Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Sử dụng công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.86 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN VĨNH THỤY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1- KHÁI NIỆM VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

1

2- MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

2

3- NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

4

3.1- Chính sách cung ứng và điều hòa tiền tệ

4

3.2- Chính sách tín dụng



6

3.3- Chính sách ngoại hối

7

4- NHỮNG CÔNG CỤ ĐỂ THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

8

4.1- Dự trữ bắt buộc

8

4.2- Lãi suất

9

4.3- Tỷ giá hối đoái

10

4.4- Tái cấp vốn

12

4.5- Nghiệp vụ thò trường mở

13


4.6- Các công cụ khác

14

5- MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

15

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

20

1- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHNN VIỆT NAM 20
1.1- Khái quát sự ra đời của ngân hàng trung ương

20

1.2- Sự ra đời của ngân hàng nhà nước Việt Nam

21

1.3- Chức năng của ngân hàng trung ương

22

2- THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG THỜI GIAN QUA
2.1- Lãi suất


23
23

Trang 1


2.2- Tỷ giá hối đoái

30

2.3- Dự trữ bắt buộc

35

2.4 Nghiệp vụ thò trường mở

37

2.5- Tái cấp vốn

38

3- ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG THỜI GIAN QUA

40

CHƯƠNG 3 : ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

1- MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRONG ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

43

2- NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 43
3- ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 44
3.1- Tái cấp vốn

44

3.2- Nghiệp vụ thò trường mở

45

3.3- Tỷ giá hối đoái

47

3.4- Lãi suất

51

3.5- Dự trữ bắt buộc

54

KẾT LUẬN

56


Trang 2


MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, phát
triển và tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia. Trong khi
nền kinh tế phát triển thấp, tích lũy từ nội bộ không nhiều, cá nguồn lực của nền
kinh tế chưa có điều kiện để khai thác thì việc hỗ trợ của dòng vốn từ bên ngoài là
rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng đối với việc tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên
để có thể thu hút dòng vốn từ bên ngoài này đòi hỏi chúng ta phải thực thò hàng
loạt các chính sách kinh tế có liên quan, nhằm tạo môi trường cho dòng vốn được
lưu chuyển dưới tác động của cung cầu tiền tệ trên thò trường.
Bởi vì tiền tệ là vấn đề hết sức nhạy cảm, việc thực thi chính sách tiền tệ
không những tác động đến tình trạng của nền kinh tế quốc gia mà còn ảnh hưởng
đến các nước khác do xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới. Mặt
khác việc thực thi chính sách tiền tệ rất đa dạng, phần lớn tùy vào quan điểm nhận
đònh của các nhà lãnh đạo, tuy nhiên cho dù thế nào thì những gì đúc kết từ thực
tiễn điều hành chính sách vẫn là cơ sở quan trọng nhất cho việc đònh hướng, hoàn
thiện về sau. Trên tinh thần đó, đề tài “Sử dụng các công cụ trong điều hành chính
sách tiền tệ của ngân hàng nhà nùc Việt Nam hiện nay” xin đóng góp một phần
nhỏ vào việc phản ánh lại thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của nước ta trong
thời gian qua và hiện nay.
2- Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Như đã đề cập ở trên, đề tài đi sâu vào việc phản ánh thực trạng điều hành
chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời
trên cơ sở đó cũng đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trước mắt

Trang 3



nhằm bảo đảm các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên do đề tài quá rộng
lớn, đề tài vẫn chưa thể nghiên cứu một cách sâu sắc, mà chỉ
3- Phương pháp nghiên cứu
Trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lòch sử, phương pháp nghiên
cứu là phân tích, tổng hợp, thống kê, quy nạp, nội suy…
4- Kết cấu đề tài
Nội dung của đề tài được chia làm 3 chương :
- Chương 1 : Lý luận về chính sách tiền tệ
- Chương 2 : Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ
- Chương 3 : Đònh hướng hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ

Trang 4


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1- KHÁI NIỆM CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Như ta đã biết, tiền tệ là kết quả tất yếu của nền sản xuất hàng hóa, đóng
vai trò là vật ngang giá chung để đo lường và biểu hiện giá trò của tất cả các hàng
hóa khác. Chính vì tiền tệ biểu hiện giá trò của hàng hóa, mà kể từ khi tiền tệ ra
đời sản phẩm của nền sản xuất hàng hóa được phân ra thành 2 cực : một bên là
khối lượng hàng hóa được sản xuất ra, một bên là khối lượng tiền tệ phản ánh giá
trò của khối lượng hàng hóa đó.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các chế độ tiền tệ, chế độ tiền giấy ra
đời (đặc biệt là khi chế độ bản vò vàng không còn nữa) lúc đó khối lượng tiền phản
ánh giá trò các hàng hóa không còn là ý muốn khách quan nữa, mà nó phụ thuộc
vào các nhà cầm quyền cung ứng tiền vào lưu thông là bao nhiêu, nhằm thực hiện
ý đồ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Những quyết đònh về cung ứng tiền,

