục thể thao… của đất nước.
1.2.2. Hạn chế
Thực tế hiện nay, việc tăng nhanh số lượng các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài
công lập đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải có những biện pháp quản lý mới,
nội dung và phương thức quản lý cần phải thay đổi do có nhiều vấn đề nảy sinh trong
việc kiểm soát chất lượng dịch vụ. Các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân thường
chú trọng đến lợi nhuận nhiều hơn nên có xu hướng đẩy cao giá dịch vụ, các loại phí
dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ không tương xứng, cơ chế tài chính
không minh bạch, nhiều cơ sở tư nhân được thành lập tự phát khó kiểm soát được chất

lượng. Ví dụ như, hàng loạt trường mầm non tư thục thành lập nhưng không đáp ứng
đủ về không gian cho trẻ, thực phẩm và các điều kiện chăm sóc trẻ cũng không được
đảm bảo, thiếu giáo viên cơ hữu; các cơ sở khám chữa bệnh không đáp ứng được yêu
cầu, nâng tùy tiện giá thuốc; các hãng phim chạy theo xu hướng giải trí rẻ tiền, thiếu
định hướng...
Tất cả đang đặt ra vấn đề về kiểm soát chất lượng đối với các dịch vụ được khối
tư nhân cung ứng cho xã hội. Tất nhiên, tình trạng kém chất lượng trong cung ứng dịch
vụ không bắt nguồn từ việc xã hội hóa, tuy nhiên, mức độ xã hội hóa ồ ạt, thiếu kiểm
soát rõ ràng đã tác động tiêu cực đến quyền lợi của người thụ hưởng dịch vụ.
2. Thuận lợi
Cùng với quá trình phát triển kinh tế- xã hội với cơ chế thông thoáng hơn đã tạo
ra sự thay đổi về tương quan giữa khu vực công (nhà nước) và khu vực tư (tư nhân)
trong việc cung ứng dịch vụ công; Từ đó nhà nước chuyển giao dần và chuyển giao
một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thông qua cơ chế xã hội
hóa.
Trong những năm gần đây, kinh tế- xã hội, khoa học và công nghệ phát triển
nhanh đã tạo cho khu vực tư nhân có đủ nguồn lực, (tài chính, nhân lực) và công nghệ
để đảm nhận cung ứng một số dịch vụ công mà trước đây chỉ có nhà nước mới đủ khả
năng cung ứng (ví dụ như bệnh viện, trường học, các viện nghiên cứu, giao thông công
cộng, điện, nước…)
Sự thay đổi về mức sống của người dân ngày một nâng cao, dẫn đến nhu cầu
cung ứng dịch vụ công cũng đòi hỏi chất lượng cao hơn, nhất là việc chăm sóc sức
khỏe, giáo dục, văn hóa; nếu chỉ để khu vực công độc quyền cung ứng dịch vụ công
sẽ dẫn đến mất sức cạnh tranh và chất lượng hiệu quả không đáp ứng kịp thời nhu cầu
của người dân và cộng đồng. Ngày nay ở các đô thị lớn, nhiều gia đình có điều kiện về
kinh tế đã đến khám chữa bệnh ở các bệnh viện tư nhân (bệnh viện quốc tế) và cho con
10


học ở các trường học tư nhân (trường quốc tế) vì họ cho rằng ở đó chất lượng khám

