Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

đầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi) và nền kinh tế hùng mạnh của ailen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.93 KB, 34 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Niên khóa 2005 – 2006 Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 1 Biên dịch: Hải Đăng

9-706-007
NGÀY 26 THÁNG BẢY NĂM 2005
LAURA ALFARO, STEPHEN McINTYRE VÀ VINATI DEV
1

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
VÀ NỀN KINH TẾ HÙNG MẠNH CỦA AILEN
“The World’s Best Country (Các quốc gia tốt nhất trên thế giới)”
1

--- The Economist Intelligent Unit, 2005

Vào năm 1987, Ailen là thành viên nghèo nhất của Liên minh châu Âu (EU) và
đứng bên bờ vực vỡ nợ. Việc trả lãi nợ vay và nợ gốc chiếm đến 1/3 nguồn thu chính phủ
và sự can thiệp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dường như chẳng mấy chốc sẽ xảy ra. Tỷ
lệ thất nghiệp lên đến 17% và Tổng Sản phấm Quốc nội (GDP) bình quân đầu người chỉ
bằng 69% so với mức trung bình của EU.
2
Sự di dân xảy ra trên khắp đất nước và vì các
sinh viên đại học tốt nghiệp đổ xô chạy ra khỏi đất nước nhằm tìm kiếm việc làm lên đến
con số hàng ngàn, những triển vọng của Ailen cũng dường như biến mất đi cùng với họ.
Trong hơn một thập niên kế tiếp, Ailen đã trải qua một sự chuyển dịch kinh tế
đáng chú ý. Từ năm 1990 đến 2000, tăng trưởng GDP bình quân đạt 6,3% mà trong đó
tốc độ tăng trưởng cao nhất - gần 10% - trong giai đoạn từ 1995 đến 2000.


3
Cho đến lúc
đó, mức GDP bình quân đầu người của Ailen đã vượt mức của Anh và tỷ lệ thất nghiệp
giảm xuống chỉ còn 5%.
4
Thặng dư ngân sách đã trở thành định chuẩn và tất cả nợ quốc
gia đã trả hết và hàng ngàn người di cư nay đã trở về. Mức độ của sự phục hồi này là chưa
từng có tiền lệ trong thế giới các nước phát triển và đã giúp cho nền kinh tế Ailen có được
một biệt hiệu là Con Hổ Vùng Celtic.
Sự hồi sinh này đã tạo ra rất nhiều sự chú ý trên toàn thế giới. Các học giả, ký giả,
và chính trị gia đã tìm cách xác định một “viên đạn bạc” - một nguyên nhân cơ bản duy
nhất giải thích cho sự bùng nổ này. Một số chuyện gia qui sự tăng trưởng cho các sáng
kiến chính sách ví dụ như sự thương lượng tập thể hay những cải cách giáo dục, hoặc các
nhân tố ngoại sinh ví dụ như các khoản chuyển nhượng của EU và tỷ giá hối đoái có lợi.
Nhưng nhiều nguời tin rằng câu trả lời nằm ở Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI), mà đã
tăng mạnh xuyên suốt thập niên 1980, đạt mức trung bình trên 2,5 tỷ đô la Mỹ mỗi năm
trong suốt nửa sau của thập niên này.
5
(Xem Bảng 1a và Hình 1b biểu diễn dòng FDI
chảy vào Ailen). Cho đến năm 2002, tổng lượng FDI bình quân đầu người tại Ailen cao
thứ nhì trên thế giới (chỉ sau Hồng Công và gấp đôi mức trung bình của EU
6
).
Vào tháng Bảy năm 2003, Nhóm Chiến lược Doanh nghiệp (ESG), một cơ quan
độc lập gồm các viện sĩ và nhà kinh doanh hàng đầu, được chính phủ Ailen ủy thác để
làm báo cáo về tương lai của nền kinh tế nước này.
7
Báo cáo của cơ quan này kết luận
rằng FDI thực sự đóng một vai trò rất quan trọng:



1
Laura Alfaro, Trợ lý Nghiên cứu Vinati Dev và Stephen McIntyre (Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh, 2005) đã
chuẩn bị nghiên cứu điển hình này. Các nghiên cứu điển hình HBS chỉ được phát triển thành cơ sở cho thảo
luận trên lớp học. không có ý định dùng những trường hợp này như là sự xác nhận, nguồn dữ liệu sơ cấp, hay
các minh họa cho việc quản lý hiệu quả hay không hiệu quá.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 2 Biên dịch: Hải Đăng


Thành quả kinh tế của Ailen chủ yếu được tạo ra bởi một số tương đối
nhỏ các doanh nghiệp thuộc sở hữu nước ngoài, những người mà chọn Ailen làm
căn cứ để phục vụ cho thị trường châu Âu. Tác động của các công ty này đối với
nền kinh tế là rằng nó che dấu hiệu quả kinh tế nói chung là nghèo nàn của khu
vực kinh tế bản xứ, với ngoại lệ là một số nhỏ các công ty có hiệu quả cao.
8

Nhưng lúc đó, chi phí gia tăng, nạn thiếu hụt lao động, giá nhà tăng chóng mặt
9

đồng euro tăng giá đã xói mòn năng lực cạnh tranh của Ailen và đe dọa sự thành công
được thúc đẩy bởi xuất khẩu của nước này. Có những quan ngại rằng khi các áp lực về thị
trường lao động gia tăng, mức lương thực tế sẽ tăng nhanh hơn năng suất, qua đó làm
giảm lợi nhuận và sự khuyến khích đối với FDI. Điều dường như cũng có thể xảy ra là
rằng các ưu đãi về trợ cấp, mà một số người luận cứ rằng có vai trò cốt yếu trong việc thu
hút FDI, sẽ có thể bị cắt giảm đi hay bãi bỏ. Bởi vì nhiều vùng tại Ailen sẽ không còn

được xếp loại là vùng “Mục tiêu Một”, Liên minh châu Âu sẵn sàng cắt giảm đáng kể
mức viện trợ không hoàn lại và có hoàn lại mà Ailen có thể đề xuất.
10
Thêm nữa, trong
khi Ailen đã đồng ý duy trì một mức thế suất thuế doanh nghiệp thấp cho đến tận năm
2010 thì đã có những tin đồn rằng nước này sẽ không chống đỡ nổi áp lực của EU
11
nhằm
gia tăng thuế suất.
Vì vậy những thực tiễn mới này đã đặt ra các câu hỏi liệu Ailen có thể tiếp tục thu
hút đáng kể FDI như đã từng làm được trong quá khứ hay không? Nếu luận điểm của
ESG là đúng - sự tăng trưởng chủ yếu là do FDI – thì điều này sẽ làm thay đổi đáng kể
các phản ứng chính sách của Ailen và những nổ lực của các nước khác nhằm mô phỏng
Con Hổ Vùng Celtic. Tại sao nước này rất thành công trong việc thu hút FDI? Nhưng liệu
FDI có thực sự là động lực chính đằng sau sự bùng nổ này? Điều gì giải thích cho sự tăng
trưởng kinh tế? Và, quan trọng nhất là liệu sự bùng nổ này có thể duy trì được lâu?
Nền tảng Lịch sử
Nền Độc lập và cuộc Nội chiến
Ailen hiện đại ngày nay được hình thành vào năm 1921, khi sau một cuộc chiến
kéo dài 5 năm, Anh và Ailen ký kết một hiệp ước hoà bình chấm dứt gần tám thế kỷ nằm
duới quyền cai trị thuộc địa của Anh quốc. Hiệp ước này đại thể chia cắt hòn đảo này theo
yếu tố tôn giáo thành Nhà nước Ailen Tự do (Irish Free State), mà chủ yếu hình thành từ
dân số theo đạo Thiên chúa, và Bắc Ailen với phần lớn dân số theo đạo Tin lành, mà vẫn
là một phần của Liên hiệp Anh (xem Hình 2 về bản đồ Ailen). Theo hiệp ước này, Nhà
nước Ailen Tự do được yêu cầu phải tuyên thệ trung thành với Nữ hoàng. Những người
ủng hộ chế độ cộng hòa Ailen đã phản ứng dữ dội hiệp ước này và một cuộc nội chiến
đẫm máu đã xảy ra sau đó.
Vào năm 1923, các lực lượng ủng hộ hiệp ước đã chiến thắng trong cuộc chiến
nhưng Ailen đã trở thành một quốc gia bị tổn thương. Chính phủ mới kế thừa một cơ sở
hạ tầng cực kỳ kém phát triển; ngay cả các dịch vụ cơ bản như là điện và nước vẫn còn