điều tiết lượng tiền trong lưu thông được thể hiện trong các chính sách quản lý kinh
tế của các nhà nước và đó chính là chính sách tiền tệ. Như vậy có thể nói chính
sách tiền tệ là hệ thống các quan điểm, chủ trương và biện pháp của nhà nước
nhằm tác động và điều chỉnh các hoạt động về tiền tệ - tín dụng, ngân hàng và
ngoại hối, tạo ra sự ổn đònh của lưu thông tiền tệ để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Theo điều 2 của luật ngân hàng nhà nước Việt Nam thì :”Chính sách tiền tệ
là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của nhà nước nhằm ổn đònh giá trò
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân”. Với chính sách này
“Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động của ngân hàng, động viên các nguồn
lực trong nước, đồng thời tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, tạo nguồn vốn để
phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó giữ vững đònh hướng XHCN, giữ vững chủ quyền

Trang 5


quốc gia, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Theo điều 3 của luật ngân hàng nhà nước Việt Nam : Quốc hội quyết đònh
việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, chính phủ thực hiện việc xây dựng chính
sách tiền tệ quốc gia trình Quốc hội phê duyệt, đồng thời tổ chức việc thực hiện
chính sách tiền tệ thông qua các cơ quan chức năng.
Ngân hàng nhà nước là cơ quan chức năng của chính phủ, giúp chính phủ
soạn thảo để đề ra chính sách tiền tệ quốc gia trình quốc hội và là người trực tiếp
điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia là cơ quan của chính phủ giúp tư
vấn cho chính phủ trong các chính sách tiền tệ.
Mục đích của chính sách tiền tệ là nhằm điều tiết lượng tiền trong lưu thông,
sự điều tiết này thể hiện qua 2 hướng :
*/ Hướng chính sách mở rộng tiền tệ : chính sách này nhằm làm tăng khối

lượng tiền của nền kinh tế và vì thế sẽ làm tăng tiêu dùng, mở rộng đầu tư, mở
rộng sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện vực dậy nền kinh tế đang bò suy thoái, tạo
công ăn việc làm, giải quyết các vấn đề về xã hội.
*/ Hướng chính sách thắt chặt tiền tệ : chính sách này nhằm hạn chế cung
tiền cho nền kinh tế nhằm ngăn chặn lạm phát.
Tóm lại : việc điều tiết lượng cung tiền như thế nào để cho nền kinh tế phát
triển một cách nhòp nhàng luôn là vấn đề nan giải của mỗi quốc gia, thiếu hày thừa
tiền luôn có tác động tiêu cực của nó. Tuy nhiên, trong thực tế điều hành chính
sách tiền tệ tùy vào từng thời kỳ phát triển kinh tế, tùy vào hoàn cảnh cụ thể của
kinh tế xã hội mà sử dụng chính sách thắt chặt hay mở rộng tiền tệ. Đây cũng là
vấn đề mang tính nhạy cảm của các nhà điều hành chính sách tiền tệ.
2- MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
2.1- Chính sách tiền tệ phải hướng vào ổn đònh giá cả, ổn đònh giá trò đồng tiền.
Trang 6


Như ta đã biết giá cả của hàng hóa thể hiện sức mua của đồng tiền quốc gia,
chính vì vậy ổn đònh giá cả cũng chính là cơ sở bền vững để ổn đònh sức mua của
đồng tiền.
Một nền kinh tế với giá cả ổn đònh, lạm phát thấp sẽ làm cho mức tăng thu
nhập của người dân thực tế sẽ dương, đời sống người lao động sẽ tốt hơn, đồng thời
chi phí sử dụng vốn vay cũng thấp hơn sẽ kích thích đầu tư. Bên cạnh đó là uy tín
của chính phủ sẽ tăng lên, nhân dân sẽ tin tưởng vào đường lối, chính sách của nhà
nước và đây là cơ sở để giữ vững ổn đònh xã hội. Ngược lại, khi giá cả có tỷ lệ lạm
phát cao, phần tăng thu nhập không tăng kòp với phần tăng giá sẽ làm cho đời sống
người lao động thêm khó khăn, nạn đầu cơ phát sinh, khoảng cách giàu nghèo càng
lớn dần và nhân dân sẽ mất niềm tin vào chính phủ. Như vậy thực chất của mục
tiêu này là kiểm soát được lạm phát làm cơ sở để bảo vệ giá trò đối nội và đối
ngoại của đồng tiền, đây là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách tiền tệ.
2.2- Chính sách tiền tệ phải tạo nền tảng tài chính ổn đònh.

Một nền kinh tế muốn tăng trưởng cao, bền vững cần phải có một nền tảng
tài chính ổn đònh để hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tín
dụng (TCTD) có thể hoạt động có hiệu quả. Nền tảng tài chính ổn đònh được hiểu
là bằng chính sách tiền tệ ngân hàng trung ương phải ổn đònh hoạt động của hệ
thống tài chính trong nước một cách gián tiếp, bao gồm cả thu thập thông tin,
hướng dẫn, ngăn ngừa rủi ro cho các tổ chức tài chính theo hướng quản lý các hoạt
động của nó phù hợp với các mục tiêu của nền kinh tế. Bởi vì bản thân hệ thống tài
chính cũng có những mục tiêu riêng của nó và nhiều khi những mục tiêu này lại
trái ngược với những mục tiêu chung của nền kinh tế. Vì vậy mục tiêu của chính
sách tiền tệ là phải hướng đến giải quyết hài hòa giữa các mục tiêu để phục vụ cho
lợi ích chung mà không làm hạn chế khả năng phát triển của hệ thống tài chính.
2.3- Chính sách tiền tệ phải hướng đến bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng.