chữa bệnh tốt hơn, dạy và học tốt hơn..
Sự kém hiệu quả và chất lượng ở một số dịch vụ công do các cơ quan nhà nước
cung ứng (bệnh viện, trường học, xây dựng nhà ở…) so với khu vực tư nhân cũng dẫn
đến việc nhà nước phải đẩy mạnh xã hội hóa việc cung ứng dịch vụ công.
3. Khó khăn
Các cấp, các ngành quan niệm về xã hội hóa chưa toàn diện và đầy đủ, chỉ mới
xem xã hội hóa là biện pháp huy động sự đóng góp của nhân dân tạm thời trong điều
kiện Nhà nước đang khó khăn về tài chính và ngân sách; và chưa thực sự quyết tâm
đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động dịch vụ công.
Một bộ phận cán bộ, công chức và người dân có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự
cung cấp của Nhà nước, trong khi đó, việc quán triệt, tuyên truyền về mục tiêu, sự cần
thiết của xã hội hóa chưa được quan tâm đúng mức.
Những chính sách, quy định, cơ chế để thu hút đầu tư của các nguồn lực xã hội
nhằm phát triển các dịch vụ công ngoài công lập tuy đã có nhưng chưa đủ thu hút,
chưa đủ mạnh. Các chính sách đòn bẩy kinh tế như thuế, tín dụng, đất đai, chế độ tiền
lương, bảo hiểm xã hội chưa được triển khai thực hiện đồng bộ và nhất quán để thúc
đẩy sự phát triển của hệ thống các cơ sở dịch vụ ngoài công lập. Công tác phối hợp
giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Công tác chỉ đạo triển khai thực hiện
của Nhà nước còn chưa quyết liệt.
Thói quen bao cấp, cửa quyền của cơ quan nhà nước chưa xóa bỏ hết, đồng thời
chưa hình thành được thói quen về yêu cầu xã hội hóa dịch vụ công trong xã hội.
Trong khi đó, tính tự phát của thị trường và người dân phát sinh khá phổ biến gây ra
nhiều khó khăn cho những người muốn sống đúng pháp luật hay cạnh tranh lành
mạnh. Nạn hối lộ, tham những lớn nhỏ diễn ra khắp nơi mà chưa được xử lý triệt để.
Đó là khó khăn cho xã hội hóa dịch vụ công.
4. Những vấn đề đặt ra đối với lãnh đạo cấp phòng trong việc xã hội hóa
dịch vụ công
4.1. Chức năng nhiệm vụ của lãnh đạo phòng nói chung trong xã hội hóa
dịch vụ công
Lãnh đạo cấp phòng là người giúp việc cho thủ trưởng đơn vị, là ngươi tham

mưu cho thủ trưởng đơn vị về cung cấp dịch vụ công thuộc lĩnh vực được giao, là
người đứng đầu một tổ chức chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được
giao và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của phòng, là người quyết định cuối cùng
về hoạt động chuyên môn của phòng, là người có trách nhiệm phát triển tổ chức và
chăm lo đến công tác nhân sự của phòng; quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật của phòng…
11


Nói một cách khác lãnh đạo cấp phòng vừa là người tham mưu giúp việc, vừa là
người lãnh đạo quản lý một tổ chức, hai vai trò này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình thực hiện xã hội hóa cung cấp dịch vụ công.
Nhiệm vụ chủ yếu của lãnh đạo cấp phòng nhằm thực hiện hai chức năng cơ bản
là người tham mưu và là người lãnh đạo quản lý đã được quy định cụ thể cho từng cấp
độ khác nhau (lãnh đạo phòng cấp bộ, lãnh đạo phòng cấp sở, lãnh đạo phòng cấp
huyện, lãnh đạo phòng ở các đơn vị hành chính sự nghiệp tham gia vào cung ứng dịch
vụ công…), sau đây chỉ là những nhiệm vụ cơ bản chung nhất cần phải thực hiện.
- Về góc độ là người tham mưu
Chủ trì việc nghiên cứu, đề xuất với thủ trưởng đơn vị các vấn đề có liên quan
đến việc xây dựng và tổ chức thực hiện Luật pháp, cơ chế, chính sách, chương trình,
kế hoạch, đề án để thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc cung cấp dịch vụ
công thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Có hai góc độ cần chú ý, góc độ thứ nhất đó là nghiên cứu đề xuất về việc xây
dựng luật pháp, chính sách, cơ chế, chương trình, kế hoạch, đề án; góc độ thứ hai là
tham mưu đề xuất việc tổ chức thực hiện luật pháp, cơ chế, chính sách, chương trình,
kế hoạch, đề án.
Việc nghiên cứu đề xuất phải hướng vào tạo môi trường để toàn dân, toàn xã hội
tham gia vào cung ứng dịch vụ công thuộc lĩnh vực được giao; thu hút được nhiều
nguồn lực cho việc cung ứng dịch vụ công, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung ứng
dịch vụ công. Lãnh đạo cấp phòng cần có những hiểu biết rất cơ bản về phân tích và
hoạch định chính sách, có kỹ năng vận dụng các công cụ thích hợp để phân tích tác

