Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Phân tích và đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Hồng Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.53 KB, 85 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian hai năm học tập, nghiên cứu tại Viện Kinh tế và Quản lý trường
đại học Bách khoa Hà Nội, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo
đến nay tôi đã hoàn thành khóa học thạc sỹ Quản trị kinh doanh. Với lòng biết ơn
của mình, lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo TS. Nguyễn Đại Thắngngười đã hướng dẫn em trong suốt thời gian nghiên cứu đến lúc hoàn thành luận văn
này.
Đồng thời em xin được gửi lời cảm ơn tới toàn thể các thầy giáo, cô giáo viện
Kinh tế và Quản lý; viện Đào tạo sau đại học, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã
truyền đạt cho em những kiến thức bổ ích trong suốt thời gian học tập tại trường và
luôn tạo điều kiện để em hoàn thành khóa học cùng bài luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Công ty Cổ phần Cảng Hồng Hà cùng
các bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ em trong công tác thu thập số liệu cần
thiết để hoàn thành luận văn của mình.
Xin chân thành cảm ơn và xin kính chúc các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp
luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Hà Nội, tháng 03 năm 2015
Người thực hiện

HV: Hoàng Thị Ánh Tuyết

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
-1-


Hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp khá phức tạp với nhiều
quan hệ nảy sinh. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Môi trường kinh doanh, trình độ của các nhà
quản lý doanh nghiệp, trình độ quản lý tài chính. Trước sự cạnh tranh quyết liệt giữa
các thành phần kinh tế gây ra những khó khăn thử thách cho các doanh nghiệp.
Trong bối cảnh đó, để khẳng định được mình, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững


tình hình cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến tình hình tài chính vì
nó có quan hệ trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân tích tài chính được sử dụng như một công cụ đánh giá tình hình tài
chính, đánh giá rủi ro và hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp nhằm giúp các
nhà quản trị doanh nghiệp có cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn về tình hình tài chính
của doanh nghiệp mình. Hơn thế nữa, phân tích tài chính có ý nghĩa cho việc ra các
quyết định tài chính bởi phân tích tài chính làm giảm đi sự linh cảm, sự chuẩn đoán
và trực giác thuần tuý, điều này góp phần nâng cao sự chắc chắn trong quá trình ra
quyết định.
Không nằm ngoài mối quan tâm chung đó Công ty cổ phần Cảng Hồng Hà
cũng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ nhiều phía. Để tồn tại, phát triển và
đứng vững trên thị trường thì một trong những vấn đề đang được công ty quan tâm là
công tác phân tích tài chính.
Cũng chính bởi lí do đó mà em đã lựa chọn đề tài “Phân tích và đề xuất một
số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Hồng Hà ”
để nghiên cứu nhằm góp phần đáp ứng những đòi hỏi trên của thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và phân tích tài chính
doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Hồng Hà,
chỉ ra những kết quả đã đạt được và những hạn chế về tình hình tài chính của Công
ty.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính tại Công ty cổ
phần Cảng Hồng Hà.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-2-



- Đối tượng nghiên cứu: Lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp trong
các lĩnh vực như: đầu tư, sản xuất, kế toán, tài chính, luật pháp và các chính sách
quản lý tài chính của Nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung xem xét, phân tích đánh giá tình hình
tài chính của Công ty Cổ phần Cảng Hồng Hà trên góc độ nhà quản trị doanh nghiệp,
trong khoảng thời gian từ niên độ kế toán 2012 đến hết niên độ kế toán 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát: Thông qua trao đổi, phỏng vấn các chuyên viên tài
chính của Công ty để nắm bắt cơ chế tài chính, phương pháp kê khai tài chính mà
Công ty áp dụng.
- Phương pháp điều tra: Điều tra thu thập số liệu, tài liệu liên quan đến tình
hình hoạt động tài chính của Công ty nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp so sánh: Dùng để xác định xu hướng và mức độ biến động
của các chỉ tiêu tài chính của Công ty.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Phân tích thực trạng tình hình tài chính của Công ty cổ phần Cảng
Hồng Hà.
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện tình hình tài chính tại
Công ty cổ phần Cảng Hồng Hà.

-3-


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP


1.1 . Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm về tài chính doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, nói đến việc tiến hành sản xuất kinh doanh trong
các doanh nghiệp là nói đến một lượng vốn tiền tệ nhất định của doanh nghiệp, hay
còn gọi đó là nguồn tài chính của doanh nghiệp. Đó là yếu tố quan trọng và cũng là
tiền đề trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Với từng loại hình doanh nghiệp
khác nhau mà các doanh nghiệp có các cách thức tạo lập số vốn tiền tệ khác nhau.
Từ số vốn tiền tệ đó doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua máy móc
thiết bị, mua vật tư, nguyên vật liệu,… để tiến hành sản xuất kinh doanh. Khi tiêu
thụ sản phẩm làm ra doanh nghiệp thu về tiền bán hàng, với số doanh thu bán
hàng đó, doanh nghiệp sử dụng để bù đắp các chi phí tiêu hao, trả lương cho
người lao động, nộp thuế,… số còn lại là lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh
nghiệp lại tiếp tục phân phối lợi nhuận này vào các quỹ với mục đích tái đầu tư.
Như vậy, quá trình hoạt động của doanh nghiệp là quá trình tạo lập, phân phối và
sử dụng quỹ tiền tệ hợp thành hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trong quá
trình đó, phát sinh và tạo ra sự vận động của các dòng tiền bao gồm dòng tiền vào
và dòng tiền ra gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt đông sản xuất kinh doanh
thường xuyên của doanh nghiệp.
Như vậy có thể nói: “Tài chính doanh nghiệp là quá trình tạo lập, phân phối
và sử dụng các quỹ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
nhằm góp phần đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp”. Gắn với quá trình tạo lập,
phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế biểu
hiện dưới hình thức giá trị tức là quan hệ tài chính doanh nghiệp. Các quan hệ đó là:
- Quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp
Mối quan hệ này phát sinh khi Doanh nghiệp nộp thuế và các loại phí vào Ngân
sách Nhà nước; Nhà nước cấp vốn kinh doanh (đối với các doanh nghiệp Nhà
nước) hoặc tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp với tư cách người góp
vốn. Nhà nước cung cấp cơ sở hạ tầng và tạo các điều kiện pháp lý cũng như
đảm bảo môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp.
-4-



- Quan hệ giữa doanh nghiệp với chủ thể kinh tế khác
Nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phức tạp và đã tạo ra các mối quan hệ
kinh tế giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác; giữa doanh nghiệp với các
nhà đầu tư, nhà cho vay; giữa doanh nghiệp với bạn hàng và khách hàng thông qua
việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh bao
gồm các quan hệ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hoá, phí bảo hiểm, chi trả tiền
công, cổ tức, tiền lãi trái phiếu; giữa doanh nghiệp với ngân hàng và các tổ chức tín
dụng trong quá trình doanh nghiệp phát sinh vay vốn, hoàn trả gốc, trả lãi cho ngân
hàng và các tổ chức tín dụng.
- Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp bao gồm quan hệ kinh tế giữa doanh
nghiệp với các phòng ban trong quá trình nhận tạm ứng, thanh toán tài sản; quan hệ
kinh tế giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên chức trong quá trình phân phối
thu nhập cho lao động dưới hình thức tiền lương, tiền thưởng, tiền phạt và lãi cổ
phần.
Có thể nói rằng quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp là các vấn đề
tài chính có liên quan đến việc phân phối thu nhập và chính sách tài chính của
doanh nghiệp như: cơ cấu tài chính, chính sách tái đầu tư, chính sách cổ tức, sử
dụng quỹ nội bộ của doanh nghiệp.
Nói tóm lại, Tài chính doanh nghiệp là hệ thống những quan hệ kinh tế
biểu hiện bằng hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng
các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội. Hay nói một cách khác tài
chính doanh nghiệp là quá trình tạo lập, phân phối và sử dựng các quỹ tiền tệ
phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt các mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy có thể nói Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành của hệ
thống tài chính quốc gia và là khâu cơ sở của hệ thống tài chính.