thiếu. Tỷ lệ thất nghiệp và di cư là rất cao. Hơn nữa, đất nước này có một khu vực công
nghiệp chế tạo hầu như không hiện hữu. Mặc dù không phát triển, nhưng nền kinh tế
Ailen chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp và phụ thuộc rất lớn vào thương mại với Vương
quốc Anh. Ban đầu, Ailen theo đuổi một chính sách thương mại tự do, nhưng điều này đã
thay đổi khi nhà lãnh đạo của đảng chính trị Fianna Fáil, Eamon de Valera trở thành thủ
tướng vào năm 1932.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 3 Biên dịch: Hải Đăng


Sau khi chiến thắng với một cương lĩnh dân túy mà nhấn mạnh đến sự tự cung tự
cấp của quốc gia, chính phủ de Valera đã ban hành hai đạo luật mà đã trở thành biểu
tượng của chủ nghĩa dân tộc về kinh tế và ở một mức độ nào đó là về chính trị. Theo Đạo
luật Tài chính của năm 1932, mức thuế quan của Ailen đã cao gấp hai lần so với thuế
quan của Hoa Kỳ và cao hơn 50% so với mức thuế quan của Vương quốc Anh. Đạo luật
Kiểm soát hàng Chế tạo của năm 1932 đòi hỏi quyền sở hữu đa số của Ailen trong các
liên doanh sản xuất mới. Thị trường Wall Street sụp đổ và cuộc Đại Khủng hoảng đã gây
ra một sự hồi sinh trên toàn thế giới về chủ nghĩa bảo hộ vào thời điểm này và các chính
sách của de Valera đã nhận được sự ủng hộ rộng khắp. Trong một bài thuyết trình tại
Trường Cao đẳng Đại học Dublin, John Maynard Keynes đã nói, “Nếu tôi là một người
Ailen thì tôi sẽ tìm thấy rất nhiều điều hấp dẫn tôi trong quan điểm kinh tế hướng về sự tự
cung tự cấp của chính phủ hiện tại của đất nước các bạn.”
12

Thương mại và FDI
Chính phủ của de Valera đã hướng Ailen vào một đường lối chủ nghĩa dân tộc về

kinh tế. Nhưng cho đến những năm thập niên 1950, sự đình trệ về kinh tế của Ailen đã đặt
ra yêu cầu phải có sự thay đổi. Một chương trình nghị sự hướng về thị trường hơn bắt đầu
nhen nhóm trong nội bộ chính phủ, mà sau đó đã thông qua một số luật mới được thiết kế
nhằm thúc đẩy nền kinh tế. Đạo luật Tài chính năm 1956 đã đưa ra Biện pháp Giảm Thuế
đánh trên Lợi nhuận Xuất khẩu (EPTR). Biện pháp này cho phép miễn 50% thuế đối với
lợi nhuận có được từ hàng hóa chế tạo, và dự tính sẽ miễn 100% vào năm 1958.
13
Chính
phủ cũng gởi một thông điệp đến cộng đồng quốc tế rằng Ailen mở cửa cho hoạt động
kinh doanh; vào năm 1957, Ailen gia nhập Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF), và nới lỏng các hạn chế của Đạo luật Kiểm soát hàng Chế tạo.
Vào năm 1958, bộ trưởng bộ tài chính ủng hộ cho một sự dịch chuyển từ chủ
nghĩa bảo hộ sang thương mại tự do và đề xuất rằng chính phủ nên khuyến khích đầu tư
nước ngoài thông qua những sự nhượng bộ về thuế và các khoản trợ cấp mang tính khích
lệ. Kết quả là, từ năm 1962 đến 1964, Ailen đã đơn phương giảm thuế quan. Vào năm
1965, Hiệp định Thương mại Tự do Anh-Ailen đã được ký kết. Với hiệp định này, Ailen
hy vọng đạt được sự thương mại tự do của tất cả hàng hóa chế tác trước năm 1975. Có lẽ
quan trọng nhất là việc Ailen gia nhập Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT) vào năm 1967.
Các chương trình kinh tế mới của thập nhiên 1960 đã mang lại một sự phục hồi
nhất định cho Ailen (xem Bảng 3 về dữ liệu GDP, Bảng 4 về tài chính chính phủ và
Bảng 5 về dữ liệu cán cân thanh toán). Tốc độ tăng trưởng GDP vượt mức 4% hàng năm,
tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp và nghèo cao đã gây khó khăn cho phủ quốc gia này và hệ
thống giáo dục thì vẫn trong tình trạng hỗn độn. Một báo cáo năm 1965 về hệ thống giáo
dục của Ailen nêu bật tỷ lệ bỏ học cao và trình trạng đổ nát của nhiều trường học. Vào
năm 1968, bộ trưởng bộ giáo dục bãi bỏ học phí đối với giáo dục trung học, tăng độ tuổi
rời trường tối thiểu từ 14 lên 15, và bãi bỏ chứng chỉ tiểu học (một hình thức thi tuyển
sinh vào trường cấp hai). Ông ta cũng đảm bảo về pháp lý việc cung cấp điều kiện vệ sinh
và sưởi ấm thích hợp. Những thay đổi này đã có một tác động tức thời đến số lượng trẻ
em vào các trường trung học.

14

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 4 Biên dịch: Hải Đăng


Cơ quan Phát triển Công nghiệp
Cơ quan Phát triển Công nghiệp (IDA) được thành lập vào năm 1949 như là một
tổ chức của chính phủ nhằm xúc tiến đầu tư lớn hơn trên toàn Ailen.
15
Sau đó, trong thập
niên 1950 và 1960, khi việc chính phủ ủng hộ một chính sách công nghiệp với xuất khẩu
là trọng tâm ngày càng trở nên rõ ràng hơn thì IDA tự thấy mình ở trung tâm của môi
trường chính sách mới này. Với pháp chế thân thiện kinh doanh là nền tảng, IDA bắt đầu
thu hút đầu tư mới từ khắp nơi trên thế giới. Ray Mac Sharry, Bộ trưởng Bộ Tài chính
(1982, 1987-88) và Padriac White, Giám đốc Điều hành của IDA (1981-1990) thừa nhận
rằng, “EPTR đã trở thành khuyến khích đầu tư đặc biệt nhất của IDA, và theo thời gian
trở thành vũ khí hùng mạnh nhất của cơ quan này trong cuộc chiến về xúc tiến công
nghiệp quốc tế.”
16