động đa chiều của cơ chế, chính sách, đặc biệt là tác động về mặt xã hội, kinh tế đến
cấp độ các nhân, gia đình và cấp độ vùng lãnh thổ, quốc gia.
- Về góc độ là người lãnh đạo, quản lý
Chủ trì việc chỉ đạo xây dựng chương trình kế hoạch và tổ chức thực hiện việc
cung ứng dịch vụ công theo tinh thần xã hội hóa trong phạm vi chức năng nhiệm vụ
của phòng
Chủ trì việc phối hợp với các tổ chức có liên quan trong quá trình tổ chức thực
hiện cung ứng dịch vụ công
Kiểm soát chất lượng cung ứng dịch vụ công trong phạm vị nhiệm vụ được giao
(cả các đơn vị công lập và ngoài công lập hoặc của phòng) thông qua các công cụ quản
lý phù hợp
Phân công nhiệm vụ và hướng dẫn cho cán bộ trong phòng thực hiện từng phần
công việc sao cho chất lượng, hiểu quả, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của từng
người. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhân viên trong phòng thực hiện tốt các nhiệm
vụ được; xây dựng bầu không khí làm việc đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu
12


chung của phòng; công tâm trong công tác thi đua khen thưởng, quả lý và sử dụng có
hiệu quả cơ sở vật chất của phòng….
Theo dõi, đánh giá kết quả hoạt động của phòng trong quá trình cung ứng dịch vụ
công, điều chỉnh chương trình, kế hoạch và hoạt động chung của phòng để bảo đảm
hoàn thành chương trình kế hoạch đề ra. Việc theo dõi, đánh giá cần được thiết lập
bằng bộ chỉ tiêu và có công cụ thu thập thông tin, số liệu phù hợp
4.2. Nội dung xã hội hóa dịch vụ công ở cấp phòng
Xã hội hóa việc cung ứng dịch vụ công gắn chặt với quá trình chuyển đổi cơ chế,
thủ tục hành chính công, hình thành mô hình cung ứng dịch vụ công có chất lượng và
hiệu quả. Tùy từng loại hình dịch vụ công mà có các tiêu chí đánh giá về chất lượng và
hiệu quả.
Chất lượng dịch vụ công được thể hiện thông qua việc tiếp cân dịch vụ công có

thuận tiện không, tính sẵn có của dịch vụ công, tính kịp thời của dịch vụ… đặc biệt là
các dịch vụ công liên quan đến chăm sóc xã hội ở cộng đồng và các cơ sở cung cấp
dịch vụ chăm sóc xã hội; mức độ hài lòng của người sử dụng dịch vụ theo các thang
bậc đánh giá khác nhau; mức độ “rò”.
Hiệu quả của việc cung ứng dịch vụ công được thể hiện thông qua các tiêu chí về
hiệu quả xã hội, hiệu quả về kinh tế, hiệu quả về mặt sử dụng… cao hơn nữa là tác
động của dịch vụ công đến cấp độ cá nhân, gia đình, cấp vùng và quốc gia.
Từ thực tiễn đó đặt ra những nội dung cụ thể về xã hội hóa cung ứng từng loại
dịch vụ công
- Thay đổi về cơ chế cung ứng dịch vụ công sao cho thật sự khuyến khích, thúc
đẩy khu vực tư nhân và phi chính phủ (NGO) tham gia vào việc cung ứng dịch vụ
công (tham gia một lạo hình dịch vụ công hay chỉ tham gia vào một công đoạn cung
ứng dịch vụ công). Phải coi khu vực ngoài công lập là một đối tác, một “người bạn”
cùng nhau tham gia cung ứng dịch vụ công của ngành; sự tham gia của họ sẽ có lợi
cho đất nức và cho ngành và cho người sử dụng dịch vụ.
Vì việc cung ứng dịch vụ công vốn là trách nhiệm của nhà nước nay có thêm
người bạn, có thêm đối tác cùng làm, giảm bớt công việc của nhà nước, của ngành thì
nhà nước và ngành phải trận trọng họ, tạo điều kiện cho họ, không được gây phiền hà,
nhũng nhiễu họ; nhân thức này cần được quán triệt sâu sắc trong đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp phòng.
- Tạo lập được môi trường bình đẳng giữa khu vực công lập và ngoài công lập
trong việc cung ứng dịch vụ công.
- Thủ tục hành chính cho kho khu vực ngoài công lập tham gia vào cung ứng
dịch vụ công cần đơn giản, thuận tiện, không nhũng nhiều, không phiền hà, không gây
khó khăn cho họ.
13