Tài chính doanh nghiệp bao gồm: tài chính của các đơn vị, tổ chức sản xuất
kinh doanh hàng hoá và cung ứng dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế.
Tài chính doanh nghiệp là một công cụ khai thác thu hút các nguồn tài chính nhằm
đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.

1.1.2. Vai trò và chức năng của tài chính doanh nghiệp
-5-


a) Vai trò của tài chính doanh nghiệp
- Lựa chọn quyết định đầu tư
Triển vọng của một doanh nghiệp trong tương lai phụ thuộc rất lớn vào
quyết định đầu tư dài hạn với quy mô như quyết định đầu tư đổi mới công nghệ,
mở rộng sản xuất kinh doanh, sản xuất và kinh doanh sản phẩm mới,…Để đi đến
quyết định đầu tư, đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét cân nhắc nhiều mặt về kinh
tế, kỹ thuật và tài chính. Trong đó, về mặt tài chính phải xem xét các khoản chi
tiêu vốn cho đầu tư và thu nhập do đầu tư mang lại, hay nói cách khác là xem xét
dòng tiền ra và dòng tiền vào liên quan đến khoản đầu tư để đánh giá cơ hội đầu
tư về mặt tài chính. Đó là quá trình hoạch định dự toán vốn đầu tư và đánh giá
hiệu quả tài chính của việc đầu tư.
- Xác định nhu cầu vốn và tổ chức huy động vốn đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu
cầu vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp
Tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều đòi hỏi phải có vốn. Tài chính
doanh nghiệp phải xác định các nhu cầu vốn cần thiết cho từng hoạt động của
doanh nghiệp trong kỳ. Tiếp đó, phải tổ chức huy động các nguồn vốn đáp ứng
đầy đủ, kịp thời và có lợi cho các hoạt động của doanh nghiệp. Để có được cơ cấu
vốn thích hợp, cần xem xét cân nhắc nhiều mặt như kết cầu nguồn vốn hiện tại
của doanh nghiệp, chi phí sử dụng từng nguồn vốn, phân tích điểm lợi và bất lợi
của từng nguồn vốn.
- Sử dụng có hiệu quả số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi và

đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp huy động tối đa số vốn
hiện có của doanh nghiệp vào hoạt động kinh doanh, giải phóng kịp thời số vốn
ứ đọng và thực hiện tốt việc thanh toán, thu hồi tiền bán hàng và các khoản thu
khác, đồng thời quản lý chặt chẽ mọi khoản chi phí phát sinh trong quá trình
hoạt động của doanh nghiệp. Thường xuyên tìm biện pháp thiết lập và cân bằng
giữa thu và chi bằng tiền, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn có khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn.
- Thực hiện phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp
Phân phối lợi nhuận là việc giải quyết mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các
bên có liên quan. Việc phân phối và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp là cân đối
lợi ích của chủ sở hữu doanh nghiệp và người lao động, qua đó góp phần quan trọng
vào việc phát triển doanh nghiệp và cải thiện đời sống người lao động.
-6-


- Kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua tình hình tiêu thụ, chi tiêu hằng ngày, các báo cáo tài chính, tình
hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính cho phép kiểm soát được tình hình hoạt động
của doanh nghiệp. Mặt khác, cần định kỳ tiến hành phân tích tài chính của doanh
nghiệp. Qua phân tích, cần đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn, những điểm
mạnh, điểu yếu trong quá trình quản lý và dự báo tình hình tài chính của doanh
nghiệp, từ đó giúp cho các nhà quản trị đưa ra các quyết định thích hợp và kịp
thời để điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính của
doanh nghiệp.
- Thực hiện kế hoạch hóa tài chính
Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp cần được dự kiến trước thông qua
việc lập kế hoạch tài chính. Có kế hoạch tài chính tốt thì doanh nghiệp mới có thể
đưa ra các quyết định thích hợp nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
b) Chức năng của tài chính doanh nghiệp

- Chức năng phân phối
Là chức năng đưa các nguồn tài chính, nguồn vốn, lợi nhuận sau thuế của
doanh nghiệp vào các quỹ để sử dụng cho các mục đích thích hợp theo kế hoạch tài
chính của doanh nghiệp. Nhờ có chức năng này mà doanh nghiệp có khả năng thu
hút, khai thác các nguồn lực tài chính bên ngoài để hình thành nguồn vốn kinh doanh
của doanh nghiệp mình, ngoài ra nó còn quyết định phương hướng đầu tư, tái đầu tư
và cách thức đầu tư của doanh nghiệp.
- Chức năng giám đốc
Mục tiêu hoạt động cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận, để đạt được
mục tiêu này tài chính doanh nghiệp phải giám sát và dự báo hiệu quả quá trình
vận động của các nguồn tài chính để tạo lập các quỹ và sử dụng các quỹ đúng
mục đích đã đề ra. Chức năng này có khả năng phát hiện những khuyết tật trong
quá trình phân phối để từ đó điều chỉnh quá trình này một cách phù hợp nhất
nhằm thực hiện tác mục tiêu, chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

1.1.3 Các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính doanh nghiệp
1.1.3.1 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính
a) Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
Để đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp từ tài chính các nhà quản trị sử
dụng các chỉ tiêu sau:
-7-


- Tỷ suất sinh lợi vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE – Return on Equity còn được gọi là sức sinh lời của vốn chủ sở hữu. Chỉ
tiêu này phản ánh mức lợi nhuận sau thuế thu được trên mỗi đồng vốn chủ sở hữu
trong kỳ.Tỷ số này cho biết cứ một đồng vốn chủ sở hữu có được bao nhiêu đồng lợi
nhuận sau thuế trong một kỳ phân tích. Sự biến động của tỷ số này phản ánh sự biến
động về hiệu quả. Chỉ số này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu càng
lớn.

