Cơ sở lý luận về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
I. Cơ sở lý luận về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
1. Cổ phần hóa
Cho đến nay, trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội là không thể phủ nhận. Khi nền kinh tế thị trường phát triển
kéo theo hạn chế là sự cạnh tranh khốc liệt và bất bình về mặt xã hội tăng lên. Để
giảm bớt và kìm hãm những hạn chế trên, đồng thời thực hiện chức năng quản lý của
mình, Nhà nước sử dụng một công cụ hữu hiệu là bộ phận kinh tế Nhà nước, mà
trung tâm là các doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng việc lạm dụng quá mức sự can thiệp
của khu vực kinh tế Nhà nước sẽ kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh
tế. Từ đó vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển
xã hội đồng thời vai trò quản lý của Nhà nước vẫn được giữ vững.
Một hiện tượng kinh tế nổi bật trên toàn thế giới trong những năm 1980 là sự
chuyển đổi sở hữu Nhà nước : Chỉ tính từ năm 1984 đễn năm 1991, trên toàn thế
giới đã có trên 250 tỷ USD tài sản Nhà nước được đem bán.Chỉ riêng năm 1991 chiếm
khoảng 50 tỷ USD. Đến nay đã có hàng trăm nước phát triển trên thể giới đều xây
dựng và thực hiện cổ phần hoá một cách tích cực. Do đó, việc cổ phần hoá được coi
như là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục sự yếu kém trong kinh doanh của bộ
phận doanh nghiệp Nhà nước.Vậy cổ phần hoá là gì, vai trò, đặc điểm của nó ra sao,
mà nhiều nước trên thế giới sử dụng nó trong công tác quản lý kinh tế như vậy.
Theo tài liệu của hầu hết các học giả nước ngoài thì việc xem xét vấn đề cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn đó là
quá trình Tư nhân hoá. Tư nhân hoá theo như định nghĩa của Liên Hợp Quốc là sự
biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một
nước ưu tiên thị trường. Theo cách hiểu này thì toàn bộ các chính sách, thể chế, luật
lệ nhằm khuyến khích, mở rộng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt quyền sở hữu và sự can thiệp trực tiếp của
Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế tế cơ sở, giành cho thị
trường vai trò điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh đáng kể thông qua tự do hoá
giá cả, tự do lựa chọn đối tác và nghành nghề kinh doanh.
Xét về mặt hình thức, thì cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc Nhà
nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản của mình cho các cá nhân hay tổ chức
kinh tế trong hoặc ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân của chính
doanh nghiệp Nhà nước thông qua đấu thầu công khai, hay thông qua thị trường
chứng khoán để hình thành lên các Công ty TNHH hay Công ty Cổ phần.
Như vậy cổ phần hoá chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu
-chuyển hình thức kinh doanh từ một chủ sở hữu là doanh nghiệp Nhà nước thành
công ty Cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp
với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được nhu cầu của kinh doanh hiện đại.
Từ quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, có thể đưa ra khái
niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là: việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở
hữu là Nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp
đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà
nước sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp.
2. Nội dung của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
2.1. Đối tượng cổ phần hóa
Xuất phát từ thể chế chính trị, lịch sử, để phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện
kinh tế nước ta, đối tượng thực hiện cổ phần hoá là những doanh nghiệp Nhà nước
hội tụ đủ 3 điều kiện: có quy mô vừa và nhỏ; không thuộc diện Nhà nước giữ 100%
vốn đầu tư; có phương án kinh doanh hiệu quả hoặc tuy trước mắt có khó khăn
nhưng triển vọng tốt.
Trong 3 điều kiện này, điều kiện thứ 2 (doanh nghiệp không thuộc diện Nhà
nước giữ 100% vốn đầu tư) được coi là quan trọng nhất bởi những doanh nghiệp Nhà
nước giữ 100% vốn đầu tư là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, là đòn bẩy kinh
tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định theo đúng định hướng XHCN.
2.2. Về lựa chọn hình thức tiến hành Cổ phần hóa
Theo quy định thì có 4 hình thức Cổ phần hoá, Ban cổ phần hoá sẽ lựa chọn
một hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và người lao động. Các
hình thức đó là: giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp,
phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp; bán một phần giá
trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp; tách một bộ phận của doanh
nghiệp để cổ phần hoá; bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần.