IDA lẽ ra đã có “nhiều chiến thắng” trong thập niên 1960. Khi nhà sản xuất dược
phẩm khổng lồ Pfizer vào năm 1969 quyết định thành lập một nhà máy tại Cork, sự kiện
này được xem như một thành công lớn của IDA. Tuy nhiên, điều không rõ ràng là liệu
chính tự thân những nổ lực xúc tiến của IDA hay các mối liên hệ Ailen-Mỹ đã hấp dẫn
Pfizer đầu tư vào Ailen. Bản thân các quan chức của IDA thừa nhận rằng quyết định của

Pfizer thành lập một nhà máy tại Ailen chủ yếu là do những nổ lực của John Mulcahy,
một người mà đã di cư sang Mỹ trong suốt thời kỳ nội chiến tại Ailen, và vào thời điểm
mà công ty quyết định đầu tư vào Ailen là thành viên của Hội đồng Quản trị và nắm giữ
1/3 cổ phần của công ty.
Bất luận điều gì đã xảy ra thì cho đến giữa thập niên 1960, Ailen là một điểm đến
của rất nhiều công ty nước ngoài, bao gồm cả General Electric. Việc thu hút được các
công ty danh tiếng như vậy đã tạo cho những nổ lực của Ailen một sự tín nhiệm tức thì và
dường như có một sự kết hợp của nhiều nhân tố, bao gồm sự ủng hộ của chính phủ đối
với chiến lược công nghiệp hướng về xuất khẩu, những nổ lực xúc tiến của IDA và các
mối liên hệ kinh doanh Mỹ-Ailen đã cùng đồng thời phát huy hiệu quả. Qua hơn 10 năm
sau đó, đã có 450 công ty đã thương thảo các dự án mới hay mở rộng dự án cũ với IDA.
Tuy vậy, cũng trong cùng khoảng thời gian này (khi sự cạnh tranh từ Anh, Pháp và các
nước khác ngày càng mãnh liệt) IDA đã quan ngại rằng “Ailen đã không còn mặt trận xúc
tiến đầu tư mà tất cả chỉ dành cho riêng mình”
17

Không nản lòng, IDA theo đuổi một kế hoạch táo bạo nhằm định vị Ailen như là
một điểm đến có khả năng sinh lời cao nhất tại châu Âu. Chiến dịch tiếp thị trực tiếp của
IDA đã xác định các công ty hàng đầu hứa hẹn và IDA đến tiếp xúc trực tiếp các công ty
này để thuyết phục họ đến đầu tư tại Ailen. Trưởng bộ phận nghiên cứu và hoạch định
của IDA trong những năm đầu thập niên 1970 đã mô tả các tiêu chuẩn chọn lựa các công
ty như sau:
(1) Chọn những công ty đáp ứng các tiêu chuẩn kinh tế xã hội cơ bản như: không
quá thâm dụng vốn; hàm lượng lao động nam cao; sử dụng nguyên liệu và dịch vụ bản địa
cao; yếu tố qui mô nhỏ.
(2) Chọn những công ty mà có khả năng tạo ra những cơ hội tốt nhất cho sự ổn
định thương mại và vì vậy là sự ổn định kinh tế, có tính đến các tiêu chuẩn thương mại
như khả năng sinh lợi cao; tăng trường mạnh về cả yếu tố đầu ra lẫn thương mại quốc tế.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc

Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 5 Biên dịch: Hải Đăng


(3) Chọn những công ty có sự phụ thuộc lớn về nguồn nhân lực khan hiếm, ví dụ
như những người có kỹ năng, bởi vì điều này hàm ý một sự cam kết và ràng buộc lớn
hơn.
(4) Chọn những công ty mà có thể tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và vì
vậy cho phép chúng ta bảo vệ các nguồn tài nguyên khác.
18

Vào năm 1971, IDA thiết lập các nhóm đặc nhiệm và gởi những chuyên viên đến
các nước như Hoa Kỳ, Hà Lan và Thụy Điển để trình bày các kế hoạch đầu tư chi tiết cho
các công ty. IDA cũng dự báo lợi nhuận để chứng tỏ cho các công ty thấy rằng có thể ăn
nên làm ra từ việc đầu tư sản xuất ở Ailen. Trong năm đầu tư, các chuyên viên của IDA
đã trình bày cho 105 công ty. Cho đến năm 1973, các nhóm đặc nhiệm này đã thực hiện
2.600 lần giới thiệu đến các công ty trên toàn thế giới. Đến giữa thập niên 1970, những nổ
lực của IDA và các hứa hẹn của thị trường chung đã mang các công ty như Gillette-
Braun, Digital, Cross Pens, Baxter Travenol, Syntex, Merck Sharpe và Warner Lambert
đến đầu tư tại Ailen.
Thập niên 1970 đầy biến động
Với việc gia nhập vào EU sắp đến như là nền tảng, Ailen đã đón chào thập niên
1970 với tinh thần lạc quan khi nước này lường trước việc tiếp cận được thị trường lớn
hơn nhiều của EU. Thật vậy, với một nước cờ về pháp luật, Ailen đã có thể hứa hẹn các
nhà đầu tư ngoại quốc về một thị trường hơn 200 triệu người là EU chứ không chỉ là thị
trường nhỏ bé 3,6 triệu người của Ailen.
Tuy nhiên, năm mà Ailen chính thức được công nhận tư cách thành viên của EU
cũng là năm xảy ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào tháng Mười năm 1973. Ailen, nước

phải nhập khẩu trên 70% nhu cầu năng lượng cơ bản của mình, đã bị quẳng vào tình trạng
hỗn loạn. Hơn nữa, một sự chuyển đổi cơ cấu trong nền kinh tế đã chuyển sự tăng trưởng
sản xuất từ các ngành công nghiệp truyền thống bản địa sang các ngành công nghiệp hiện
đại hướng về xuất khẩu mà đa phần thuộc sở hữu nước ngoài. Các công ty ngoại quốc
chiếm chưa đến 1/3 tổng lao động công nghiệp vào năm 1973 và đơn giản là không có
khả năng bù đắp cho tổn thất việc làm mà ngành công nghiệp bản địa phải hứng chịu.
19

Chính phủ Ailen hiện phải đối mặt với một tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng tại
nước nhà và giá dầu mỏ tăng gấp bốn lần trên thị trường quốc tế. Để ngăn chặn mức sống
đang giảm sút, liên minh Fine Gael-Lao động đã phát động một chương trình tham vọng
về chi tiêu công đi kèm với những sự cắt giảm thuế quan trọng. Sự mở rộng khu vực công
này được tài trợ thông qua việc đi vay. Tổng chi tiêu cho phúc lợi xã hội tăng từ mức
6,5% của Tổng Sản phẩm Quốc gia (GNP) vào năm 1973 lên 10,5% vào năm 1977.
(Xem Bảng 4 về tài chính chính phủ). Vào năm 1977, chính phủ cũ bị hất cẳng trong
cuộc tổng tuyển cử và Fianna Fail trở lại nắm quyền lực. Chính phủ mới kế thừa một
khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ, nhưng vẫn tiếp tục xu hướng chi tiêu thâm hụt. Để
giữ lời với cương lĩnh tranh cử của mình, chính phủ mới bắt buộc phải tăng chi tiêu công
để giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp và tài trợ cho chương trình này bằng việc gia tăng vay
mượn.
Cho đến thập niên 1970, IDA đã thu hút được một lượng đầu tư nước ngoài lớn
chưa từng có tiền lệ nhưng tỷ lệ thất nghiệp dai dẳng đã làm nảy sinh nghi vấn về sự
thành công trong chính sách công nghiệp của Ailen. Và để làm cho vấn đề này thêm phần
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 6 Biên dịch: Hải Đăng