Chỉ tiêu này được tính như sau:
Lợi nhuận sau thuế
ROE =
Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân
- Tỷ suất sinh lợi của tổng tài sản (ROA)
ROA – Return on Asset còn được gọi là tỷ suất thu hồi tài sản. Chỉ tiêu này phản
ánh mức lợi nhuận sau thuế thu được trên mỗi đồng tài sản tham gia vào hoạt động sản xuất
kinh doanh trong kỳ. Hay nói cách khác chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của 1
đồng giá trị tài sản bình quân mà doanh nghiệp đã huy động vào sản xuất kinh doanh
có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế ( Lãi ròng). Chỉ tiêu này được
tính như sau:
Lợi nhuận sau thuế
ROA =
Tổng tài sản bình quân
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS)
ROS – Return on Sales, tỷ số này cho biết cứ một đồng doanh thu có được bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp (lãi ròng). Sự biến động của
tỷ số này phản ánh sự biến động về hiệu quả; tỷ số này càng cao cang hiệu quả.
Hay có thể nói chỉ tiêu này phán ánh mức đóng góp lợi nhuận của mỗi đồng
doanh thu. Nếu hệ số này dương có nghĩa là doanh nghiệp kinh doanh có lãi và ngược
lại. Nếu chỉ số này tăng có nghĩa là khách hàng chấp nhận mua với giá cao hơn hoặc
(và) các cấp quản trị đang kiểm soát tốt chi phí, và ngược lại, nếu chỉ số này giảm có
nghĩa là doanh nghiệp đang phải chiết khấu để bán hàng hoặc (và) đang mất kiểm
soát chi phí.
Chỉ tiêu này phán ánh tỷ lệ thu hồi lợi nhuận trên doanh số bán ra và được
tính theo công thức:
Lợi nhuận sau thuế
-8-



ROS

=
Doanh thu thuần

b) Các chỉ tiêu phản ánh năng suất của tài sản
Để phản ánh năng suất của tài sản, các nhà quản trị sử dụng chỉ tiêu doanh thu
thuần hoặc giá vốn hàng bán theo công thức sau:
Năng suất tổng tài sản

=

DT thuần
Tổng TS bình quân

Hoặc có thể sử dụng công thức:
Giá vốn hàng bán
Tổng TS bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản được sử dụng tạo ra bao nhiêu doanh
Năng suất tổng tài sản

=

thu thuần (hoặc giá vốn hàng bán). Chỉ tiêu này càng lớn thì tốc độ luân chuyển tài
sản của doanh nghiệp càng nhanh, hiệu quả sử dụng tài sản càng tốt và ngược lại.
Tổng tài sản của doanh nghiệp bao gồm: Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn;
trong mỗi loại tài sản lại có nhiều yếu tố thành phần khác nhau; do vậy chúng ta có
thể tính năng suất của từng loại tài sản thành phần.
+ Năng suất sử dụng tài sản ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp được sử dụng trực tiếp cho mục đích sản

xuất kinh doanh, nó trực tiếp tạo ra các yếu tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp
như nguyên vật liệu, công cụ, thành phẩm, hàng hóa,… chính vì vậy các nhà quản trị
tiến hành đo lường hiệu quả tài sản ngắn hạn bằng công thức:
DT thuần (Giá vốn hàng bán)
TS ngắn hạn bình quân
Tỷ số này phản ánh 1 đồng tài sản ngắn hạn bình quân tạo ra bao nhiêu đồng
Năng suất tài sản ngắn hạn

=

doanh thu thuần (hay giá vốn hàng bán); tỷ số này còn nói rằng trong một kỳ phân
tích tài sản ngắn hạn quay được bao nhiêu vòng.
Và để xác định vòng quay TS ngắn hạn, nhà quản trị sử dụng công thức:
365 ngày
Năng suất tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết để hoàn thành một vòng quay tài sản ngắn hạn cần bao
Vòng quay tài sản ngắn hạn

=

nhiêu ngày, chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng nhỏ và
ngược lại.
Tài sản ngắn hạn bao gồm: tiền, hàng tồn kho, khoản phải thu và tài sản ngắn
hạn khác; vì vậy để chi tiết người ta có thể tính năng suất (vòng quay) các chỉ tiêu
thành phần này.
+ Năng suất sử dụng tài sản dài hạn
-9-


Chỉ tiêu này phán ánh với mỗi đồng tài sản dài hạn được sử dụng trong kỳ sẽ

tạo ra bao nhiêu doanh thu thuần hoặc giá vốn hàng bán.
DT thuần (Giá vốn hàng bán)
TS dài hạn bình quân
Trong một số trường hợp để phản ánh chính xác năng suất sử dụng tài sản dài
Năng suất tài sản dài hạn

=

dạn người ta đo bằng nguyên giá tài sản cố định (loại trừ yếu tố hao mòn lũy kế)
Doanh thu thuần
Năng suất tài sản dài hạn =
Nguyên giá tài sản dài hạn bình quân
1.1.3.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ an toàn tài chính
Nhóm chỉ tiêu này thể hiện tình hình tài chính doanh nghiệp có an toàn hay
không, do những nhân tố nào tác động. Mức độ an toàn thể hiện thông qua các chỉ
tiêu cơ bản sau đây:
- Hệ số khả năng thanh toán hiện hành
Là mối tương quan giữa tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn, là thước
đo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Hệ số khả năng

Tổng tài sản ngắn hạn
Nguồn vốn ngắn hạn
thanh toán hiện hành
Tỷ số này cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản ngắn hạn có thể chuyển
=

đổi thành tiền mặt để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này lớn hơn hoặc
bằng 1 thể hiện tất cả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp trong kỳ đều có tài
sản đảm bảo.

Hệ số này nhỏ hơn 1 thể hiện khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp ở
mức độ thấp và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tiềm ẩn về tài chính có
thể xảy ra.
Hệ số này cao hơn 1, cho thấy tại thời điểm phân tích doanh nghiệp sẵn sàng
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Ngược lại, nếu chỉ số này nhỏ hơn 1 báo hiệu khả
năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp đang ở mức thấp, tiền ẩn những khó
khăn về tài chính.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là thước đo khả năng trả nợ ngay các khoản
nợ ngắn hạn của doanh nghiệp trong kỳ mà không cần bán đi vật tư hàng hóa.
Hệ số khả năng

=

Tài sản ngắn hạn - Hàng tồn kho
Nguồn vốn ngắn hạn
- 10 -


thanh toán nhanh
Nhìn chung hệ số này càng cao thì càng tốt, nhưng nếu quá cao cần xem xét
lại, vì có thể xảy ra trường hợp hệ số cao do trong TSNH các khoản phải thu khó đòi
chiếm tỷ trọng lớn. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh
nghiệp, gây tình trạng vòng quay của vốn chậm, phát sinh một số chi phí. Do vậy,
chỉ tiêu hệ số khả năng thanh toán tức thời được thiết lập, nhằm giúp chúng ta đánh
giá khả năng thanh toán trong ngắn hạn của doanh nghiệp loại trừ ảnh hưởng của
hàng tồn kho và các khoản phải thu. Hệ số này càng lớn càng thể hiện mức độ an
toan trong thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
- Hệ số khả năng thanh toán tức thời
Hệ số thanh toán tức thời là thước đo khả năng thanh toán các khoản nợ bằng

số tiền doanh nghiệp hiện có. Hệ số này được tính như sau:
Hệ số khả năng

Vốn bằng tiền
Nợ đến hạn phải trả
thanh toán tức thời
Hệ số này cho biết doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh (gần như tức
=

thời) các khoản nợ đến hạn phải trả hay không?
Nhận thấy rằng số tài sản dùng để thanh toán nhanh được xác định là tiền
(bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và các loại tài sản có thể chuyển đổi
thành tiền mặt một cách nhanh nhất như vàng, bạc, đá quý… trong thời hạn dưới 3
tháng).. Để đánh giá hệ số này chính xác cần căn cứ vào loại hình doanh nghiệp, đối
với doanh nghiệp tư vấn, nghiên cứu thì hệ số này lớn. Ngược lại với doanh nghiệp
xây lắp hệ số này tương đối nhỏ.
- Hệ số khả năng thanh toán lãi vay
Lãi vay phải trả là một khoản chi phí, nguồn để trả lãi vay là lợi nhuận gộp
sau khi đã trừ đi chi phí quản lý kinh doanh và chi phí bán hàng. Hệ số khả năng
thanh toán lãi vay phản ánh mối quan hệ giữa nguồn để trả lãi vay và lãi vay phải trả.
Hệ số khả năng

Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
=
thanh toán lãi vay
Lãi vay phải trả trong kỳ
Hệ số này dùng để đo lường mức độ lợi nhuận có được do sử dụng vốn vay để
trả lãi cho các chủ nợ, nó thể hiện hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Nói
cách khác, hệ số khả năng thanh toán lãi vay cho chúng ta biết được việc doanh
nghiệp sử dụng nợ có hiệu quả đến mức độ nào và đem lại một khoản lợi nhuận bao

nhiêu, có đủ bù đắp lãi vay phải trả không. Chú ý khi phân tích chỉ số này cần quan
tâm đến chính sách tài trợ của doanh nghiệp.
- 11 -


1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp
1.1.4.1 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
- Tốc độ phát triển kinh tế
Có thể nói một nền kinh tế ổn định hay không đều có tác động không nhỏ tới
doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới nhu cầu về vốn kinh doanh. Những
biến động của nền kinh tế có thể gây nên những rủi ro trong kinh doanh, những rủi
ro đó có ảnh hưởng tới các khoản chi phí về đầu tư, chi phí lãi vay, tiền thuê nhà
xưởng, máy móc, thiết bị hay việc tìm nguồn tài trợ.
Khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng với một tốc độ nào đó thì doanh nghiệp muốn
duy trì và giữ vững vị trí của mình, cũng phải phấn đấu phát triển với nhịp độ tương
đương. Khi doanh thu tăng lên, sẽ dẫn đến tăng tài sản, các nguồn phải thu và các
loại tài sản khác như vậy đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải tìm nguồn tài trợ
cho sự mở rộng sản xuất, sự gia tăng tài sản đó.
Ảnh hưởng của giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế có ảnh hưởng lớn tới doanh
thu, do đó cũng ảnh hưởng lớn tới khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Cơ cấu tài chính của
doanh nghiệp cũng được phản ánh nếu có sự thay đổi về giá cả, sự tăng, giảm lãi suất
và giá cổ phiếu cũng ảnh hưởng tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn
của các hình thức tài trợ khác nhau. Mức lãi suất cũng là một yếu tố đo lường khả
năng huy động vốn vay. Sự tăng hay giảm thuế cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tình
hình kinh doanh, tới khả năng tiếp tục đầu tư hay rút khỏi đầu tư.
- Sự cạnh tranh trên thị trường
Sự cạnh tranh trên thị trường có ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế, tài chính của
doanh nghiệp và có liên quan chặt chẽ đến khả năng tài trợ để doanh nghiệp tồn tại
và tăng trưởng trong một nền kinh tế đầy biến động. Nếu doanh nghiệp đang hoạt
động trong các linh vực có mức độ cạnh tranh cao, đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư

nhiều hơn cho công tác đổi mới công nghệ, trang thiết bị và cải tiến, nâng cao chất
lượng sản phẩm, công tác quảng cáo và xúc tiến bán hàng,… sẽ ảnh hưởng lớn đến
vòng quay vốn và các chỉ số tài chính khác của doanh nghiệp.
- Tiến bộ về khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp phải ra sức cải
tiến kỹ thuật, quản lý, xem xét và đánh giá lại toàn bộ tình hình tài chính, khả năng
thích ứng với thị trường, từ đó đề ra những chính sách phù hợp cho doanh nghiệp.
- Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
- 12 -


Các chính sách của Nhà nước như: chính sách thuế, chính sách khuyến khích
đầu tư, chính sách xuất khẩu, chế độ khấu hao tài sản cố định,… là những yếu tố tác
động lớn đến tài chính của doanh nghiệp.
Nếu các chính sách này ổn định thì sẽ thúc đẩy việc xác định và tính toán
chính xác các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp. Việc ban hành và kiện toàn các bộ
Luật về kế toán, thống kê, tài chính, thuế của Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
- Thị trường tài chính và hệ thống các trung gian tài chính
Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi doanh
nghiệp có thể huy động và gia tăng các nguồn lực thông qua việc huy động vốn của
các cá nhân, tổ chức có nguồn vốn nhàn rỗi, hoặc có thể đầu tư các khoản tài chính
tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp mình nhằm gia tăng lợi nhuận. Sự phát triển của
thị thường vừa làm đa dạng hóa các công cụ và hình thức huy động vốn, vừa làm
tăng cơ hội đầu tư khác cho doanh nghiệp.
1.1.4.2 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Những nhân tố bên trong là những nhân tố mang tính chủ quan của các doanh
nghiệp. Trong phạm vi nghiên cứu ta chỉ xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới chỉ tiêu
tài chính doanh nghiệp qua một số nhân tố như sau:
a) Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp

Mỗi hình thức doanh nghiệp có một đặc điểm riêng biệt về tính pháp lý và
những đặc điểm ấy có ảnh hưởng lớn đến chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp như việc tổ
chức, huy động vốn, sản xuất kinh doanh và phân phối lợi nhuận. Hiện nay ở nước ta
có các loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau đây:

-

Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Công ty cổ phần.
Công ty hợp danh.
Doanh nghiệp tư nhân.
Hình thức pháp lý của doanh nghiệp chi phối đến việc tổ chức, huy động vốn,

quản lý vốn và phân phối kết quả kinh doanh. Với một công ty TNHH thì vốn được
hình thành giới hạn trong các thành viên và lợi nhuận do các thành viên góp vốn
hưởng. Tương tự như vậy đối với một công ty cổ phần, vốn được hình thành từ các
cổ đông và có thể huy động vốn rộng rãi thông qua việc phát hành cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán, đồng nghĩa với việc lợi nhuận các cổ đông được hưởng trên cơ
sở cổ tức được chia hàng kỳ,…
- 13 -


b) Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành nghề kinh doanh
Đặc điểm kinh tế và kỹ thuật của ngành kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ
tới chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về mặt
kinh tế và kỹ thuật khác nhau. Những ảnh hưởng đó được thể hiện như sau:
- Ảnh hưởng này thể hiện trong thành phần và cơ cấu vốn kinh doanh của
doanh nghiệp, ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất kinh doanh cũng như tỷ lệ
thích ứng để hình thành và sử dụng chung, do đó có ảnh hưởng tới tốc độ luân
chuyển vốn, ảnh hưởng tới phương pháp đầu tư, hình thức thanh toán.

- Ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất kinh doanh: tính thời vụ và
chu kỳ sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu vốn sử dụng và
doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Những doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ ngắn hạn thì
nhu cầu vốn giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, doanh
nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp
dễ dàng đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền, cũng như trong việc tổ chức
đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu kinh doanh. Những doanh nghiệp sản xuất ra những
loại sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài, phải ứng ra một lượng vốn tương đối lớn,
doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất có tính chất thời vụ, thì nhu cầu vốn
giữa các quý trong năm thường có sự biến động lớn, tiền thu về bán hàng cũng
không được đều, tình hình thanh toán, chi trả cũng thường gặp khó khăn. Cho nên
việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng như đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng
tiền của doanh nghiệp cũng khó khăn hơn.
Ngoài ra, năng lực quản lý của chủ doanh nghiệp, công nghệ sản xuất và trình
độ tay nghề của người lao động cũng ảnh hưởng đến năng suất, kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh, do đó ảnh hưởng đến chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp.
c) Năng lực quản trị
Trong nền kinh tế hiện đại, năng lực quản trị của doanh nghiệp là một nhân tố
quan trọng, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thương trường. Năng lực
này bao gồm: khả năng lãnh đạo, khả năng ra quyết định và khó khăn về chuyên
môn. Nhà quản trị có tầm nhìn, có thể hoạch định chiến lược đúng đắn có thể mang
lại thành công cho doanh nghiệp trong một thời gian dài.
Mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đều luôn phụ thuộc vào
khách hàng và nhà cung cấp, mặt khác các khách hàng thường có nhu cầu khác nhau.
Việc phát triển và giữ chân khách hàng đỏi hỏi doanh nghiệp phải có những chiến
lược riêng cho từng nhóm khách hàng, với chiến lược hợp lý cho từng phân khúc,
- 14 -


từng nhóm khách hàng có thể tạo sự ổn định cho doanh nghiệp về sản xuất kinh

doanh cũng như về tài chính.
d) Công nghệ sản xuất
Công nghệ sản suất bao gồm phương thức, máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện
đại cũng như trình độ bố trí, tổ chức sản xuất sẽ tạo ra những sản phẩm tốt, có tính
đồng đều cao cũng như tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm giúp cho sản
phẩm của doanh nghiệp có tính cạnh tranh hơn, góp phần tăng doanh thu và lợi
nhuận của doanh nghiệp. Khi đó các chỉ số tài chính của doanh nghiệp sẽ tốt hơn và
thương hiệu của sản phẩm, của doanh nghiệp sẽ được củng cố và mạnh hơn.
e) Trình độ của lao động
Bên cạnh việc bố trí sử dụng công nghệ hiện đại hợp lý, thì một vấn đề
quyết định khác có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất là yếu tố con người với trình
độ lao động phù hợp. Để tận dụng được công nghệ hiện đại trước hết doanh nghiệp
cần có đội ngũ công nhân viên có trình độ, có khả năng đáp ứng yêu cầu của công
nghệ mới. Đề làm được điều này, ngoài công tác tuyển dụng hợp lý, doanh nghiệp
cần thường xuyên đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động. Kết hợp giữa yếu
tố công nghệ hiện đại với con người có trình độ được đào tạo, sẽ gia tăng hiệu quả
sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp.
1.2 Phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1 Thực chất và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
a) Thực chất của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và
so sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua việc phân tích báo cáo
tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh
cũng như những rủi ro trong tương lai. Hay có thể nói phân tích tài chính doanh
nghiệp là tổng thể các phương pháp được sử dụng để đánh giá, xem xét, kiểm tra, đối
chiếu và so sánh số liệu tài chính trong quá khứ với hiện tại. Thông qua việc phân
tích đó giúp nhà quản trị có thể đánh giá tiềm năng cũng như rủi ro trong tương lai,
qua đó giúp đưa ra những quyết định quản trị hợp lý, kịp thời nhằm đạt được mục
tiêu của doanh nghiệp.
Phân tích tài chính cung cấp những thông tin hữu ích giúp kiểm tra phân tích

một cách tổng hợp, toàn diện, có hệ thống về tình hình sản xuất kinh doanh, tình
hình thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Những người quản lý tài chính khi
phân tích tài chính cần cân nhắc tính toán tới mức rủi ro và tác động của nó tới
- 15 -


doanh nghiệp mà biểu hiện chính là khả năng thanh toán, đánh giá khả năng cân đối
vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở
đó, các nhà phân tích tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các dự đoán về kết quả hoạt động
kinh doanh nói chung, mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai.
Ngoài ra, phân tích tài chính còn cung cấp những thông tin số liệu để kiểm tra giám
sát tình hình hạch toán kinh doanh, tình hình chấp hành các chính sách chế độ kinh tế
tài chính của doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của xã hội thì việc phân tích tài
chính càng trở nên quan trọng, bởi công tác phân tích tài chính ngày càng cho thấy
sự cần thiết của nó đối với sự phát triển doanh nghiệp. Phân tích tài chính cho thấy
khả năng và tiềm năng kinh tế tài chính của doanh nghiệp, do đó sẽ giúp cho công
tác dự báo, lập kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn, dễ dàng đưa ra các chính sách
tạo điều kiện cho công ty hoạt động.
b) Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Kết quả của việc phân tích tài chính doanh nghiệp không chỉ được các nhà
quản trị tài chính quan tâm mà còn là mối quan tâm của nhiều đối tượng khác liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Đó là những đối tác kinh doanh, Nhà nước,
người cho vay, cán bộ công nhân viên. Việc phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp sẽ giúp cho các đối tượng quan tâm có những thông tin cần thiết cho việc ra
quyết định của mình trong mối quan hệ với doanh nghiệp.
- Đối với những người quản lý doanh nghiệp
Hoạt động phân tích tài chính của những người quản lý doanh nghiệp được
gọi là phân tích tài chính nội bộ. Do ở doanh nghiệp họ nắm được đầy đủ và chính
xác các thông tin, kèm theo sự hiểu rõ về doanh nghiệp nên họ có lợi thế để phân
tích tài chính một cách tốt nhất. Phân tích tài chính có ý nghĩa để dự báo tài chính và

là cơ sở cho các nhà quản lý đưa ra quyết định phù hợp không chỉ trong vấn đề tài
chính mà còn nhiều vấn đề khác. Phân tích tài chính nội bộ thực sự cần thiết để xác
định giá trị kinh tế, các mặt mạnh, yếu và đưa ra những quyết định đúng đắn cho sự
phát triển của một doanh nghiệp.
- Đối với các cơ quan chức năng, cơ quan Nhà nước có liên quan
Dựa vào các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để phân tích đánh giá, kiểm
tra hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước hay không, có tuân theo pháp luật hay
không đồng thời sự giám sát này giúp cơ quan thẩm quyền có thể hoạch định chính
sách một cách phù hợp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh một
- 16 -


cách có hiệu quả. Giúp Nhà nước đưa những kế hoạnh phát triển ở tầm vĩ mô sao
cho mang lại lợi ích thiết thực nhất.
- Đối với các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư là các doanh nghiệp và cá nhân quan tâm trực tiếp đến các
giá trị của doanh nghiệp vì họ là người đã giao vốn cho doanh nghiệp và có thể
phải chịu rủi ro. Thu nhập của họ là tiền chia lợi tức và giá trị gia tăng thêm của
vốn đầu tư. Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh
nghiệp. Các nhà đầu tư thường không hài lòng với lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt
được theo tính toán trên sổ sách. Dự kiến trước lợi nhuận sẽ đạt được là mối quan
tâm thực sự của nhà đầu tư. Thông qua sự phân tích dựa trên các báo cáo tài chính,
phân tích khả năng sinh lời, mức độ rủi ro và sự phân tích diễn biến giá cả, các nhà
đầu tư sẽ đưa ra các quyết định của chính mình.
- Đối với ngân hàng, các nhà cho vay tín dụng
Những đối tượng này quan tâm đến khả năng thanh toán công nợ, khả năng
hợp tác liên doanh của doanh nghiệp, cho nên cũng cần phân tích và đánh giá thực
trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các chủ nợ, họ quan
tâm tới khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp nếu đó là các khoản vay ngắn