2.3. Xác định giá trị doanh nghiệp
Đây là một khâu quan trọng và thường chiếm nhiều thời gian, công sức nhất
trong quá trình Cổ phần hoá. Có 2 nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp được đưa
ra, đó là:
Giá trị thực tế là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm
cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Người mua và
người bán cổ phần sẽ thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi. Tại
các nước có nền kinh tế phát triển, thoả thuận này diễn ra trên thị trường chứng
khoán, còn ở nước ta thoả thuận có thể diễn ra thông qua các công ty môi giới, kiểm
toán( đã diễn ra trên thị trường chứng khoán nhưng chưa phổ biến). Trên cơ sở xác
định được giá trị thực tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp sẽ là phần còn lại của giá trị thực tế sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải
trả.
Cơ sở xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu trong sổ sách kế
toán của doanh nghiệp tại thời điểm Cổ phần hoá và giá trị thực tế của tài sản tại
doanh nghiệp được xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật,
nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm Cổ phần hoá.
Nguyên tắc này được đặt ra để đảm bảo tính khách quan trong việc xác định giá trị
doanh nghiệp.
Thực tế việc Cổ phần hoá các doanh nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp đăng
ký Cổ phần hoá thường có xu hướng định thấp giá trị doanh nghiệp, thông qua việc
khai báo không chính xác như khai thấp giá trị TSCĐ của doanh nghiệp, khai không
đúng lượng vốn…từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc định giá trị doanh nghiệp và gây
thiệt hại cho Nhà nước. Ngược lại, hiện tượng cơ quan kiểm toán định giá cao hơn
giá trị thực của doanh nghiệp lại có thể làm thiệt hại cho người mua cổ phần.
2.4. Về việc xác định đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần
Các đối tượng được phép mua cổ phần đó là: các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, công dân Việt Nam, người nước ngoài định cư ở Việt Nam trong đó cná bộ công
nhân viên tại các doanh nghiệp Nhà nước là đối tượng được ưu tiên mua cổ phần.
Về số lượng cổ phần được mua có quy định như sau:
- Loại doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: Một pháp
nhân được mua không quá 10%, một cá nhân được mua không quá 5% tổng số cổ
phần của doanh nghiệp.
- Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt:
Một pháp nhân được mua không quá 20%, một cá nhân được mua không quá 10%
tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
- Loại doanh nghiệp Nhà nước không tham gia cổ phần: không hạn chế số lượng cổ
phần lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng phải đảm bảo số cổ đông
tối thiểu theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp.
Trên đây là mức quy định cụ thể về đối tượng mua cũng như mức mua cổ
phần, tuy nhiên nghị định 44/CP đã có sự điều chỉnh nhằm khuyến khích việc mua cổ
phần. Cụ thể là mọi người mua cổ phần sẽ được vay một cổ phiếu khi mua một cổ
phiếu bằng tiền mặt. Với người lao động, họ sẽ được Nhà nước bán cổ phần với mức
giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối tượng khác, mỗi năm làm việc tại doanh
nghiệp được mua tối đa 10 cổ phần. Đối với người lao động nghèo trong doanh
nghiệp cổ phần hoá, ngoài việc được mua cổ phần ưu đãi họ còn được hoãn trả tiền
mua cổ phần trong 3 năm đầu mà vẫn được hưởng cổ tức, số tiền này sẽ trả dần
trong 10 năm không phải trả lãi.
3. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
3.1. Khái niệm về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
Đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một trong những trọng tâm và là lĩnh vực
cải cách nhạy cảm, khó khăn nhất của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Đó là vì đây không phải là vấn đề kinh tế mà
còn là vấn đề mang tính tư tư tưởng, chính trị, xã hội và tâm lý. Đổi mới doanh
nghiệp nhà nước thường có 2 nội dung chủ yếu là giảm qui mô khu vực doanh nghiệp
nhà nước và cải cách thể chế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt sử dụng vốn nhà nước
đầu tư vào doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà
nước còn lại.
Có hai cách tiếp cận trong công tác tiến hành đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
Cách thứ nhất đó là tư nhân hóa nhanh chóng hầu hết các doanh nghiệp nhà nước và
cách thứ hai đó là vừa tiến hành từng bước quá trình cổ phần hóa, đa dạng hóa sở
hữu, vừa chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty
hiện đại. Đây cũng chính là cách thức mà Việt Nam đang tiến hành áp dụng. Việc
chuyển đổi doanh nghiệp sang hoạt động theo chế độ công ty hiện đại đã được chính
phủ thông qua trong nghị định số 95/2006 và theo qui định của luật doanh nghiệp
năm 2005 các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải chuyển đổi thành công ty TNHH 1
thành viên hoạt động theo luật doanh nghiệp.