trầm trọng thì cuộc khủng hoảng dầu mỏ trong thập niên 1970 đã ảnh hưởng mạnh đến
Ailen, kéo đất nước này chìm sâu vào một cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc.
Câu hỏi về Chính sách Công nghiệp – Liệu FDI có tác dụng không?
Mặc dù có sự hỗn loạn kinh tế vào giữa và cuối thập niên 1970, FDI vẫn tiếp tục
tăng trưởng. Tuy nhiên, IDA đã phải chịu đựng những lời chỉ trích liên tục rằng chiến
lược đầu tư nước ngoài mà tổ chức này chỉ đạo đã không đủ mạnh để có thể vực dậy nền
kinh tế Ailen. Những nhà phê bình tự hỏi rằng liệu các nhà đầu tư nước ngoài có biện hộ
được cho sự đối xử đặc biệt mà họ nhận được không, khi lưu ý rằng mặc dù có sự tăng
trưởng mạnh trong các ngành sản xuất dược phẩm và hàng điện tử thì sự thành công của
khu vực nước ngoài không lan tỏa xuống phần còn lại của nền kinh tế. Họ cũng buộc tội
rằng những mối liên kết với các chi nhánh nước ngoài và ngành công nghiệp địa phương
là hết sức hạn chế. (Xem Bảng 6 về các mối liên kết của các công ty nước ngoài trong
ngành công nghiệp chế tạo). Như nhà lịch sử J.J. Lee đã từng viết, “nền công nghiệp bản
địa khước từ sự tăng trưởng”
20
Thật vậy, khi Ailen gia nhập Công đồng Kinh tế châu Âu
vào năm 1973 (sau này đổi tên thành Liên minh châu Âu vào năm 1993), những sự cắt
giảm thuế quan đã đặt nền công nghiệp Ailen vào một sự cạnh tranh chưa từng có tiền lệ,
mà đã gây ra một sự thất bại rộng khắp của các doanh nghiệp bản địa.
Làn sóng chỉ trích rốt cuộc khiến cho Hội đồng Kinh tế Xã hội Quốc gia phải ủy
thác ủy ban điều tra Telesis để xem xét lại chính sách công nghiệp của Ailen. Báo cáo
năm 1982 là không lạc quan:
Các hoạt động công nghiệp do nước ngoài sở hữu tại Ailen với một số ít
ngoại lệ không biểu hiện những lĩnh vực hoạt động then chốt có khả năng cạnh
tranh mà các công ty này tham gia vào; không sử dụng nhiều lao động có tay
nghề; và không hội nhập một cách đáng kể với các ngành công nghiệp cung ứng
phụ có kỹ năng và có thể trao đổi thương mại tại Ailen.
21


Báo cáo này cũng thẳng thừng nêu rõ rằng chiến lược xúc tiến đầu tư nước ngoài
của IDA là không thành công như “sự tuyên truyền hàm ý” của tổ chức này”.
22
Trái lại,
báo cáo này buộc tội rằng sự hỗ trợ dành cho các công ty nước ngoài nói chung, và trong
ngành công nghiệp điện tử nói riêng, là quá nhiều. Để làm bằng chứng cho sự luận tội của
mình, bản báo cáo lưu ý rằng chỉ có khoảng 30% số công ăn việc làm mà IDA từng công
bố là thật sự được hiện thực hóa và các việc làm do các ngành công nghiệp nước ngoài
tạo ra là không đủ bù đắp cho các công ăn việc làm mất đi trong các ngành truyền thống
của Ailen. Các tác giả tiếp tục luận cứ rằng không có quốc gia nào thành công trong việc
đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững mà không có một ngành công nghiệp bản địa
vững mạnh và để cho điều này xảy ra thì các nhà chức trách Ailen phải nhấn mạnh rằng
những công ty nước ngoài phải thiết lập các hoạt động nghiên cứu và phát triển tại Ailen
và ưu đãi cho các nhà cung cấp phụ của địa phương.
Báo cáo này không hoàn toàn đổ lỗi cho các công ty đa quốc gia (MNC) về sự
thiếu hội nhập, nhưng khẳng định rằng các MNC không có chọn lựa nào khác ngoài việc
ký hợp đồng cung ứng với các công ty hải ngoại vì những nhà cung ứng bản địa thiếu
kiến thức chuyên môn về các ngành kỹ thuật và cơ khí quan trọng.
23
Cụ thể là bản báo
cáo kêu gọi Ailen phải thực thi việc “nâng tỷ lệ ngân quỹ phân bổ cho các công ty xuất
khẩu hay cung ứng có kỹ năng của bản địa từ mức thấp hơn 40%...lên 50% vào năm 1985
và 75% vào năm 1990.”
24

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen


Laura Alfaro và cộng sự 7 Biên dịch: Hải Đăng


Bản báo cáo kiến nghị rằng chính phủ Ailen nên chọn từ 50 đến 75 “người chiến
thắng” – các công ty Ailen mà có sự quản lý được cho là đã đạt chất lượng hàng đầu – và
hỗ trợ cho các công ty này trở nên có thể cạnh tranh được trên trường quốc tế.
25
Bản báo
cáo đề xuất rằng các công ty yếu hơn nên sử dụng các kỹ năng của họ hướng đến hoạt
động định hướng xuất khẩu với sự hỗ trợ tiền của từ IDA.
26
Cuối cùng, trong điều mà có
vẻ như là đòn tấn công trực tiếp vào IDA, Báo cáo Telesis khẳng định rằng nổ lực phát
triển để tạo ra ngành công nghiệp địa phương “phải đuợc tái tổ chức để nhấn mạnh đến
việc xây dựng các doanh nghiệp Ailen vững mạnh về mặt cơ cấu hơn là các tổ chức mạnh
để hỗ trợ cho các công ty yếu ớt.”
27

IDA tranh luận về sự buộc tội của IDA rằng những khuyến khích và hỗ trợ cho
công ty nước ngoài của Ailen là quá nhiều. IDA chỉ ra việc đến Ailen đầu tư của các công
ty lớn hàng đầu như Apple, Bausch & Lomb và Fujitsu vào năm 1980
28
như là bằng
chứng cho thấy rằng chiến lược của mình là có tác dụng và đổ lỗi sự quản lý kinh tế tồi
của chính phủ, đặc biệt là tốc độ lạm phát cao, là nguyên nhân gây ra sự suy yếu các thị
trường.
Bất kể đâu nguyên nhân là gi đi nữa thì một nhà lịch sử lưu ý rằng các nổ lực
nhằm xây dựng nên công nghiệp của Ailen đã thất bại thảm hại:
Sáu mươi năm sau độc lập, năm mươi năm sau sự bảo hộ hoàn toàn…,
mưởi lăm năm sau Hiệp định Thương mại Tự do Anh-Ailen, tám năm sau khi gia

nhập Liên minh châu Âu, một bộ khung doanh nghiệp bản địa có chất lượng đáp
ứng yêu cầu đã không thể nổi lên được. Nền công nghiệp do Ailen sở hữu không
thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thậm chí nó còn không thể cạnh tranh trên
thị trường nội địa. Cả cây gậy lẫn củ cà rốt, cả thương mại tự do lẫn bảo hộ đều
không đủ để tạo ra một nền công nghiệp bản địa có khả năng cạnh tranh.
29