Trang 7


Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu trong chính sách
kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Vì vậy đây là mục tiêu cơ bản và tất yếu của
chính sách tiền tệ. Muốn tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải mở rộng đầu tư, mở rộng
tiềm năng sản xuất. Do đó chính sách tiền tệ cần phải nhằm vào việc khuyến
khích, động viên các nguồn lực trong và ngoài nước một cách có hiệu quả nhất,
đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.
3- NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
3.1- Chính sách cung ứng và điều hòa tiền tệ
Đây là chính sách nhằm duy trì một sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu
về tiền tệ trong nền kinh tế. Từ đó tác động đến các biến số kinh tế vó mô như : giá
cả, tổng cầu, lãi suất, thu nhập, sản lượng… Chính vì vậy mà khi ngân hàng trung
ương điều tiết cung ứng tiền cũng có nghóa là bắt đầu tiến hành điều tiết nền kinh
tế. Ảnh hưởng của cung ứng tiền đến nền kinh tế thể hiện qua hai chính sách thắt
chặt tiền tệ hoặc mở rộng tiền tệ.

Chính sách mở rộng tiền tệ làm cho tiền tệ trở nên dồi dào hơn với chi phí
thấp, người tiêu dùng và nhà sản xuất không mấy khó khăn để có tiền. Điều này
kích thích họ tiêu dùng cho cuộc sống và tiêu dùng cho đầu tư nhiều hơn. Sự gia
tăng trong tiêu dùng và đầu tư làm sản xuất được mở rộng, sản xuất được mở rộng
sẽ thu hút nhân công nhiều hơn, giảm thất nghiệp và gia tăng thu nhập quốc dân,
nền kinh tế sẽ tăng trưởng. Tuy nhiên áp lực của chính sách này là lạm phát có xu
hướng tăng. Ngược lại, chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho chi phí để có tiền trở
nên cao hơn và tiền tệ trở nên khan hiếm hơn, người tiêu dùng và nhà sản xuất
phải giảm tiêu dùng và đầu tư. Tiêu dùng giảm kéo theo tổng cầu giảm và giá cả
hạ, tổng cầu giảm làm cho sản xuất bò thu hẹp lại, thất nghiệp tăng, thu nhập quốc
dân giảm, nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng suy thoái.
Để thấy rõ mức cung tiền tệ tác động đến điều tiết vó mô ta hãy xét biểu đồ
sau (biểu đồ 1) :
Trang 8


- Giả sử ban đầu đường cung tiền là SM0 tương ứng với nhu cầu tiền trong
nền kinh tế là DM. Thò trường tiền tệ cân bằng tại điểm E0 có lãi suất R0 và mức
cung tiền là M0 . Với mức lãi suất và lượng cung tiền này, cân bằng cung - cầu về
hàng hóa và dòch vụ trong nền kinh tế là tại E’0 tương ứng với chi phí biên của tiền
là MC0 và sản lượng của nền kinh tế sản xuất ra là Y0.
Với chính sách thắt chặt tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ thu hẹp cung tiền
từ SM0 đến SM1, với mức cung tiền mới này lãi suất sẽ tăng từ R0 lên R1 do lượng
tiền bò giảm từ M0 xuống M1. Tiền tệ khan hiếm với lãi suất cao trên thò trường tiền
tệ đã làm cho chi phí biên của tiền trên thò trường hàng hóa tăng từ MC0 lên MC1
(tức chi phí để tạo ra một đơn vò sản lượng tăng). Do chi phí biên của tiền tăng, tiêu
dùng và sản xuất đều thiếu vốn đã làm cho cung cầu về hàng hóa và dòch vụ giảm
từ Y0 xuống Y1.
Lãi suất


SM1
SM0
E1

R1
R0
R2

SM2

E0

(Thò trường tiền tệ)

E2
DM
M1

M0

CP biên của tiền

Mức cung tiền

M2
S1
S0

MC1
MC0

MC2



E1

E’0

S2
(Thò trường hàng hóa)

E’2
D

Y1

Y0

Y2

Sản lượng

(Biểu đồ 1 : tác động của mức cung tiền tệ)

Trang 9


- Giả sử sau một thời gian áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm
phát, với đà sụt giảm về tiêu dùng và đầu tư đã buộc ngân hàng trung ương chuyển
từ chính sách thắt chặt tiền tệ sang chính sách mở rộng tiền tệ. Tổng cung tiền sẽ

tăng từ SM1 lên SM2, cân bằng tiền tệ được xác lập với lãi suất R2 tương ứng với
mức cung tiền mới là M2. Lãi suất hạ do lượng tiền cung ứng tăng lên đã làm cho
chi phí biên của tiền giảm từ MC1 xuống MC2 đã kích thích tiêu dùng và đầu tư,
thất nghiệp giảm, sản lượng quốc gia tăng từ Y1 lên Y2.
*/ Thành phần của mức cung tiền :
Cơ cấu của lượng cung tiền trong nền kinh tế bao gồm :
n Tiền giao dòch : đây chính là khối lượng tiền dùng trực tiếp làm phương
tiện lưu thông và phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, bao gồm :
- Tiền mặt đang lưu hành : tức tiền trong tay nhân dân, tiền trong các
đơn vò, tổ chức đoàn thể hoặc tiền mặt trong các quỹ nghiệp vụ của hệ thống
ngân hàng.
- Tiền gửi không kỳ hạn.
o Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn.
p Các loại tiền gửi khác và các khoản khác coi như tiền ví dụ như : tiền ký
quỹ, hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu ngắn hạn..
*/ Cầu về tiền tệ : Cầu về tiền tệ không trực tiếp quyết đònh mức cung tiền
tệ, bởi vì mức cung tiền tệ nhiều hay ít phụ thuộc vào quyết đònh của ngân hàng
trung ương. Cầu tiền tệ chỉ tác động gián tiếp đến cung tiền tệ tông qua các biến
động về giá cả, lãi suất trên thò trường.
Cầu tiền tệ được xác đònh :
Mc =