Có thể hiểu khái niệm chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển
doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo mô hình công ty trong đó
không thay đổi bản chất sở hữu mà chỉ thay đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp
nhà nước. Vốn của các doanh nghiệp này vẫn do nhà nước nắm giữ 100% nhưng
doanh nghiệp được chủ động hơn, quyền hạn, nghĩa vụ, tổ chức, quản lý sau chuyển
đổi sẽ tương tự như các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp. Việc
chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty không chỉ là giải pháp để
giải tỏa sức ép chuyển đổi doanh nghiệp mà còn là phương tiện nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động và phát triển khu vực doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, hoạt
động theo thị trường để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững và nâng
cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
3.2. Các hình thức chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
3.2.1. Chuyển đổi DNNN sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con
Công ty mẹ- công ty con là loại hình liên kết mới mang bản chất đầu tư hoặc
liên kết tài chính giữa các doanh nghiệp sau khi cơ cấu lại các đơn vị thành viên tổng
công ty, hoặc cơ cấu lại các đơn vị thuộc các công ty nhà nước độc lập quy mô lớn,
hoặc doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. Kết quả của quá trình này là các công
ty tự đầu tư, góp vốn mua cổ phần của nhau hoặc của các doanh nghiệp khác ngoài
tổng công ty, dẫn đến hình thành loại doanh nghiệp chi phối doanh nghiệp khác. Hiện
nay hầu hết các tổng công ty đều đã và đang đẩy mạnh đa dạng hóa sở hữu các đơn
vị thành viên, có tổng công ty đã cổ phần hóa hơn 50% đơn vị thành viên của mình.
Trong cơ cấu của tổng công ty này có loại hình công ty nhà nước qui mô lớn( là công
ty mẹ) nắm giữ quyền chi phối công ty khác( là công ty con). Bên cạnh đó cũng có các
doanh nghiệp độc lập ngoài tổng công ty, thậm chí doanh nghiệp thành viên của tổng
công ty cũng thực hiện các hoạt động đầu tư, góp vốn mua cổ phần tương tự và trở
thành công ty mẹ- công ty con.
Hiện nay có hai con đường để các tổng công ty và công ty nhà nước độc lập
chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Một số doanh nghiệp
chuyển đổi theo đề án do Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Trong khi đó, nhiều doanh
nghiệp đã hoạt động theo mô hình này một cách thực chất, không bằng giải pháp
hành chính chuyển đổi mà thông qua nhiều biện pháp kinh tế khác nhau như đầu tư
vào các doanh nghiệp, cổ phần hóa và đa dạng hóa đơn vị sở hữu thành viên, mua cổ
phần hoặc góp vốn, trong đó tổng công ty hoặc công ty nhà nước độc lập giữ cổ
phần, vốn góp chi phối.
Đến nay có 70 DNNN là tổng công ty, công ty nhà nước độc lập hoặc là thành
viên của tổng công ty được chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ -
công ty con. Trong đó, có 52 DNNN chuyển đổi theo đề án của Thủ tướng chính phủ
phê duyệt và 18 doanh nghiệp do các Bộ, UBND cấp tỉnh phê duyệt, mà thực chất
trong số đó nhiều doanh nghiệp trên thực tế đã hình thành cơ cấu công ty mẹ - công
ty con.
Mô hình công ty mẹ-công ty con không còn giới hạn trong khu vực DNNN mà
đã mở rộng ra khu vực kinh tế tư nhân, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mô
hình này đã tạo ra hướng liên kết hoàn toàn mới, bền chặt hơn bằng đầu tư, góp vốn
giữa các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, phù hợp
với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Liên kết
bằng vốn đầu tư này là hoàn toàn tự nguyện, phụ thuộc vào năng lực tài chính của
các công ty tự đầu tư vào nhau này. Những nhược điểm cố hữu của mô hình tổng
công ty nhà nước đang được khắc phục, nhất là nhược điểm về liên kết và tính đơn
điệu trong cơ cấu đơn vị thành viên.