Thập niên tám mươi: Khủng hoảng và Thay đổi
Nhiều năm chi tiêu quá mức của chính phủ và tỷ lệ thất nghiệp cao đã khiến nền
kinh tế Ailen phải trả giá. Cho đến năm 1982, thâm hụt ngân sách ở mức 13,2% GDP và
thâm hụt cán cân thanh toán lên đến mức kỷ lục 14,6% GNP. Vào năm 1983, khi doanh
nghiệp Black & Decker và công ty Telectron thuộc sở hữu của tập đoàn AT&T tuyên bố
đóng cửa trong cùng một ngày, thì dường như là ngay cả khu vực nuớc ngoài, mà đến lúc
đó vẫn tỏ ra có thể chống chọi được với cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô, rốt cuộc cũng
phải chào thua.
30

Cho đến năm 1987, Ailen mắc nợ nặng nề và ở bên bờ vực sụp đổ kinh tế. Tỷ lệ
nợ so với GDP lên đến 12,2%, thâm hụt ngân sách phình ra lên đến 12% GNP và tỷ lệ
thất nghiệp ở mức trên 17%.
31
Chính phủ thực hiện các cải cách rộng khắp, cắt giảm chi
tiêu chính phủ trong nổ lực giảm khoản nợ 12 tỷ bảng Ailen (1 bảng Ailen = 1,27 euro).
Thủ tướng Ailen giải thích:
Chúng tôi bắt buộc phải thực thi nhiều hơn nữa sự tiến bộ mà chúng tôi
đã đạt được cho đến nay trong năm nhằm đưa chi tiêu công nằm trong tầm kiểm
soát. Nếu chúng tôi không đạt được những sự cắt giảm quan trọng nhiều hơn nữa
về chi tiêu thì sự tăng trưởng nợ khu vực công sẽ tiếp tục là một gánh nặng cho
nền kinh tế, làm hạn chế tăng trưởng kinh tế và việc làm, và làm cho chúng tôi
không thể thực hiện được sự phát triển đúng hướng.

32

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 8 Biên dịch: Hải Đăng


Các chủ doanh nghiệp, nông dân và các nghiệp đoàn tất cả đã chấp nhận kịch bản
kinh tế ảm đạm và nhận thức được nhu cầu về các biện pháp khắc khổ trong ngắn hạn.
Chính phủ tận dụng toàn bộ cơ hội của môi trường mới này và thúc đẩy các mối cộng tác
xã hội
2
giữa khu vực kinh tế và chính trị. Quan ngại rằng những biện pháp này sẽ gây ra
sự tổn thuơng đáng kể cho các nghiệp đoàn và thành viên của mình, chính phủ đã thực thi
cải cách thuế như là một lợi ích bù đắp. Trong năm 1987, Chương trình Phục hồi Quốc
gia (PNR) - được biết đến như là một chương trình cộng tác xã hội - được hình thành. Đổi
lại sự cắt giảm thuế là việc giới hạn tiền lương chi trả. Người ta hy vọng kết quả ròng sẽ
là một sự gia tăng thật sự trong tiền luơng mang về nhà trả cho công nhân và giảm bớt tỷ
lệ thất nghiệp được tạo ra từ việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiệp định này cũng hứa
hẹn rằng phúc lợi sẽ không phải chịu gánh nặng cắt giảm ngân sách bất cân xứng. Trước
năm 1987, những lợi thế về năng suất giữa các công ty sở hữu nước ngoài đã thúc đẩy sự
gia tăng tiền lương, mà sau đó lan toả đến các ngành công nghiệp bản địa. PNR duy trì xu
hướng này và cho phép các công ty bản địa thực hiện việc tăng tiền lương theo sự tăng
trưởng năng suất chậm hơn của họ.
IDA được quyết định là sẽ đóng góp một phần vai trò trong sự hồi phục kinh tế.
Tổ chức này tận dụng PNR bằng cách thiết lập một chương trình được thiết kế nhằm thu
hút các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ thâm dụng lao động đến Ailen. IDA cũng sử dụng

một chiến dịch quảng cáo mới nhằm tái định vị Ailen: tổ chức này giới thiệu Ailen với
khẩu hiệu “Chúng tôi là những người châu Âu trẻ trung” khi lưu ý rằng Ailen có dân số
trẻ nhất tại châu Âu.
33
IDA cũng chuyển trọng tâm của mình từ các ưu đãi về thuế và tài
chính sang lực lượng lao động có học thức và tư cách thành viên của Liên minh châu Âu.
Kết quả của những nổ lực này là IDA đã thu hút được một số các công ty mới đến đầu tư
tại Ailen, bao gồm cả Motorola, Teradata, Stratus, EDS và Sandoz.
Với việc lập lại trật tự trong chi tiêu ngân sách và sự tương đối ổn định về kinh tế
vĩ mô như là nền tảng, những lợi ích từ tư cách thành viên EU bắt đầu giảm xuống. Công
cụ chủ yếu của EU trong việc hỗ trợ quá trình tái co cấu kinh tế và xã hội xuyên suốt liên
minh này là Đạo luật châu Âu Duy nhất (SEA) năm 1986. Thông qua đạo luật này, EU
thực hiện những khoản chuyển nhượng trực tiếp cho Ailen, qua đó cung cấp các khoản
trợ giá cho nông nghiệp và giải ngân các quỹ cơ cấu được sử dụng cho phát triển cơ sở hạ
tầng. Số tiền ròng hàng năm mà Ailen nhận được từ EU lên đến khoảng 6% GDP trong
giai đoạn từ giữa thập niên 1980 đến giữa thập niên 1990, trong đó khoảng 2/3 có liên
quan đến nông nghiệp và 1/3 liên quan đến cơ cấu.
34
Mặc dù những con số tuyệt đối là
khá cao, nhưng người ta ước tính rằng các khoản chuyển nhượng này chỉ đóng góp chưa
đến 3% mỗi năm cho tốc độ tăng trưởng GDP của Aile trong thập niên 1990.
35

Thập niên 1990: Sự nổi lên của con Hổ vùng Celtic
Cho đến năm 1990, tốc độ tăng trưởng GDP của Ailen đạt đến 8,5% và kim ngạch
xuất khẩu của nước này tăng 23,5% từ năm 1985 đến 1990. Khả năng cạnh tranh trên thị
trường xuất khẩu của Ailen đã được cải thiện bởi tỷ giá hối đoái có lợi trong suốt những
năm cuối thập niên 1980 cho đến thập niên 1990. Một sự phá giá 10% đồng bản tệ vào
năm 1986, cùng với sức mạnh của đồng đô la Mỹ và bảng Anh vào cuối thập niên này, đã



2
Có nhiều định nghĩa khác nhau về sự cộng tác xã hội. Trong phạm vi bài viết này, sự cộng tác xã hội đuợc
hiểu là những thỏa ước cùng có lợi giữa nhà nước, doanh nghiệp và nghiệp đoàn (và có thể có thêm các tổ
chức khác) với mục đích tạo ra một thị trường lao động toàn dụng. (Chú giải của dịch giả)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 9 Biên dịch: Hải Đăng


gia tăng thêm khả năng cạnh tranh của Ailen. Vào năm 1996, chính phủ Ailen bãi bỏ học
phí đại học trong một nổ lực cải thiện hơn nữa chất lượng của lực lượng lao động.
Thập niên 1990 là thời điểm đầy hứa hẹn đối với Ailen. Được thúc đẩy một phần
bởi sự bùng nổ công nghệ thông tin (IT) của Hoa Kỳ và việc hình thành Thị trường
Chung châu Âu vào năm 1992, nền kinh tế Ailen đã tăng trưởng nhanh chóng và thu hút
các khoản đầu tư nước ngoài lớn chưa từng có. Hơn nữa, kỷ luật ngân sách và những cải
cách, được đặt ra theo tiêu chuẩn Maastricht vào năm 1992, đã tạo ra các khoản thâm hụt
ngân sách và tỷ lệ nợ so với GDP thấp hơn. Cuối cùng, một sự nâng giá đồng bảng Ailen
khi gia nhập vào Hệ thống Tiền tệ châu Âu (EMS) đã làm cho khu vực xuất khẩu của
Ailen có khả năng cạnh tranh cao hơn.
IDA, quan ngại rằng các áp lực của EU trong việc gia tăng thuế, đã bắt đầu vận
động hành lang chính phủ để gia hạn mức thuế suất. IDA đã thực hiện các nghiên cứu qua
đó chứng minh rằng mức thuế suất thấp 10% trong ngành công nghiệp chế tạo là rất quan
trọng đối với Ailen để nước này có thể giữ được khả năng cạnh tranh so với các nước
châu Âu khác. Vào năm 1990, chính phủ Ailen gia hạn mức thuế suất 10% cho đến năm
2010.
Sự kết hợp giữa thuế doanh nghiệp thấp và việc tiếp cận đã có đến thị trường châu