pq
v

Mc : khối lượng tiền cần thiết
p.q : tổng giá cả hàng hóa và d/v
v : tốc độ lưu thông của tiền hay
vòng quay của tiền


Trang 10


Để xác đònh nhu cầu tiền tệ thực tế, dựa vào tỷ lệ tăng trưởng GDP và tỷ lệ
lạm phát :
Nhu cầu tiền tệ = tiền cung ứng hiện có * (1 + %∆GDP + %∆P)
Ví dụ : %∆GDP = 8%, %∆P = 10% thì :
Nhu cầu tiền tệ = tổng tiền hiện có *1,18
3.2- Chính sách tín dụng
3.2.1- Tín dụng đối với nền kinh tế :
Đây là chính sách nhằm tạo cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, đóng vai trò là
đòn bẩy cho sự phát triển của nền sản xuất. Ngân hàng trung ương sẽ tạo ra một
sân chơi cho các ngân hàng thương mại hoạt động, cung cấp tín dụng qua con
đường tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp này ngân hàng
trung ương đóng vai trò như là người cho vay cuối cùng. Tuy nhiên, cũng thông qua
đó mà ngân hàng trung ương sẽ kiểm soát được các khoản tín dụng cả về chất
lượng lẫn số lượng. Như vậy tùy vào tình hình phát triển kinh tế của từng thời kỳ
mà ngân hàng trung ương sẽ có chính sách cung ứng tín dụng khác nhau tương ứng
với việc thắt chặt hay mở rộng cung tiền.
3.2.2- Tín dụng đối với ngân sách nhà nước :
Trong quá trình thực hiện vai trò và chức năng của mình, ngoài việc chi tiêu
cho bộ máy hoạt động nhà nước còn chi cho phát triển cơ sở hạ tâ2ng, các dòch vụ
công cộng, xây dựng các công trình trọng điểm tạo động lực cho phát triển kinh tế.
Việc cải thiện thâm hụt ngân sách có thể thực hiện thông qua vay nợ dưới hình
thức phát hành trái phiếu, công trái, ngoài ra có thể vay ngân hàng trung ương hoặc
vay nợ nước ngoài, các tổ chức thế giới. Tuy nhiên, nếu vay ngân hàng trung ương
hay nước ngoài nhiều sẽ làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế tăng lên sẽ dễ
tạo nguy cơ lạm phát. Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là tạm ứng cho ngân
sách nhà nước, thực hiện việc mua bán, chiết khấu trái phiếu, công trái của chính
phủ.


Trang 11


3.3- Chính sách ngoại hối
Chính sách này nhằm ổn đònh tỷ giá hối đoái, ổn đònh sức mua đối
ngoại của đồng tiền quốc gia. Việc thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái có thể theo
các cơ chế sau :
*/ Cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi :
Theo cơ chế này chính phủ hoàn toàn không can thiệp đến thay đổi của tỷ
giá hối đoái, tỷ giá hối đoái biến động theo quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thò
trường. Tuy nhiên cơ chế này chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho các nhà đầu tư do
sự thay đổi liên tục của tỷ giá hối đoái, đặc biệt là nạn đầu cơ tiền tệ và vì thế có
thể gây phương hại đến nền tài chính quốc gia.
*/ Cơ chế tỷ giá cố đònh :
Đây là cơ chế ngược với cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi, chính phủ sẽ ấn đònh
một mức tỷ giá nào đó và sẽ duy trì mức đó bất chấp quan hệ cung cầu ngoại tệ
trên thò trường là như thế nào, và để có thể duy trì mức tỷ giá này chính phủ phải
dùng đến dự trữ ngoại tệ : nếu cầu ngoại tệ ở mức tỷ giá hiện hành cao hơn cung
trên thò trường thì chính phủ sẽ rút bớt ngoại tệ của mình đưa ra bán để bù cho phần
chênh lệch này, ngược lại chính phủ sẽ mua vào. Mặc dù tỷ giá hối đoái ổn đònh sẽ
tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, tuy nhiên nếu dự trữ ngoại tệ không đủ mạnh
thì áp lực đưa đến việc phá giá đồng tiền là không thể tránh khỏi.
*/ Cơ chế tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước :
Đây là cơ chế nhằm khắc phục những nhược điểm của 2 cơ chế trên, một
mặt về dài hạn tỷ giá hối đoái phải được xác đònh trên cơ sở của quan hệ cung cầu
về ngoại tệ, tuy nhiên trong ngắn hạn để bảo đảm một cơ chế tỷ giá ổn đònh, ít biến
động nhà nước cần dùng dự trữ để can thiệp vào. Hầu hết các nước hiện nay đều
theo cơ chế này.