hạn, đối với khoản vay dài hạn họ phải tin chắc khả năng hoàn trả khi xem xét khả
năng sinh lời của doanh nghiệp. Song quan trọng nhất đó là cơ cấu tài chính biểu
hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
- Đối với các nhà cung cấp
Trong chuỗi cung ứng, doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào khách hàng mà
còn phụ thuộc vào nhà cung cấp. Thông tin phân tích tài chính của doanh nghiệp
giúp nhà cung cấp biết khả năng thanh toán hiện tại và tương lai của doanh nghiệp,
để từ đó nhà cung cấp có thể cung ứng đầy đủ, kịp thời các yếu tố nguyên liệu và
chấp nhận cho doanh nghiệp mua chịu, thanh toán chậm hay không.
- Đối với khách hàng
Đối với các khách hàng lớn thì khả năng sản xuất, chất lượng và sản
lượng của doanh nghiệp là mối quan tâm hàng đầu để quyết định có gắn bó lâu
dài với doanh nghiệp hay không. Để đánh giá được điều đó, khách hàng phải căn
cứ vào khả năng sản xuất cũng như tiềm lực tài chính của doanh nghiệp qua
những chỉ số phân tích tài chính.
- Đối với những người hưởng lương trong doanh nghiệp
- 17 -


Những người hưởng lương trong doanh nghiệp cũng quan tâm đến tình hình
tài chính, bởi lợi ích của họ gắn liền với hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Người lao động quan tâm đến các thông tin và số liệu tài chính để đánh giá, xem xét
triển vọng của nó trong tương lai. Những người đi tìm việc đều có nguyện vọng
được vào làm việc trong các công ty có triển vọng với tương lai lâu dài để hy vọng
có mức lương xứng đáng và chỗ làm việc ổn định.
Những nhà phân tích tài chính nghiên cứu và đưa ra các dự đoán về kết quả
của hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng trong tương lai. Phân tích tài
chính là cơ sở để dự đoán tài chính. Ngoài ra phân tích tài chính được ứng dụng theo
nhiều hướng khác nhau: Đưa ra quyết định phục vụ nghiên cứu hay để kiểm tra giám
sát chặt chẽ hơn. Hiện nay với sự phát triển lớn mạnh của doanh nghiệp cùng với quá

trình cạnh tranh khốc liệt thì phải có chiến lược kinh doanh cụ thể hợp lý và chính
xác. Phân tích tài chính sẽ có tác dụng to lớn trong việc thực hiện điều đó.
Như vậy, có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp dưới những gốc độ khác nhau. Song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả
năng tạo ra các dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi
nhuận tối đa.
1.2.2 Trình tự của quá trình phân tích tài chính
a) Thu thập thông tin
Thu thập thông tin từ mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết
minh thực trạng hoạt động tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán, đánh giá, lập kế hoạch trong đó có những
thông tin nội bộ và những thông tin bên ngoài, từ thông tin kế toán đến các thông
tin khác… trong đó thông tin kế toán được xem là quan trọng nhất, được phản ánh
trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, do đó phân tích hoạt động tài chính
trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
b) Xử lý thông tin
Khi đã thu thập được các thông tin cần thiết sẽ tính toán và phân tích các
thông tin ở những góc độ khác nhau phục vụ mục tiêu đã đặt ra. Xử lý thông tin
là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán,
so sánh, giải thích, đánh giá và xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt
được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.

- 18 -


c) Dự đoán và ra quyết định
Mục đích của việc phân tích thông tin tài chính chính là để phục vụ cho
việc dự đoán và ra quyết định. Sau khi đã phân tích các thông tin tài chính thu
thập được, căn cứ vào kết quả của phân tích, người sử dụng thông tin sẽ đưa ra
những dự đoán theo các phương pháp khoa học, từ đó nhà quản trị có thể ra các

quyết định chính xác, kịp thời phù hợp với tình hình của doanh nghiệp.
1.2.3 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1. Phân tích tính hiệu quả của tài chính
Phân tích hiệu quả tài chính là xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp
có hiệu quả hay không, do những nhân tố nào tác động và nguyên nhân gây ra những
tác động đó. Việc phân tích này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà đầu tư, nhà
quản trị, các tổ chức tín dụng, các cổ đông, nó gắn liền với lợi ích của họ ở hiện tại
và trong tương lai.
a) Phân tích chỉ tiêu hiệu quả tài chính tổng quát
Để trả lời câu hỏi: Tài chính của doanh nghiệp có hiệu quả không? Chúng ta
tiến hành tính toán chỉ tiêu hiệu quả tổng quát: sức sinh lời nguồn vốn chủ sở hữu
(ROE); tiếp đó so sánh chỉ tiêu tính toán giữa các kỳ nếu kỳ sau cao hơn kỳ trước thì
kết luận kỳ sau hiệu quả hơn (hoặc ngược lại); so sánh với các doanh nghiệp cùng
ngành nếu cao hơn thì kết luận hiệu quả (hoặc ngược lại).
b) Phân tích các chỉ tiêu thành phần ảnh hưởng đến ROE
Chỉ tiêu hiệu quả tài chính tổng quát là sức sinh lời nguồn vốn chủ sở hữu
(ROE) được xác định như sau:
LN sau thuế
LN sau thuế
DTT
=
x
x
VCSH
DTT
TTS bình quân
Như vậy ROE chịu tác động của 3 chỉ tiêu thành phần:

TTS bình quân
VCSH


ROE = ROS x Năng suất tổng tài sản x Nghịch đảo hệ số tự tài trợ
Phân tích mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu thành phần đến chỉ tiêu hiệu quả
tổng quát là tiến hành tính toán 3 chỉ tiêu thành phần trên và xác định mức độ tác
động của nó đến chỉ tiêu tổng quát đồng thời so sánh từng chỉ tiêu thành phần giữa
các kỳ với nhau.
Chỉ tiêu thành phần được đánh giá là tốt khi kỳ sau cao hơn kỳ trước và
ngược lại. Trong trường hợp tất cả các chỉ tiêu thành phần đều tăng thì chỉ tiêu nào
có tốc độ tăng cao nhất là chỉ tiêu đó tốt, chỉ tiêu nào có tốc độ tăng thấp nhất là chỉ
tiêu đó chưa tốt.
- 19 -


c) Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu thành phần
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu sức sinh lợi doanh thu (ROS)
Thực chất là phân tích bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Thông qua BCKQKD, ta biết được tổng doanh thu và doanh thu thuần của
doanh nghiệp qua các năm biến động ra sao, chỉ tiêu doanh thu thuần tăng hay giảm,
việc giảm doanh thu thuần là do hàng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán tăng hay do
các khoản chiết khấu thanh toán tăng lên. Nếu doanh thu thuần giảm do hàng bán bị
trả lại và giảm giá hàng bán tăng thì doanh nghiệp cần phải xem lại chất lượng sản
phẩm của mình đã đảm bảo chưa, nếu do chiết khấu thanh toán tăng thì xem xét tỷ lệ
chiết khấu công ty đưa ra so với các đơn vị cùng ngành có cao quá không? Nếu cao
quá sẽ ảnh hưởng làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Thông qua BCKQKD, ta biết được chi phí của doanh nghiệp tăng hay giảm ở
khoản mục nào và lý do vì sao? Đồng thời cũng cho biết lợi nhuận trước thuế, lợi
nhuận sau thuế của doanh nghiệp đạt được từ các hoạt động trong năm và số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải đóng vào NSNN.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất tổng tài sản
Là phân tích sự biến động và cơ cấu của tài sản; qua phân tích cho biết năng

suất tổng tài sản tăng hay giảm do thành phần tài sản ngắn hạn hay tài sản dài hạn và
nguyên nhân .

- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ số tự tài trợ
Chính là phân tích sự biến động và cơ cấu của nguồn vốn; qua phân tích cho
biết nguồn vốn tài trợ cho tài sản tăng hay giảm do thành phần nguồn vốn vay hay
nguồn vốn chủ sở hữu và nguyên nhân của nó.
1.2.3.2. Phân tích an toàn tài chínhcủa doanh nghiệp
Việc phân tích này nhằm mục đích xem xét tình hình tài chính của doanh
nghiệp có an toàn hay không và do những nhân tố nào tác động? Nguyên nhân của
những tác động đó? Để trả lời cho những câu hỏi đó ta phải tiến hành tính chỉ tiêu hệ
số thanh toán hiện hành.
Tài chính của doanh nghiệp được coi là an toàn khi chỉ tiêu thanh toán hiện
hành lớn hơn hoặc bằng 1 (hay nói cách khác là doanh nghiệp không được dùng
nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho tài sản dài hạn. Chỉ tiêu này có thể so sánh bằng 2
cách:
Tài sản ngắn hạn / nguồn vốn ngắn hạn > 1
- 20 -


Hoặc:
Tài sản dài hạn < nguồn vốn dài hạn (Nguồn vốn CSH + Vay dài hạn)
Thực chất là phân tích mối quan hệ (cân đối) giữa tài sản và nguồn vốn của
doanh nghiệp. Nguyên tắc cân bằng tài chính đòi hỏi: tài sản dài hạn chỉ được tài trợ
bởi phần nguồn vốn dài hạn; tài sản ngắn hạn được tài trợ bởi nguồn vốn ngắn hạn.
Nếu NVNH < TSNH, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng 1 phần
nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho tài sản ngắn hạn. Đây là dấu hiệu an toàn đối với
doanh nghiệp vì nó cho phép doanh nghiệp đương đầu với rủi ro có thể xảy ra như
việc phá sản của khách hàng lớn, việc cắt giảm tín dụng của các nhà cung cấp kể cả
việc thua lỗ nhất thời.

Nếu NVNH > TSNH, chứng tỏ doanh nghiệp đang sử dụng một phần nguồn
vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn. Đây là hình thức tài trợ có nguy cơ mang
lại rủi ro tài chính cho doanh nghiệp. Có thể do doanh nghiệp không thể tìm kiếm
được các nguồn tài trợ dài hạn để đáp ứng cho các nhu cầu đầu tư vào tài sản dài hạn
nên đã phải lấy các nguồn tài trợ ngắn hạn để “chắp vá” cho những nhu cầu dài hạn
đó của mình. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp để
nhanh chóng thoát khỏi tình trạng đó, chẳng hạn như thu hẹp quy mô của tài sản cố
định, hoặc phát hành trái phiếu, vay vốn các tổ chức tín dụng ….
Ngoài ra để xác định mức độ an toàn của tài chính, người ta còn dùng thêm hệ
số thanh toán nhanh, hệ số thánh toán lãi vay. Hệ số này dùng để đo lường mức độ
lợi nhuận có được do sử dụng vốn vay để trả lãi cho các chủ nợ. Nói cách khác, hệ số
khả năng thanh toán lãi vay cho chúng ta biết được việc doanh nghiệp sử dụng nợ có
hiệu quả đến mức độ nào và đem lại một khoản lợi nhuận bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi
vay phải trả không.
1.2.3.3. Phân tích các đòn bẩy tài chính
a) Đòn bẩy kinh doanh DOL (đòn bẩy định phí)
Đòn bẩy kinh doanh hay đòn bẩy định phí là khái niệm phải ánh mức độ
doanh nghiệp sử dụng chi phí cố định trong hoạt động kinh doanh của mình. Doanh
nghiệp có đòn bẩy kinh doanh cao khi tỷ trọng chi phí cố định trong tổng chi phí cao.
Khi đòn bẩy kinh doanh cao, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về doanh thu có thể gây ra
sự thay đổi lớn về lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT).
Đòn bẩy kinh doanh phản ánh mức độ rủi ro trong kinh doanh. Về thực chất,
đòn bẩy kinh doanh phản ánh tỷ lệ thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay phát
sinh do sự thay đổi về sản lượng tiêu thụ.
- 21 -


DOL

=


Mức thay đổi của Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (%)
Mức thay đổi Doanh thu (%)

Hay:
DOL

=

Q(P – V)
Q(P – V) – F

=

EBIT + F
EBIT

Trong đó:

- Q: là sản lượng bán ra
- V: là biến phí đơn vị
- P: là giá bán sản phẩm
- F: là chi phí cố định
- EBIT: là lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
Độ lớn của đòn bẩy kinh doanh DOL cao chứng tỏ doanh nghiệp có mức độ
sinh lợi cao tuy nhiên rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ tăng tương ứng.
Đòn bẩy kinh doanh là công cụ được các nhà quản lý sử dụng để gia tăng lợi
nhuận. Trong các doanh nghiệp trang bị tài sản cố định hiện đại, định phí rất cao,
biến phí rất nhỏ thì sản lượng hoà vốn rất lớn. Tuy nhiên, một khi đã vượt quá điểm
hoà vốn, đòn bẩy kinh doanh sẽ rất lớn. Do đó, chỉ cần một sự thay đổi rất nhỏ của

sản lượng cũng đã làm lợi nhuận gia tăng rất lớn. Từ đó, ta có công thức đo lường sự
tác động của đòn bẩy kinh doanh với sự gia tăng lợi nhuận như sau:

Tỷ lệ gia tăng lợi nhuận
trước thuế và lãi vay

= DOL x

Tỷ lệ thay đổi về
sản lượng tiêu thụ

Khái niệm đòn bẩy kinh doanh cung cấp cho các nhà quản lý doanh nghiệp
một công cụ để dự kiến lợi nhuận. Nếu doanh thu của doanh nghiệp tăng lên và
doanh thu đã vượt quá điểm hoà vốn chỉ cần tăng một tỷ lệ nhỏ về doanh thu là đã có
thể tăng lên một tỷ lệ lớn hơn về lợi nhuận.
Tuy nhiên đòn bẩy kinh doanh như "con dao hai lưỡi", chúng ta biết đòn bẩy
kinh doanh phụ thuộc vào định phí nhưng khi chưa vượt quá điểm hoà vốn, ở cùng
một mức độ sản lượng thì doanh nghiệp nào có định phí càng cao thì sẽ lỗ càng lớn.
Điều này giải thích tại sao các doanh nghiệp phải phấn đấu để đạt được sản lượng
hoà vốn. Khi vượt quá điểm hoà vốn thì đòn bẩy kinh doanh luôn luôn dương và nó
ảnh hưởng tích cực tới sự gia tăng lợi nhuận.