Âu đã làm cho Ailen trở thành một chọn lựa hấp dẫn.
36
Các ngành công nghiệp có tỷ suất
lợi nhuận hoạt động cao, như công nghiệp dược phẩm, đặc biệt bị thu hút bởi môi trường
thuế thấp. Nhiều nước EU đã phê phán chính sách thuế doanh nghiệp của Ailen, đặc biệt
khi Ailen bắt đầu giành được những tỷ lệ khá lớn từ FDI của Hoa Kỳ. Một số người tin
rằng một cuộc chạy đua cắt giảm thuế quan sẽ phát triển tại châu Âu, mà những sự cắt
giảm thuế thay thế cho việc phá giá tiền tệ như là công cụ cạnh tranh. Nhưng Kieran
McGowan, giám đốc điều hành của IDA từ năm 1989 đến 1999 đã mô tả những vấn đề
mà các nước khác sẽ phải đối mặt nếu họ giảm thuế doanh nghiệp xuống bằng mức thuế
tại Ailen: “Họ thấy rằng thật khó bắt chước chính sách thuế của chúng ta bởi vì họ phải
bắt đầu với một dòng nguồn thu thuế doanh nghiệp rất lớn. Tại Ailen, chúng ta không có
khu vực doanh nghiệp và vì vậy chúng ta không có gì để mất.”
37

Trong cùng thời điểm, các công ty nước ngoài bắt đầu mở các nhà máy tại Ailen,
phần lớn nhờ vào khả năng xác định và thu hút các công ty mục tiêu của Ailen (xem
Bảng 7a về một cuộc điều tra tác động kinh tế của các công ty do IDA hỗ trợ, Bảng 7b
về nước xuất xứ của các công ty này và Hình 7c về các văn phòng khu vực của IDA).
Các nhân viên quốc tế dùng phần lớn thời gian tiến hành và phát triển các cuộc tiếp xúc
cấp cao với những công ty mục tiêu và IDA sử dụng đội ngũ nhân viên lưu động của
mình để thu thập thông tin tình báo về các xu hướng thị trường. Hội nghị hàng năm của
IDA là một sự kiện quan trọng cho việc đúc kết và thống nhất những sự phản hồi và xác
định các xu hướng và kiểu hình mới. Sự hiện diện của nhà sản xuất máy tính khổng lồ
Intel vào năm 1990 là một thành công to lớn của Ailen nói chung và IDA nói riêng, và là
ví dụ điển hình cho sự kiên trì và sáng tạo của IDA. Trước hết tổ chức này tiếp xúc với
các nhà điều hành của Intel vào cuối thập niên 1970 và nuôi dưỡng mối quan hệ này trong
hơn một thập niên cho đến khi các điều kiện trở nên thích hợp hơn cho việc đầu tư. IDA
đề nghị với Intel một gói trợ cấp 157 triệu USD trải đều trong 10 năm. Nhưng Intel quan
ngại đến sự thiếu vắng nguồn cung ứng đủ các kỹ sư có kinh nghiệm. IDA đã vạch ra một

kế hoạch nhằm giải quyết mối quan ngại của Intel: McGowan lập ra một danh sách các kỹ
sư Ailen đang làm việc trong ngành bán dẫn chủ yếu tại Hoa Kỳ, những người sẵn sàng
quay trở lại làm việc tại Ailen. Như McGowan đã viết, “Chúng tôi trình lên Intel một
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 10 Biên dịch: Hải Đăng


cuốn sổ với tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại của 85 người. Và tôi nghĩ rằng điều này đã
gây ấn tượng với họ.”
38
Nổ lực hết mình đã được tuởng thưởng và Intel đã chọn Ailen
thay vì Xcôtlen làm địa điểm cho cả nhà máy sản xuất hệ thống máy tính lẫn bán dẫn của
mình. Tại IDA, năm 1989, năm mà Intel công bố quyết định đầu tư tại Ailen, về sau được
biết đến như là “năm của Intel.”
39
Cho đến năm 2004, Intel đã sử dụng xấp xỉ 5.000 người
tại Ailen.
Trong vòng một vài năm tới, hầu như mọi công ty máy tính lớn đều đến Ailen:
Dell, Gateway, Hewlett Packard và IBM tất cả đều bắt đầu sản xuất tại Ailen. Tỷ phần
dòng FDI vào EU của Ailen đã tăng ba lần trong một thời gian ngắn từ năm 1991 đến
năm 1994 khi nước này thu hút khoảng 40% khoản đầu tư vào ngành điện tử của Hoa Kỳ
tại châu Âu.
40
Như Michael Dell, người sáng lập ra công ty máy tính Dell, giải thích trong
một bài viết trên báo, “Điều gì hấp dẫn chúng tôi? [Một] lực lượng lao động có trình độ
học vấn cao và các trường đại học tốt gần đó. [Ngoài ra,] Ailen có một chính sách công

nghiệp và thuế mà hỗ trợ rất nhất quán cho hoạt động kinh doanh, bất kể đảng phái chính
trị nào đang nắm quyền. Tôi tin tưởng điều này bởi vì có không ít người còn nhớ đến
những thời điểm hết sức tồi tệ của việc phi chính trị hóa sự phát triển kinh tế. [Ailen cũng
có] một mạng lưới giao thông và hậu cần rất tốt và một vị trí tốt - dễ dàng chuyển sản
phẩm sang các thị trường lớn tại châu Âu một cách nhanh chóng.”
41

IDA cũng chịu trách nhiệm trong việc nhận thức tiềm năng của Ailen như là một
tổng đài thông tin trong sứ mệnh thu thập thông tin tình báo hải ngoại vào đầu thập niên
1990. IDA thương lượng với công ty điện thoại quốc gia một giao dịch nhằm có được sự
cắt giảm cước phí gọi quốc tế để đổi lại sự gia tăng khối lượng cuộc gọi và IDA lập ra
một danh sách những người làm việc có thể nói được nhiều thứ tiếng nhằm chứng tỏ rằng
mình có đủ nguồn cung lao động thích hợp.
42
Ailen đã xây dựng trên cơ sở lợi thế của
người đi đầu và trở thành địa điểm lựa chọn cho các trung tâm tiếp xúc khách hàng liên
châu Âu.