Trang 12


4- NHỮNG CÔNG CỤ ĐỂ THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Tùy vào từng thời kỳ và điều kiện cụ thể của nền kinh tế mà ngân hàng
trung ương sẽ thực thi chính sách tiền tệ tương ứng. Những công cụ để điều hành
chính sách tiền tệ này bao gồm :
4.1- Dự trữ bắt buộc
Khái niệm dự trữ bắt buộc xuất phát từ chỗ ngân hàng luôn luôn cần phải có
những khoản dự trữ tiền mặt tối thiểu cho những đợt rút tiền bất ngờ của công
chúng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ % tính trên số tiền mà ngân hàng huy động
được, phải lưu lại tại quỹ tiền mặt hoặc ký gửi tại ngân hàng trung ương. Tỷ lệ dự
trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy đònh nhằm bảo đảm khả năng thanh toán
của các ngân hàng thương mại, bên cạnh đó thông qua quy đònh tỷ lệ dự trữ bắt
buộc sẽ ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thắt chặt lượng cung ứng tiền của hệ
thống ngân hàng thương mại nói riêng hay cung ứng tiền cho nền kinh tế nói
chung. Ví dụ bằng cách hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lượng tiền có thể cho vay của các
ngân hàng sẽ tăng lên. Việc điều hành công cụ dự trữ bắt buộc thường đi kèm với
công cụ lãi suất thì mới phát huy được tính hiệu quả, chẳng hạn như khi tỷ lệ dự trữ
bắt buộc giảm, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại tăng, nhưng nếu
lãi suất cho vay không giảm thì việc quy đònh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng không phát
huy tác dụng được. Để có cơ sở quy đònh tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng trung
ương phải căn cứ vào tình hình cụ thể của nền kinh tế, khối lượng tiền gửi của hệ
thống ngân hàng thương mại và từng loại ngân hàng.
4.2- Lãi suất
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa khoản tiền người đi vay phải trả cho người
cho vay trên tiền vốn trong những khoảng thời gian nhất đònh, thường là 1 tháng, 1
năm. Chính vì vậy mà lãi suất luôn gắn liền với phạm trù tín dụng, thể hiện quan
hệ vay mượn của người đi vay và người cho vay.


Trang 13


Lãi suất được hình thành trên cơ sở cung cầu tín dụng trên thò trường, bao
gồm :
- Tiết kiệm và nhu cầu tiêu dùng của dân cư.
- Tiết kiệm và nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất của doanh nghiệp.
- Tình trạng ngân sách quốc gia.
Về mặt chủ thể, lãi suất bao gồm lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Đây
chính là lãi suất danh nghóa hay lãi suất giao dòch giữa người cho vay và người đi
vay. Tuy nhiên, do nền kinh tế luôn chứa đựng yếu tố lạm phát mà lãi suất thực
người cho vay nhận được phải loại trừ yếu tố này :
Lãi suất
= Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
danh nghóa
Mặc dù lãi suất được hình thành do tác động của cung cầu tín dụng, tuy
nhiên đây không phải là tác động một chiều mà ngược lại, lãi suất tăng hay giảm
sẽ tác động trở lại đến cung cầu tín dụng trên thò trường, điều này biểu hiện ở chỗ
làm thay đổi hành vi của người đi vay và người cho vay như : tiết kiệm, tích lũy hay
tiêu dùng, đầu tư và như đã nói ở trên sự thay đổi trong tiết kiệm, tích lũy và tiêu
dùng, đầu tư đã tác động đến việc hình thành lãi suất.
Lãi suất
Cung - cầu
tín dụng

Tiết kiệm, tích lũy,
tiêu dùng, đầu tư

Lãi suất được xem là công cụ tiền tệ chủ yếu nhất nhằm thay đổi trong cung
ứng tiền thông qua tác động trực tiếp đến hành vi tiêu dùng và đầu tư, từ đó tác

động đến các biến số của kinh tế vó mô.
- Để có thể phát huy được tính hiệu quả của công cụ lãi suất, trong khi vận
dụng cần phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất đònh sau :

Trang 14


) Lãi suất thực dương và không thể cao hơn lợi nhuận bình quân của
nền kinh tế.
) Lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình
quân.
) Lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn.
Mặc dù lãi suất được xác đònh thông qua cung cầu tín dụng trên thò trường,
tuy nhiên để phục vụ cho chính sách tài chính tiền tệ quốc gia thì lãi suất luôn bò
can thiệp bởi ngân hàng trung ương thông qua việc ấn đònh khung lãi suất tối thiểu
và tối đa, hoặc ấn đònh lãi suất lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các mức lãi suất khác,
hoặc chỉ điều tiết cung cầu tín dụng bằng lãi suất tái cấp vốn còn các mức lãi suất
khác sẽ do thò trường tiền tệ quyết đònh.
4.3- Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền được tính theo một đồng tiền
khác. Đây là cơ sở giá trò để hàng hóa lưu thông từ quốc gia này sang quốc gia
khác. Tức thông qua tỷ giá hối đoái cho phép ta so sánh giá cả của các hàng hóa và
dòch vụ sản xuất trên các nước khác nhau.
Cách biểu diễn tỷ giá hối đoái :
Đồng tiền
yết giá