- Phải tạo lập được cơ chế cung cấp tài chính cho phù hợp cho khu vực tư nhân.
- Giảm thiểu hoặc loại bỏ các thủ tục về mặt hành chính gây phiền hà cho người

sử dụng dịch vụ, thủ tục hành chính cần đơn giản mà vẫn quản lý có hiệu quả.
Việc trực tiếp tổ chức thực hiện chủ yếu là ở cấp phòng, do vậy cần đề cao trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ trong quá trình thực hiện xã hội hóa cung ứng dịch vụ công,
tạo niềm tin cho các chủ thể khác tham gia và niềm tin đối với người sử dụng dịch vụ
III. Kiến nghị, giải pháp
1. Kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước
Nhà nước cần phải có cơ chế thích hợp để đảm bảo được chất lượng dịch vụ công
cung ứng đến người dân, đồng thời mở rộng chuyển giao việc cung ứng dịch vụ cho tư
nhân một cách mạnh mẽ. Muốn làm được việc này, Nhà nước cần hoàn thiện pháp luật
một cách đồng bộ về bộ máy nhà nước, trao thẩm quyền cụ thể cho từng loại cơ quan
thực hiện quản lý và cung ứng dịch vụ công; đặt ra chế tài xử lý vi phạm cùng với cơ
chế bảo đảm thực hiện các chế tài đó khi có hành vi vi phạm. Đồng thời, nâng cao vai
trò của Tòa Hành chính trong việc xét xử các quyết định hành chính, hành vi công vụ.
Nhà nước cũng cần phải xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý với những cơ chế,
chính sách ưu đãi hiệu quả và khả thi nhằm khuyến khích việc chuyển đổi mô hình
hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp bán công và công lập sang hình thức tư thục
cũng như cho việc thành lập các cơ sở ngoài công lập, cổ phần hóa...
Khuyến khích các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế cùng tham gia bằng cách
từng bước chuyển cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập sang cơ chế
cung ứng dịch vụ. Xây dựng các chế độ học phí, viện phí và phí, lệ phí trong các lĩnh
vực văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao... được tính toán đầy đủ, bao gồm các chi
phí cơ bản, đảm bảo phù hợp với khả năng huy động các nguồn lực trong xã hội và
phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương, từng loại đối tượng. Cần có những
quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi tự chịu trách nhiệm đối với những cơ sở
công lập chuyển đổi sang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp - tự chủ, tự hạch toán, tự
chịu trách nhiệm.
Cơ chế tài chính cần được làm rõ và mức độ vượt quá để Nhà nước có thể can
thiệp kịp thời, tránh để tình trạng không kiểm soát được. Những vấn đề này chủ yếu
liên quan đến học phí, viện phí, trợ giá, trợ cước và các loại phí dịch vụ khác. Quy
định rõ Nhà nước sẽ can thiệp khi có những thay đổi khách quan như thay đổi mức phí

khi giá dịch vụ cao hơn mặt bằng chung hoặc khi thực hiện chính sách xã hội…
Nhà nước cần ban hành những chính sách hỗ trợ đầu tư ban đầu, khuyến khích
các cơ sở ngoài công lập cùng với các chính sách đầu tư có hiệu quả cho các loại hình
dịch vụ công lập, đa dạng các hình thức, như: Tư nhân góp vốn, liên doanh, vốn đầu tư
nước ngoài; BOT (đầu tư - khai thác - chuyển giao), BT, BTO; Đầu tư xây dựng nhà
14


cửa, cơ sở hạ tầng cho các cơ sở ngoài công lập thuê dài hạn với giá ưu đãi, khuyến
khích các cơ sở ngoài công lập có điều kiện phát triển. Các địa phương có quy hoạch
về đất, dành quỹ đất để xây dựng và phát triển các cơ sở ngoài công lập phù hợp với
định hướng phát triển xã hội hóa.
Tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn viện trợ nhằm đẩy mạnh cho
giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ; có chính sách động viên, thu hút đội ngũ trí thức
Việt kiều về nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, khám - chữa bệnh, hoạt
động văn hóa, thi đấu thể thao.
2. Kiến nghị với cơ quan chức năng
Có cái nhìn đúng về bản chất và mục tiêu xã hội hóa dịch vụ công, đặc biệt là
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm khuyến khích phát
triển xã hội hóa dịch vụ công. Hơn hết, coi đây là một trong những giải pháp quan
trọng để huy động các nguồn lực và năng lực của xã hội một cách mạnh mẽ, đáp ứng
nhu cầu và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với sự phát triển đất nước. Phát
huy mọi tiềm năng, mọi sức lực trong xã hội nhằm phát triển dịch vụ công. Tạo điều
kiện cho mọi thực thể kinh tế tham gia vào dịch vụ công để làm giàu cho mình và cho
toàn xã hội.
Các cấp chính quyền cần hiểu rõ trách nhiệm quản lý và tổ chức cung ứng dịch
vụ công trên mọi mặt như ban hành các cơ chế, chính sách và quy định những tiêu
chuẩn, định mức, chất lượng, giá cả và dịch vụ… sao cho hợp lý và đảm bảo cung ứng
các dịch vụ xã hội cơ bản, bước đầu đáp ứng nhu cầu của xã hội; giao kế hoạch/đặt
hàng và thanh toán dịch vụ theo đơn đặt hàng với đơn vị tổ chức cung ứng dịch vụ