3.2.2. Chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH 1 thành viên
Các doanh nghiệp thuộc đối tượng chưa chuyển đổi sở hữu, nhà nước còn
nắm giữ 100% vốn sẽ được chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên hoạt
động theo luật doanh nghiệp. Cho đến nay có khoảng 200 doanh nghiệp chuyển đổi
theo hình thức này và nhiều công ty TNHH một thành viên được thành lập mới từ
vốn nhà nước. Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm
2006 qui định các doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ 100% vốn sẽ phải chuyển
sang công ty TNHH một thành viên trong thời hạn tối đa là 4 năm. Như vậy, số 1800
doanh nghiệp mà Nhà nước còn nắm giữ 100% vốn theo kế hoạch đến cuối năm
2006, kể cả tổng công ty, các công ty mẹ, sẽ phải chuyển dần sang công ty TNHH một
thành viên và hoàn thành chuyển đổi vào thời điểm ngày 1 tháng 7 năm 2010.
Việc chuyển công ty nhà nước sang công ty TNHH một thành viên không chỉ là
sự chuyển đổi về hình thức pháp lý mà quan trọng hơn là thông qua sự chuyển đổi
tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước phát huy
đầy đủ quyền chủ động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bình đẳng với các
doanh nghiệp khác về quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức quản lý và môi trường hoạt
động kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, tiến dần đến việc các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế đều hoạt động theo một quy luật chung.
3.2.3. Chuyển đổi cơ chế quản lý đối với DNNN
Đối với các DNNN mà Nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% vốn, dù đã chuyển đổi
sang công ty TNHH một thành viên hay chưa chuyển đổi, vẫn phải tiếp tục đổi mới cơ
chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh
bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Đối
với những DNNN đã chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên, thì hoạt động
hoàn toàn theo luật doanh nghiệp bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Những
DNNN chưa chuyển đổi theo nghị quyết TW3(khóa IX) cần xóa bao cấp, đồng thời có
chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực, sản
phẩm cần ưu tiên phát triển, trừ những bảo hộ cần thiết, có điều kiện đối với những
ngành, lĩng vực, sản phẩm quan trọng. Nghị quyết TW9 (khóa IX) đã phát triển thêm
một bước về cơ chế quản lý là yêu cầu kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý,
sớm khắc phục bao cấp bao gồm khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lỗ, cấp vốn tín dụng
ưu đãi tràn lan, yêu cầu khẩn trương xóa đặc quyền và độc quyền kinh doanh của
DNNN theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm qua đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng như
luật DNNN năm 2003, 2005, các Nghị định, quyết định và các văn bản hướng dẫn
nhằm đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
công ty nhà nước, ngăn chặn khả năng kém hiệu quả của DNNN ngay từ khi thành
lập, ban hành cơ chế quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với DNNN, thành lập công ty
mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, ban hành chính sách đối với lao
động dôi dư do sắp xếp lại DNNN… Yêu cầu đối với DNNN phải không ngừng được đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, lấy suất sinh lời trên vốn là một trong những
tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả. Sau khi ban hành luật DNNN và Nghị định
31/2005/ ND-CP về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, không còn loại
DNNN chuyên sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước bắt đầu
khuyến khích nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất
những sản phẩm, dịch vụ công ích mà xã hội cần mà pháp luật không cấm và chuyển
sang đặt hàng và đấu thầu sản phẩm công ích.
Cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoạt động theo
luật DNNN được đổi mới cơ bản, theo hướng tiến tới sự ngang bằng về quyền tự chủ
so với doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp phải sản xuất
kinh doanh với các nguyên tắc thị trường, giảm thiểu tình trạng lãng phí nguồn lực
nhà nước đầu tư, phải đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích cùng với các
thành phần kinh tế khác, chuyển dần sang cơ chế thuê giám đốc, có thể thuê cả
người nước ngoài… Công ty nhà nước có các quyền chiếm hữu và sử dụng đối với
vốn và tài sản như các loại hình doanh nghiệp khác.