Vai trò của FDI: cuộc Tranh luận

Dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào khổng lồ đã là một cú sốc tích cực
quan trọng ảnh hưởng đến nền kinh tế trong thập niên 1990… Tỷ phần của Ailen
trong tổng dòng vốn đầu tư chảy vào Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD) đã tăng mạnh trong thập niên 1990, đạt đến mức lớn hơn rất nhiều tỷ
phần GDP của Ailen trong khối này.
- OECD, Economic Survey (Điều tra Kinh tế), 1999.
Cho đến những năm đầu thập niên 1990, sự thành công của khu vực nước ngoài là
hiển nhiên và người ta ngày càng chấp nhận rộng rãi rằng sự gia tăng đáng kinh ngạc
trong xuất khẩu của Ailen hầu như đến từ các công ty nước ngoài có định hướng xuất
khẩu táo bạo. Mặt khác, một điều cũng rất rõ là xuất khẩu bản địa vẫn dậm chân tại chổ

nếu xét về mặt giá trị thực (đã khử lạm phát) và rằng nền kinh tế nội địa nhìn chung là tụt
hậu. Những nhà phê bình đổ lỗi cho chính sách xem FDI là chủ đạo dẫn dắt phải chịu
trách nhiệm về sự thay đổi này và đưa ra nhiều số liệu thống kê để minh chứng cho sự
buộc tội của mình. Đáng lưu ý nhất là có một tỷ lệ thất nghiệp cao mà biến thiên từ 14%
đến 16% xuyên suốt những năm đầu của thập niên 1990.
43
Một số khác thì khẳng định
rằng đây là một thứ phẩm của hiện tượng “thất nghiệp-tăng trưởng” mà đi kèm cùng với
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 11 Biên dịch: Hải Đăng


chính sách xem FDI là chủ đạo. Họ cũng chỉ ra khoảng cách chênh lệch lớn giữa GDP và
GNP,
44
mà họ lập luận, chứng tỏ cho thấy các công ty nước ngoài đã xuất khẩu lợi nhuận.
Như là bằng chứng thêm nữa về sự thiếu hụt các mối liên kết giữa các doanh nghiệp nội
địa và nước ngoài, các nhà phê bình này chỉ ra rằng tỷ phần đầu tư trong thu nhập quốc
dân Ailen đã giảm đáng kể trong những năm đầu thập niên 1990.
Vì vậy, trong khi một mặt ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng FDI đã
đóng một vai trò rất quan trọng trong sự tăng trưởng của Con Hổ Vùng Celtic thì người ta
cũng ngày càng thừa nhận rằng khu vực nước ngoài có rất ít mối liên hệ với hoạt động
kinh doanh của địa phương và rằng chính sách tập trung vào FDI đã mang lại ít thành tựu
xét về mặt tạo ra một nền kinh tế nội địa mạnh mẽ. Để phản ứng lại sự chỉ trích ngày càng
tăng lên này, chính phủ Ailen đã tách IDA thành hai thực thể vào năm 1994. IDA Ireland
(IDA Ailen) tiếp tục chú trọng vào việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi

Enterprise Ireland (Doanh nghiệp Ailen) tập trung nguồn lực của mình vào việc phát triển
các ngành công nghiệp bản địa. Cả hai tổ chức này đều báo cáo lên Forfás, ủy ban cố vấn
và chính sách quốc gia, một tổ chức trung ương mà thông qua đó quyền lực được ủy thác
cho IDA Ailen và Doanh nghiệp Ailen.
Vào năm 1998, Doanh nghiệp Ailen phát động Chương trình Liên kết Quốc gia
(NLP).
45
Trong chương trình này, các đại diện của NLP sẽ xác định các nhu cầu về hợp
đồng gia công của công ty nước ngoài và tìm cho họ nhà cung ứng tiềm năng phù hợp.
Tuy nhiên, khi điều trở nên ngày càng rõ ràng là những nhà cung ứng địa phương đơn
giản là không thể đáp ứng các tiêu chuẩn nước ngoài thì trọng tâm của NLP chuyển sang
vai trò xây dựng năng lực. Mặc cho những nổ lực tột bật của NLP thì các cuộc điều tra
đánh giá chương trình này kết luận rằng chỉ đạt được một mức tối đa khoảng 20% việc
mua nguyên liệu từ nội địa Ailen. Hơn nữa, các cuộc điều tra này cũng nói lên rằng khó
có khả năng để mức trần này có thể bị phá vỡ, nếu xét đến sự bất lực của các nhà cung ứg
nội địa trong việc sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ cho khu vực công nghệ tinh vi.
Chương trình bị loại bỏ vào cuối thập niên này, qua đó ủng hộ lập luận của một số nhà
quan sát, những người nghi ngờ về lợi ích dài hạn của sự tăng trưởng do FDI tạo ra. Như
Sean Dorgan, Giám đốc Điều hành của IDA lưu ý, “Có lẽ trong quá khứ chúng ta đã tập
trung quá công khai vào việc tạo ra các mối liên kết. Có một thái độ của chủ nghĩa bảo hộ
về vấn đề này”. Các mối liên kết thì khó có thể đo lường được nhưng IDA đã sử dụng
chúng như là biến đại diện cho chi tiêu trực tiếp của các công ty nước ngoài trong nền
kinh tế.
46
Cuộc tranh luận về vấn đề các mối liên kết, mà đã là trọng tâm của chính sách
FDI tại Ailen, đặc biệt gây cấn bởi vì một số người tin rằng chỉ riêng các mối liên kết có
thể thúc đẩy tăng trưởng việc làm và sự phát triển của nền công nghiệp cung ứng phụ nội
địa. Nhưng một số nghiên cứu kết luận rằng các công ty nước ngoài có xu hướng có các
mối liên kết thấp hơn là các doanh nghiệp nội địa và rằng có những khác biệt giữa các
khu vực/ngành về mức độ các mối liên kết tạo ra.

47

Các học giả phân tích sự tương tác giữa các công ty nước ngoài và nội địa xác
nhận rằng, thật ra có ít “sự cạnh tranh sản phẩm-thị trường” giữa hai đối tượng này. Họ
lập luận nguyên nhân đằng sau việc này nằm ở nước xuất xứ và cơ cấu khác biệt của các
công ty nước ngoài và nội địa. Các công ty nước ngoài tập trung chủ yếu vào những thị
trường xuất khẩu ngoài Anh quốc và 80% lượng hàng xuất khẩu của họ đến từ các ngành
hóa chất và dược phẩm; các doanh nghiệp trong nước trái lại tiếp tục xuất khẩu phần lớn
đến thị trường nước Anh, và chỉ có 10% hàng xuất khẩu của họ là đến từ các ngành hóa
chất và dược phẩm.
48
Trong khi câu hỏi về các mối liên kết tiếp tục được tranh luận trong
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 12 Biên dịch: Hải Đăng


các vòng chính sách của Ailen thì đến giữa thập niên 1990, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống
dường như ủng hộ cho những người ủng hộ FDI. Vào năm 1998, số liệu thống kê cho
thấy rằng các công ty thuộc sở hữu nước ngoài thuê muớn 47% lực lượng lao động công
nghiệp (tạo ra 82% sản lượng công nghiệp) và khoảng 75% lượng FDI này đến từ Hoa
Kỳ. Hơn nữa, dữ liệu cũng cho thấy các chi nhánh nước ngoài của Hoa Kỳ tạo ra 16,5%
GDP của Ailen.
49