công; thực hiện trợ giúp người nghèo, đối tượng chính sách được thụ hưởng dịch vụ sự
nghiệp công; thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện dịch vụ công. Đảm bảo việc các
chủ thể kinh tế dịch vụ công cạnh tranh và hợp tác một cách văn minh và kinh doanh
có văn hóa.
Những quan niệm về quyền sở hữu trong các loại hình xã hội hóa dịch vụ công
như trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu, cơ sở văn hoá, thể dục thể thao, vui chơi
giải trí ngoài công lập... cần được làm rõ để người dân và xã hội hiểu đúng, hiểu đủ;
đồng thời hình thành các quan niệm đúng đắn, phù hợp, liên quan đến các vấn đề về
dịch vụ ngoài công lập.
Việc quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập cần được rà soát, kiểm
tra, đặc biệt chú ý đến quy hoạch phát triển các dịch vụ ngoài công lập nhằm đáp ứng
quy mô định hướng phát triển, phù hợp với yêu cầu của xã hội; điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng mở rộng sự tham gia
của các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư của nước ngoài. Các nguồn lực ngoài ngân
sách nhà nước đầu tư cho phát triển các đơn vị dịch vụ công lập và dịch vụ ngoài công
lập được tăng cường và đa dạng hóa.
15


Đẩy mạnh truyền thông, thông tin liên tục trong xã hội về chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, trong đó có các nội dung xã hội hoá dịch vụ công một cách
thường xuyên, sinh động, đa dạng và hiệu quả trên các phương tiện truyền thông.

PHẦN III. KẾT LUẬN

Xã hội hóa dịch vụ công ở nước ta đã mang lại nhiều thay đổi trong quá trình
cung ứng dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo thuận lợi hơn cho người dân khi
tiếp cận dịch vụ và giảm gánh nặng chi của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, quá trình
xã hội hóa mặc dù đã được triển khai hơn 20 năm nhưng vẫn diễn ra rất chậm, phần
lớn các dịch vụ công ở nước ta vẫn chủ yếu do các cơ quan nhà nước cung ứng. Mức

độ xã hội hóa diễn ra không đồng đều ở các ngành, lĩnh vực và giữa các vùng khác
nhau. Các cá nhân và tổ chức ngoài Nhà nước chỉ chú trọng đầu tư vào các khu vực
thuận lợi như các thành phố lớn, nơi đông dân cư và có thu nhập cao, ít quan tâm tới
các khu vực chậm phát triển. Mức độ xã hội hóa các dịch vụ công cũng chỉ tập trung
vào các ngành nghề có thể thu hồi vốn nhanh và dễ tạo ra lợi nhuận kinh tế.
Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh trong khu vực cũng như trên
thế giới. Do đó, chúng ta có điều kiện để đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ. Điều
cấp thiết nhất hiện nay trong các giải pháp đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa chính là bồi
dưỡng, đào tạo nhận thức đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cấp Phòng vì đó là
cấp sát nhất với các cá nhân và tổ chức ngoài Nhà nước. Các lãnh đạo, quản lý cấp
Phòng cần tăng cường tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều
kiện để các cá nhân và doanh nghiệp cùng tham gia chuối cung ứng dịch vụ công, đáp
ứng các nhu cầu của xã hội, giúp giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Với những kiến thức được học tập, nghiên cứu tại lớp bồi dưỡng lãnh đạo, quản
lý cấp Phòng bởi những giảng viên giàu kinh nghiệm của …………………………….,
cùng với quá trình thực tiễn, tôi đã nỗ lực thực hiện đề tài “Thực trạng và giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ lãnh đạo cấp phòng trong bối cảnh đẩy
mạnh xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ công” với mong muốn hoàn thành bài thu
hoạch ở mức tốt nhất. Tuy nhiên, do bản thân còn có những hạn chế nên bài thu hoạch
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của
quý thầy, cô để bài thu hoạch được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Anh Đức (2016), “Để chính sách phát triển nhà ở xã hội đi vào cuộc sống”,
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 08/2016.

2. Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã
hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao.
3. Tài liệu bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý cấp Phòng.

17



×