- 22 -


Do đòn bẩy kinh doanh sẽ chỉ phát huy tác dụng khi doanh thu thuần vượt qua
doanh thu hòa vốn, nên đề xác định lợi nhuận của doanh nghiệp thay đổi như thế nào
với mức sản xuất thì phải phân tích điểm hòa vốn của doanh nghiệp. Điểm hòa vốn
là điểm mà tại đó mức doanh thu tạo ra bằng chi phí hoạt động mà công thức để tính
sản lượng và doanh thu hòa vốn được xác định như sau:

- Sản lượng hòa vốn (Q*)
Q*

=

F
P-V

- Doanh thu hòa vốn (S*)
F
1 – V/P
Trong đó: 1 – V/P: là tỷ lệ số dư đảm phí.
S*

=

b) Đòn bẩy tài chính DFL (đòn bẩy nợ)
Đòn bẩy tài chính là một khái niệm phản ánh mức độ doanh nghiệp sử dụng
các khoản nợ vay có lãi suất tương đối ổn định trong cơ cấu vốn của mình. Doanh
nghiệp được coi là có đòn bẩy tài chính cao khi tỷ trọng nợ trên tổng nguồn vốn của
doanh nghiệp cao. Đòn bẩy nợ càng cao thì rủi ro tài chính càng lớn.
Đòn bẩy tài chính vừa là một công cụ thúc đẩy lợi nhuận sau thuế trên một
đồng vốn chủ sở hữu, vừa là một công cụ kìm hãm sự gia tăng đó. Sự thành công hay
thất bại này tuỳ thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại khi lựa chọn cơ cấu tài chính.
Khả năng gia tăng lợi nhuận cao là điều mong ước của các chủ sở hữu, trong đó đòn
bẩy tài chính là một công cụ được các nhà quản lý ưa dùng.
Đòn bẩy tài chính được xác định bằng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (EPS)
với mức thay đổi tính bằng phần trăm của lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT)

DFL


=

Mức thay đổi tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (%)
Mức thay đổi lợi nhuận trước thuế và lãi vay (%)

Hay
DFL

=

EBIT
EBIT - I

Trong đó:
- DFL: là độ lớn đòn bẩy tài chính
- EBIT: là lợi nhuận trước thuế và lãi vay
- I: là lãi suất.
- 23 -


Vì lãi vay phải trả không đổi khi sản lượng thay đổi, do đó đòn bẩy tài
chính sẽ rất lớn trong các doanh nghiệp có tỷ số nợ cao, và ngược lại đòn bẩy tài
chính sẽ rất nhỏ trong các doanh nghiệp có tỷ số nợ thấp. Những doanh nghiệp
không mắc nợ (tỷ số bằng không) sẽ không có đòn bẩy tài chính. Như vậy, đòn
bẩy tài chính đặt trọng tâm vào tỷ số nợ. Khi đòn bẩy tài chính cao, chỉ cần một
sự thay đổi nhỏ của lợi nhuận trước thuế và lãi vay cũng làm thay đổi lớn tỷ lệ lợi
nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu nghĩa là tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ
sở hữu sẽ rất nhạy cảm với lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Về thực chất, đòn bẩy
tài chính phản ánh sự thay đổi của tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ trước

sự thay đổi của lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
Như vậy, độ lớn của đòn bẩy tài chính được xem như là tỷ lệ thay đổi của tỷ
suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi của lợi nhuận
trước thuế và lãi vay. Tuy nhiên nó cũng giống như đòn bẩy kinh doanh, nó cũng là
"con dao hai lưỡi". Nếu tổng tài sản không có khả năng sinh ra một tỉ lệ lợi nhuận đủ
lớn để bù đắp các chi phí tiền lãi vay phải trả thì tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn
chủ sở hữu bị giảm sút. Mặt khác vì phần lợi nhuận do vốn chủ sở hữu làm ra phải
dùng để bù đắp sự thiếu hụt của lãi vay phải trả nên thu nhập của một đồng vốn chủ
sở hữu sẽ còn lại rất ít so với tiền đáng lẽ sẽ được hưởng. Thêm vào đó đòn bẩy tài
chính được các nhà quản lý sử dụng để gia tăng tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn
chủ sở hữu theo công thức:

Tỷ lệ thay đổi về tỷ suất lợi nhuận
sau thuế trên vốn chủ sở hữu

= DFL x

Tỷ lệ thay đổi lợi nhuận
trước thuế và lãi vay

Có thể nói đòn bẩy tài chính cung cấp cho các nhà phân tích một công cụ
quan trọng để dự kiến tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu. Cần lưu ý là
khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ lớn để trang trải lãi vay thì tỷ suất lợi
nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bị giảm sút. Nhưng khi lợi nhuận trước thuế và
lãi vay đủ lớn thì chỉ cần sự gia tăng nhỏ về lợi nhuận trước thuế và lãi vay đã có sự
gia tăng lớn về tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu.
c) Đòn bẩy tổng hợp (DTL)
Đòn bẩy tổng hợp là sự kết hợp của đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh.
- 24 -



Đòn bẩy kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa chi phí cố định và chi phí
biến đổi. Độ lớn của đòn bẩy kinh doanh sẽ rất lớn ở những doanh nghiệp có chi phí
cố định cao hơn chi phí biến đổi. Đòn bẩy kinh doanh chỉ tác động tới lợi nhuận
trước thuế và lãi vay, bởi lẽ tỷ số nợ không ảnh hưởng tới độ lớn của đòn bẩy kinh
doanh. Còn độ lớn của đòn bẩy tài chính chỉ phụ thuộc vào tỷ số mắc nợ, không phụ
thuộc vào kết cấu chi phí cố định và chi phí biến đổi của doanh nghiệp. Do đó, đòn
bẩy tài chính tác động tới lợi nhuận sau thuế và lãi vay. Vì vậy, khi ảnh hưởng của
đòn bẩy kinh doanh chấm dứt thì ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính sẽ thay thế để
khuếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu khi doanh thu thay đổi. Vì lẽ đó người ta có thể
kết hợp đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính thành một đòn bẩy tổng hợp với
cách xác định sau:

DT
L

=

D

DF
L

x

L
T

Hay
DFL


S - VC
S – VC – F – I

=

Trong đó:
- S: là doanh thu
- VC: là tổng biến phí
- F: là định phí (chi phí cố đinh)
- I: là lãi suất.
Do đòn bẩy tổng hợp là sự kết hợp của đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh
doanh nên nếu doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh cao
thì sẽ gặp một tác động nhỏ về doanh thu gây tác động lớn về lợi nhuận trên mỗi cổ
phiếu tăng lên nhanh chóng. Chính bởi vậy nên doanh nghiệp cần lựa chọn một mức
độ phù hợp với doanh nghiệp mình để đạt được hiệu quả cao nhất.
1.2.5 Các phương pháp dung để phân tích tài chính
Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm hệ thống các công cụ
và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ
bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tình hình hoạt động tài
chính doanh nghiệp, các chỉ tiêu tổng hợp, các chỉ tiêu chi tiết, các chỉ tiêu tổng quát
- 25 -


×