Với dữ liệu việc làm mới như là một cách thức khác đo lường sự thành công,
những người ủng hộ FDI tiếp tục nhấn mạnh đến tác động tích cực của các công ty nước

ngoài đến nền kinh tế Ailen. Trong số nhiều lợi ích khác, những người ủng hộ chỉ ra rằng
FDI đã mang lại nguồn thu thuế doanh nghiệp đáng kể và khoản thu thuế bổ sung từ thuế
thu nhập cũng như các loại thuế gián thu khác.
50
Họ cũng cho thấy rằng với qui mô nhỏ
của nền kinh tế Ailen thì ngay cả việc một công ty đa quốc gia (MNC) đưa ra thị trường
chỉ một sản phẩm mới duy nhất cũng sẽ có ảnh hưởng tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế;
ví dụ khi Pfizer đưa ra thị trường dược phẩm Viagra sản xuất tại Ailen thì sản lượng các
sản phẩm hóa chất hữu cơ của nước này tăng lên đến 70%.
51

Dữ liệu kinh tế vĩ mô cũng ủng hộ cho những nhận định này. Từ năm 1995 đến
1999, các MNC trực tiếp chiếm đến 85% sự tăng trưởng kinh tế,
52
mặc dù sự tăng trưởng
này tập trung phần lớn vào ba ngành công nghiệp chế tạo chính – hóa chất, máy tính và
cơ khí điện (xem Bảng 8 về dữ liệu sở hữu và sản lượng công nghiệp chế tạo). Hơn nữa,
vào cuối thập niên 1990, Ailen đã thu hút tất cả các tên tuổi lớn trong ngành công nghệ
thông tin: Gateway, Dell, AST, Apple, Hewlett Packard và Siemens Nixdorf về sản xuất
máy tính; và Microsoft, Lotus và Oracle về phần mềm (xem Bảng 9 về số liệu thống kê
trong ngành công nghiệp phần mềm). Chỉ riêng ba ngành này gộp lại đã chiếm đến 40%
tăng trưởng GDP của Ailen trong suốt thập niên 1990 và 78% tăng trưởng công nghiệp
vào năm 1998.
53

Trong khi FDI gia tăng là chủ đề của thập niên 1990, sự suy thoái toàn cầu năm
2001 đã góp phần vào sự giảm sút mạnh luồng FDI vào Ailen. Sự tổn thất 13% công việc
tại các công ty mà IDA hỗ trợ đi cùng xu hướng đi xuống này và sau đó đã làm dấy lên
những mối quan ngại về tính dễ bị tổn thương của Ailen đối với các xung lực bên ngoài
(xem Bảng 10 về việc làm tại các công ty mà IDA hỗ trợ và Bảng 11 về tiền lương tại

Ailen). Trong khi nhiều nguời thấy sự phụ thuộc vào các công ty nước ngoài của Ailen là
một mối đe doạ nghiêm trọng thì Dorgan quả quyết rằng đây là kết quả không thể tránh
khỏi của sự toàn cầu hóa. Ông ta giải thích, “Nền kinh tế mở của chúng tôi làm giảm sự
phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Sự cung ứng toàn cầu hiện nay là
một thực tế.”
54
Ailen chắc chắn đã nắm lấy thời cơ của toàn cầu hóa, khi đứng đầu trong
Chỉ số Toàn cầu hóa của A.T. Kearney từ năm 2002 đến 2004. Dù vậy, những người khác
bác lại lý do của Dorgan:
Lập luận rằng sự toàn cầu hóa làm cho các công ty toàn cầu và địa
phương là giống nhau về cơ bản là không đúng. Ví dụ, việc quản lý cấp cao của
tập đoàn CRH
55
được thực hiện tại Ailen, vì vậy các quyết định quan trọng là do
những người sống và làm việc ở đây thực hiện. Con cái của họ đến trường tại
Ailen và họ sẽ chiến đấu tích cực hơn để làm ra tiền ở đây. Sự kiện rằng CRH là
một công ty cổ phần đại chúng với sở hữu đa số của nước ngoài là rất không phù
hợp.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và
nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen

Laura Alfaro và cộng sự 13 Biên dịch: Hải Đăng


- Frank Kennedy, Sáng lập viên của Delta Partners và thành viên của ESG
Khi sự phụ thuộc FDI và tính dễ bị tổn thương xuất hiện trong những bài tường
thuật của cuộc tranh luận, một số nhà bình luận lo lắng rằng sự bùng nổ này hoàn toàn là
môt thứ phẩm của sự tăng trưởng của Hoa Kỳ hơn là một hiện tượng tự lực và của địa

phương. Theo họ, thành công của Ailen trong việc thu hút các công ty công nghệ cao của
Hoa Kỳ vào đầu tư tại đất nước mình trong thập niên 1990 trùng hợp với thời kỳ đầu cơ
thị trường dài nhất trong lịch sử Hoa Kỳ và những sự bùng nổ chưa từng có trong nhiều
ngành công nghiệp mục tiêu của IDA. Ailen phải cõng trên lưng mình sự tăng trưởng này,
mà dẫn đến những luận điệu cho rằng con Hổ vùng Celtic tự thân là một ảo tưởng - rằng
sự tăng trưởng của Ailen chủ yếu được tạo ra từ sự cộng tác chặt chẽ với siêu quyền lực
kinh tế Hoa Kỳ.
Một nhà báo đã xót thương cho sự phụ thuộc quá nhiều của Ailen:
Sự kiện rằng chúng ta quá phụ thuộc vào Hoa Kỳ là một sự thật quá rõ
ràng. Chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào nền kinh tế Hoa Kỳ và sự phụ thuộc của
chúng ta bị làm cho thêm phần tồi tệ bởi các mối liên kết. Nếu Dell rút khỏi
Ailen thì các công ty nội địa phục vụ cho công ty này sẽ lâm vào tình cảnh túng
quẫn. Nhiều công ty nội địa hoàn toàn phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài
để hoạt động và tồn tại.
56

Các nổ lực khác nhằm giải thích cho sự bùng nổ của Ailen tập trung vào lý thuyết
bắt kịp - kết quả chắc chắn xảy ra của các chính sách kinh tế cẩn trọng sau hàng thập kỷ
quản lý tồi. Tồi tệ hơn, một số người tuyên bố rằng sự bùng nổ này là sản phẩm ảo tưởng
của việc chuyển giá mờ ám. Các mức thuế suất thuế doanh nghiệp thấp đã cám dỗ các
công ty đa quốc gia thổi phồng mức lợi nhuận của các chi nhánh tại Ailen của mình. Điều
này thường đạt được bằng cách ghi vào sổ sách các giao dịch nội bộ với mức giá chuyển
giao mà phục vụ cho việc định vị tại Ailen một tỷ lệ phần trăm lớn trong lợi nhuận toàn
cầu của công ty.
57
Một số nhà quan sát tin rằng những thông lệ này đã phóng đại các con
số về GDP của Ailen đến mức độ mà chúng hoàn toàn làm sai lệch thành quả kinh tế thực
sự của nước này. Một số khác thì phản đối khi cho rằng các tốc độ tăng trưởng – trái với
với các mức sản lượng tuyệt đối - vẫn không bị ảnh hưởng bởi các vấn đề về chuyển giá.
Brian Cogan của Forfás phủ nhận quan điểm cho rằng sự bùng nổ này là bịa đặt: “Việc

chuyển giá tự thân chỉ xuất hiện khi đồng tiền chảy vào và sau đó lại chảy ra. Nó không
giải thích được tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống, các mức kỹ năng gia tăng của công nhân và
các mức thu nhập cao hơn tại Ailen.”
58
Mặc dù tác động của việc chuyển giá đến GDP
của Ailen rất khó lượng hóa nhưng đáng để lưu ý rằng bốn ngành công nghiệp FDI thịnh
vượng – cô đặc cola, phần mềm, dược phẩm, và máy tính - đặc biệt ở vị thế hưởng lợi từ
việc chuyển giá.
59


×