= n

Đồng tiền

đònh giá

Sự thay đổi về tỷ giá hối đoái sẽ kéo theo sự thay đổi giá cả các hàng hóa
xuất nhập khẩu, vì vậy nó có tác động kích thích xuất nhập khẩu và đến lượt nó
hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tác động trở lại đến cung cầu ngoại tệ và từ đó làm
thay đổi tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối
đoái

Xuất nhập
khẩu

Cung - cầu
ngoại tệ
Trang 15


Mặc khác, trong ngắn hạn tỷ giá hối đoái bò ảnh hưởng của cung ứng tiền
của ngân hàng trung ương. Thông qua thay đổi cung ứng tiền, ngân hàng trung
ương có thể làm tăng giá hay giảm giá của đồng tiền trong nước so với nước ngoài.
Ví dụ như khi ngân hàng trung ương bán ngoại tệ ra để rút nội tệ về (tức thu hẹp
cung tiền) sẽ làm tăng giá đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ đem bán hoặc tung tiền
ra để mua ngoại tệ vào (tức mở rộng cung tiền) sẽ làm cho đồng ngoại tệ mua vào
tăng giá so với đồng nội tệ.
Tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan trọng trong điều tiết thương mại quốc tế
và góp phần làm ổn đònh nền kinh tế. Để có thể so sánh, đánh giá sức cạnh tranh
của hàng hóa trong thương mại quốc tế và để loại trừ sự chênh lệch về lạm phát
giữa các quốc gia thường người ta dùng tỷ giá hối đoái thực :
e=


p*E
p

e : Tỷ giá hối đoái thực
p*E : giá hàng nước ngoài tính theo

nội tệ
p : giá hàng trong nước tính theo nội
tệ
- Nếu tỷ giá hối đoái thực e = 1 ta có quy luật 1 giá, tức giá hàng trong nước
ngang bằng với giá hàng ở nước ngoài.
- Nếu e > 1 : giá hàng nước ngoài cao hơn trong nước, trường hợp này xuất
khẩu hàng hóa sẽ có ưu thế hơn, tức sức cạnh tranh tăng.
- Nếu e < 1 : giá hàng nước ngoài rẻ hơn trong nước, trường hợp này xuất
khẩu hàng hóa sẽ gặp khó khăn, tức sức cạnh tranh giảm.
Lý do dẫn đến sức cạnh tranh giảm :
Đối với những nước áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái cố đònh và thường là
những nước đang phát triển, những nùc này thường có mức lạm phát tương đối cao
lúc đó p > p*E do đó e < 1. Như vậy lạm phát làm cho sức cạnh tranh giảm, ngoài
Trang 16


ra bất cứ lý do nào dẫn đến p > p*E cũng đều làm cho sức cạnh tranh giảm, chẳng
hạn như thuế xuất nhập khẩu…
Chính vì vậy mà nhiều lúc tỷ giá hối đoái danh nghóa tăng mà vẫn không
kích thích xuất khẩu thì cần phải xem xét lại tỷ giá hối đoái thực có thật sự tạo
được sức cạnh tranh hay chưa, chẳng hạn như trường hợp của Việt Nam.
Để thiết lập lại sức cạnh tranh như cũ, tức để đưa e về giá trò cũ (giá trò mà
quốc gia đó chấp nhận được, trường hợp lý tưởng e = 1) thì tỷ giá hối đoái danh
nghóa phải thay đổi sao cho :

E = ecũ *

p'
p'*

p’ : giá hàng trong nước
P’* : giá hàng nước ngoài

4.4- Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là việc ngân hàng trung ương cung cấp tín dụng cho các ngân
hàng thương mại trên cơ sở các hồ sơ tín dụng hoặc các chứng từ có giá được ngân
hàng thương mại chiết khấu trước đây.
Xuất phát từ chỗ có quá nhiều khách hàng hoặc nhu cầu vay của khách hàng
quá lớn, vì vậy ngân hàng thương mại phải cầu cứu vay lại ngân hàng trung ương
như là người cho vay cứu cánh cuối cùng, nhằm tăng cường nguồn vốn cho vay và
bảo đảm tính thanh khoản cho các ngân hàng thương mại. Nếu như cho vay và
chiết khấu các chứng từ có giá là nghiệp vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại
thì tái cấp vốn được xem là nghiệp vụ cho vay và chiết khấu của ngân hàng trung
ương, ở đây chỉ khác nhau về mặt chủ thể. Như vậy thông qua tái cấp vốn ngân
hàng trung ương đã cung ứng một lượng tiền cho nền kinh tế.
Trong thực thi chính sách tiền tệ ngân hàng trung ương sử dụng tái cấp vốn
như là cái van để bơm tiền cho nền kinh tế. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất
tái cấp vốn sẽ làm cho các ngân hàng thương mại không thể vay của ngân hàng
trung ương nhiều như trước, do vậy các ngân hàng thương mại phải tự mình giảm
bớt cho vay để bảo đảm dự trữ để lại; ngược lại khi ngân hàng trung ương quyết