3.2.4. Chuyển đổi quyền chủ sở hữu
Đây là vấn đề đề khó khăn nhất của chuyển đổi DNNN, mặc dù là nội dung
quan trọng và được đề cập nhiều trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Từ Đại
hội Đảng VII và các Đại hội Đảng tiếp theo, cũng như trong nhiều nghị quyết Trung
ương của các kỳ Đại hội Đảng đã đưa ra các chủ trương như: xóa bỏ chế độ chủ quản,
cấp hành chính chủ quản, phân biệt quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, chuyển
sang thực hiện chế độ quản lý công ty đối với DNNN, đầu tư vốn qua các công ty đầu
tư tài chính nhà nước, thành lập các công ty đầu tư tài chính nhà nước; Hội đồng
quản trị là đại diện trực tiếp sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp; Chính phủ thống
nhất quản lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DNNN, chính phủ
ủy quyền cho các bộ, phân cấp cụ thể cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, Hội đồng quản trị tổng công ty nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu của nhà
nước phù hợp với các loại hình doanh nghiệp có vốn nhà nước, bảo đảm ở đâu có
vốn của nhà nước thì phải có tổ chức hoặc cá nhân được giao quyền đại diện nhà
nước làm chủ sở hữu trực tiếp với nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm rõ
rang, không phân biệt DNNN do Trung ương hay địa phương quản lý…
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
1. Các nhân tố chủ quan
1.1. Xây dựng và phê duyệt phương án chuyển đổi
Một trong những thủ tục mà doanh nghiệp cần phải làm khi chuyển đổi thành
mô hình công ty là xây dựng điều lệ công ty sau chuyển đổi. Tuy nhiên, do vướng mắc
về mô hình tổ chức (đa số doanh nghiệp mong muốn chọn phương án Chủ tịch công
ty kiêm Tổng giám đốc nhằm tạo sự đơn giản, gọn nhẹ về bộ máy và tiết kiệm chi
phí), nhưng chưa có quy định cụ thể có cho phép hay không cho phép Chủ tịch kiêm
Giám đốc công ty, nên việc xây dựng, phê duyệt phương án chuyển đổi và xây dựng,
phê duyệt điều lệ bị kéo dài. Một số địa phương và doanh nghiệp tự quyết định chọn
phương án kiêm nhiệm giữa 2 chức danh này.
Bên cạnh đó, việc kết hợp tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp (trong cùng một
ngành, lĩnh vực) với quá trình chuyển đổi cũng dẫn đến quá trình chuyển đổi bị kéo
dài tại một số tỉnh. Hoặc, việc chưa hướng dẫn cụ thể xác định vốn điều lệ của các
công ty đặc thù như các công ty thủy nông (trong thực tế chỉ được giao quản lý và sử
dụng tài sản nhà nước) cũng gây khó khăn, tùy tiện trong xác định vốn điều lệ, kéo
dài thời gian chuyển đổi (có địa phương xác định vốn điều lệ bằng tổng giá trị tài sản
nhà nước giao cho công ty quản lý và sử dụng, nhưng cũng có địa phương xác định
vốn điều lệ bằng 30% tổng giá trị tài sản nhà nước giao cho công ty quản lý và sử
dụng).
Ngoài ra, những vướng mắc về cơ chế hoạt động xảy ra trong thực tế ở một số
doanh nghiệp đã chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cũng
ảnh hưởng không nhỏ tới nỗ lực của các doanh nghiệp đang chuẩn bị chuyển đổi;
chưa tạo ra sự thống nhất và đồng thuận giữa cấp phê duyệt với cán bộ quản lý và
người lao động trong doanh nghiệp.
1.2. Hoạt động đăng ký kinh doanh
Hoạt động đăng ký kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên chuyển đổi từ công ty nhà nước vẫn còn một số vấn đề phát sinh, tạo tâm lý
không tốt cho doanh nghiệp về môi trường hoạt động sau chuyển đổi.
Thực tế này có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do chưa quy định rõ ràng
và cụ thể, thiếu nhất quán trong nhận thức giữa cơ quan đăng ký kinh doanh và
doanh nghiệp chuyển đổi,... Cụ thể là:
- Chưa quy định, nhận thức rõ về sở hữu vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên nên đã dẫn đến tình trạng cán bộ đăng ký kinh doanh tại một số
địa phương yêu cầu doanh nghiệp phải có quyết định chia vốn điều lệ cho các thành
viên Hội đồng thành viên nắm giữ, sở hữu như công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên; yêu cầu doanh nghiệp phải ghi thêm lời giải thích vào ngành nghề
đăng ký trong khi ngành, nghề này đã được ghi rõ trong quyết định chuyển đổi.