Trang 17


đònh giảm lãi suất tái cấp vốn sẽ khuyến khích các ngân hàng thương mại vay

nhiều hơn, làm tăng khả năng cung ứng và dự trữ tiền của các ngân hàng thương
mại, từ đó kích thích các ngân hàng thương mại cho vay nhiều hơn. Mặt khác, việc
thay đổi lãi suất tái cấp vốn sẽ tác động đến việc thay đổi lãi suất vay và cho vay
của các ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến tiêu dùng, đầu tư và tác động
đến sự phát triển nền kinh tế.
4.5- Nghiệp vụ thò trường mở
Thò trường mở là nơi mà ngân hàng trung ương mua bán các chứng khoán.
Khi ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán sẽ làm thay đổi lượng cung ứng
tiền mặt trong lưu thông, từ đó tác động đến khả năng cho vay của các ngân hàng
thương mại. Ví dụ như khi ngân hàng trung ương tiến hành bán chứng khoán thu
tiền mặt về sẽ làm dự trữ của ngân hàng thương mại giảm, đồng thời nếu dân
chúng mua chứng khoán của ngân hàng trung ương sẽ làm cho quỹ tiền mặt hoặc
tiền gửi ngân hàng của họ giảm đi, tức những khoản ký gửi tại ngân hàng thương
mại giảm, hoặc làm khả năng huy động tiền gửi của ngân hàng thương mại giảm.
Kết quả của việc bán chứng khoán này là cung ứng tiền trong nền kinh tế bò thắt
chặt. Ngược lại khi ngân hàng trung ương mua chứng khoán về sẽ làm tăng khả
năng cung cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại và đây là chính sách mở
rộng tiền tệ của ngân hàng trung ương.
Ưu điểm của nghiệp vụ thò trường mở :
- Nghiệp vụ thò trường mở vừa linh hoạt vừa chính xác, chủ động kiểm soát
được khối lượng giao dòch, có thể sử dụng ở bất kỳ lúc nào, quy mô nào. Khi có
yêu cầu thay đổi về dự trữ dù nhỏ nghiệp vụ thò trường mở cũng có thể đạt được
bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán.
- Dễ dàng dàng đảo ngược lại giao dòch nếu việc mua hoặc bán bò sai sót.

Trang 18


- Nghiệp vụ thò trường mở có tính an toàn cao, giao dòch trên thò trường mở
hầu như không có rủi ro bởi vì cơ sở bảo đảm cho các giao dòch là là những giấy tờ

có giá, có tính thanh khoản cao, không có rủi ro tài chính.
- Nghiệp vụ thò trường mở có thể thực hiện một cách nhanh chóng, không
vấp phải một sự chậm trễ của thủ tục hành chính.
Như vậy với việc sử dụng công cụ nghiệp vụ thò trường mở ngân hàng trung
ương có thể thực hiện chính sách mở rộng hay thắt chặt tiền tệ bất kỳ mức độ nào
và bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, tính hiệu quả của công cụ còn phụ thuộc vào chất
lượng của hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt mà điều này thường chỉ thấy ở
các nước phát triển.
4.6- Các công cụ khác
Ngoài các công cụ kể trên trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ ngân
hàng trung ương còn có thể sử dụng một số công cụ khác như : kiểm soát tín dụng,
ấn đònh hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại… Thông qua việc kiểm
soát các khoản tín dụng của các ngân hàng thương mại đã làm thay đổi khối lượng
cấp phát tín dụng, từ đó gián tiếp điều tiết cung tiền. Ví dụ như khi lạm phát tăng,
ngân hàng trung ương sẽ hạn chế các ngân hàng thương mại cho vay ngắn hạn hoặc
cho vay tiêu dùng mà phải chuyển sang cho vay trung dài hạn, mà như chúng ta đã
biết chỉ có cho vay ngắn hạn, cho vay tiêu dùng mới đưa nhanh khối lượng tiền vào
lưu thông và lạm phát càng tăng cao; trong khi đó cho vay trung dài hạn thường
lượng tiền được rút ra nhiều đợt vì thế làm thay đổi cung ứng tiền vào lưu thông.
Ngoài ra với việc ấn đònh hạn mức tín dụng cũng làm cho khả năng cung ứng tín
dụng của các ngân hàng thương mại bò hạn chế và vì thế sẽ làm hạn chế cung tiền.
5- MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Tất cả các công cụ của chính sách tiền tệ đều có tác động đến mức cung tiền
trong nền kinh tế, vì thế việc vận dụng các công cụ cần phải tiến hành một cách
đồng bộ. Trong số các công cụ của chính sách tiền tệ thì tái cấp vốn và lãi suất có
Trang 19


thể gộp chung thành nhóm lãi suất bởi nội dung và bản chất của chúng gần giống
nhau, còn dự trữ bắt buộc chỉ có thể phát huy tác dụng khi kết hợp với lãi suất.

Chính vì vậy mà mối liên hệ giữa các công cụ của chính sách tiền tệ thể hiện ở
mối liên hệ giữa tỷ giá hối đoái, lãi suất và nghiệp vụ thò trường mở.
*/ Quan hệ giữa lãi suất và nghiệp vụ thò trường mở
Giữa lãi suất và thò trường mở vừa có tính loại trừ nhau, vừa có tính phụ
thuộc nhau, tính phụ thuộc thể hiện ở chỗ : việc sử dụng công cụ thò trường mở sẽ
tác động đến mức cung ứng tiền trong nền kinh tế, làm thay đổi quan hệ cung – cầu
về tiền tệ và do đó tác động đến thay đổi lãi suất. Tuy nhiên, giữa lãi suất và công
cụ thò trường mở có tính loại trừ nhau bởi vì các chứng khoán hay giấy tờ có giá
thường có một mức lãi suất nhất đònh, nếu lãi suất ngân hàng tăng cao hơn thì việc
sử dụng công cụ thò trường mở sẽ không có hiệu quả và ngược lại chỉ có hiệu quả
khi mức sinh lời của các chứng khoán lớn hơn mức lãi suất tiền gửi.
*/ Quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái
Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đối và lãi suất được biểu thò ở sơ đồ sau :
Cung ngoại tệ (SFX)