- Tuy luật doanh nghiệp qui định doanh nghiệp có quyền chủ động lựa chọn ngành
nghề, địa bàn kinh doanh đầu tư, nhưng vẫn còn có ý kiến cho rằng ngành nghề kinh
doanh của công ty con phải đúng như ngành nghề kinh doanh của công ty mẹ. Vì vậy
dẫn đến tình trạng cấp giấy đăng kí kinh doanh cho công ty con hoạt động trong mô
hình công ty mẹ - công ty con ở một số sở kế hoạch và đầu tư còn lúng túng làm
chậm hoặc cấp phép cho doanh nghiệp chưa đúng theo qui định hiện hành.
1.3.Về mặt tài chính và tư tưởng
Nhiều doanh nghiệp (gồm cả lãnh đạo và người lao động) cũng như nhiều cấp
quản lý vẫn ngại chuyển đổi do sợ mất đi nhiều quyền lợi. Có người lại nhận thức sai
về chuyển đổi cho rằng việc việc chuyển đổi hình thức sở hữu sẽ dẫn đến mất chế độ,
chệch hướng XHCN…Có tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp Nhà nước
và các doanh nghiệp đã Cổ phần hoá nhất là tại các tổ chức tín dụng ngân hàng. Việc
tìm đối tác liên doanh, liên kết ở các công ty cổ phần cũng gặp khó khăn. Doanh
nghiệp Nhà nước vẫn được ưu đãi nhiều hơn. làm ăn thua lỗ vẫn được vay không
phải trả lãi, bù lỗ từ ngân sách Nhà nước và một số ưu đãi khác. Tất cả đều tác động
lớn tới tâm lý của các doanh nghiệp chuẩn bị bước vào chuyển đổi, cổ phần hóa.
Mặt khác, nhiều giám đốc của các doanh nghiệp Nhà nước sợ rằng chuyển đổi
DNNN sẽ làm mất đi quyền lực vốn có bấy lâu nay. Tư tưởng bao cấp đã ăn sâu vào
suy nghĩ của nhiều doanh nghiệp nên cố tình trì hoãn chuyển đổi, lảng tránh nhiệm
vụ mới.
Nhiều quan niệm cho rằng các hình thức chuyển đổi DNNN ở Việt Nam là một
quá trình rối rắm, phức tạp và tốn thời gian, làm hao tổn các nguồn lực tài chính và
làm giảm sút sự kiên nhẫn của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam chưa có một
phương pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc
tế. Sự phức tạp này còn gia tăng bởi những yếu tố đi kèm như: việc xử lý nợ khó đòi,
thẩm định giá trị nhà xưởng máy móc thiết bị và quyền sử dụng đất. Do đó việc định
giá tài sản doanh nghiệp thường là khâu kéo dài nhất (khoảng trên 3 tháng).
Hiện nay, việc thiếu một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo tiêu
chuẩn quốc tế sẽ làm cho chúng ta khó khăn rất nhiều trong việc huy động vốn từ các
nhà đầu tư nước ngoài, một yếu tố không thể xem nhẹ trong xu hướng hội nhập và
toàn cầu hoá hiện nay.
2. Các nhân tố khách quan
2.1. Pháp luật và cơ chế chính sách
Các quy định về chế độ với doanh nghiệp sau khi chuyển đổi vẫn chưa rõ ràng.
Các quy định được sửa đổi và bổ sung thường thì càng về sau càng có lợi, càng có
nhiều ưu đãi. Chính vì vậy, về mặt tâm lý, các doanh nghiệp không muốn triển khai
nhanh mà chờ đợi để được hưởng ưu đãi nhiều hơn.
Các văn bản quy định về Cổ phần hoá đã được ban hành cũng có nhiều vấn đề
cần xem xét lại. Quy định về bán cổ phần ưu đãi cho người lao động cũng không
được cụ thể hóa, linh hoạt. Có nơi người lao động không có tiền mua cổ phần ưu đãi;
lại có nơi do vốn Nhà nước ít, số lượng cổ phần bán ra hạn chế, không đủ cho nhu
cầu.
Cho đến nay, quá trình Cổ phần hoá còn chưa có một phương hướng chiến
lược rõ ràng. Từ trước đến nay, Cổ phần hóa được chủ yếu tiến hành trên cơ sở tự
nguyện mà không có quy định phải ưu tiên Cổ phần hoá đối với loại hình doanh
nghiệp hay thành phần kinh tế nào. Trên thực tế, Chính phủ dường như đi theo con
đường Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhỏ trước, các doanh nghiệp lớn sau. Do đó, tỷ
lệ các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm một phần nhỏ trong số các doanh nghiệp đã được
Cổ phần hoá .