Cầu ngoại tệ (DFX)

E

∆R

Md



Ms

i


Sự chênh lệch cung cầu về ngoại tệ dẫn tới tỷ giá hối đoái thay đổi, và để
điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhà nước có thể sử dụng dự trữ để can thiệp vào bằng
cách mua ngoại tệ nếu dư ngoại tệ hoặc bán ngoại tệ ra nếu thừa ngoại tệ. Việc
mua bán ngoại tệ này dẫn đến thay đổi về mức cung tiền trong nền kinh tế, làm
chênh lệch cung cầu tiền nội tệ và vì thế lãi suất sẽ biến đổi theo.

Trang 20


Để nghiên cứu tương quan giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái đối với dòng vốn
luân chuyển, ta xét ví dụ sau :
Năm 1

Năm 2

US

1USD

i*

(1+i*) USD

VN

E1 VND

i


(1+i)E1 VND

Lãi suất nước ngoài giả sử = i*

Tại thời điểm t1 :

Lãi suất đồng VND = i
Tỷ giá hối đoái = E1
Nếu bỏ 1 USD vào ngân hàng thì sau thời gian t2 sẽ được (1+i*) USD, còn
nếu bỏ VND thì sẽ được (1+i)E1 VND. Nếu quy đổi theo USD vào thời điểm t2 với
tỷ giá hối đoái E2 thì được

E1
(1 + i )
E2

- Dòng vốn nước ngoài sẽ ngưng chảy khi : 1 + i* =

E1
(1 + i )
E2

Mặc khác ta có : E2 = E1(1 + %∆E)
= E1(1 +
⇒ 1 + i* =


Hay :

i*(


E 2 − E1
)
E1

1+ i
E − E1
1+ 2
E1

E 2 − E1
)≈0
E1

i = i* +

nên

i – i* =

E 2 − E1
E1

E 2 − E1
E1

Đây chính là điều kiện cân bằng lãi suất, tức các khoản tiền gửi của mọi loại
tiền đều có lợi tức dự kiến như nhau.

E 2 − E1

được xem là tỷ lệ mất giá dự kiến
E1

của ngoại tệ.
Ví dụ sau đây sẽ minh họa mối quan hệ trên :
Trang 21


Lãi suất

Lãi suất

Tỷ lệ mất giá dự

Chênh lệch về lãi suất giữa

Trườn

USD

DM

kiến của USD so với

khoản tiền gửi USD và DM

g hợp

(RUSD)


(RDM))

1

0,1

0,06

0,00

0,04

2

0,1

0,06

0,04

0,00

3

0,1

0,06

0,08


-0,04

4

0,1

0,06

-0,04

0,02

DM (

E 2 − E1
)
E1

RUSD - RDM -

E 2 − E1
E1

Trường hợp 1 : sự chênh lệch về lãi suất nghiêng về các khoản gửi USD là
0,1 – 0,06 = 4%/năm và không có sự thay đổi nào trong tỷ giá dự kiến. Điều này có
nghóa là lãi suất hàng năm của các khoản tiền gửi bằng USD cao hơn 4% so với các
khoản tiền gửi bằng DM, nếu như những điều kiện khác không đổi thì chúng ta sẽ
thiên về nắm giữ USD hơn là nắm giữ DM.
Trường hợp thứ 2 : chênh lệch về lãi suất cũng 4% nhưng lại bò bù trừ bằng
tỷ lệ mất giá dự liến của đồng USD là 4%. Như vậy cả hai khoản tiền gửi này đều

có cùng tỷ suất lợi tức.
Trường hợp 3 : chênh lệch về lãi suất cũng 4% nhưng lại bò bù trừ nhiều hơn
do USD dự kiến giảm giá 8%, như vậy các khoản tiền gửi bằng DM được những
người tham gia trên thò trường ưa chuộng hơn.
Trường hợp 4 : lãi suất đồng DM chênh lệch cao hơn đồng USD 2%, nhưng
đồng USD dự kiến sẽ tăng giá 4% so với đồng DM. Do đó tỷ suất lợi tức dự kiến
đối với khoản tiền gửi bằng USD cao hơn 2% so với các khoản tiền gửi bằng DM.
Từ phương trình : i = i* +

E 2 − E1
E1

cho biết điều kiện ngang bằng lãi suất

đúng khi lãi suất trong nước bằng với lãi suất nước ngoài cộng với tỷ lệ tăng giá
của đồng ngoại tệ. Nói cách khác, khi thò trường tài chính hoạt động hiệu quả thì
khoản khác biệt giữa các lãi suất phản ánh tỷ lệ thay đổi kỳ vọng của tỷ giá hối
đoái.

Trang 22


Mối quan hệ nghòch biến giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất trong nước đối với
những giá trò cho trước của lãi suất nước ngoài i* và tỷ giá hối đoái kỳ vọng E2
được biểu thò qua đồ thò sau :
E
E3
E1
E2
i* +


i1

i2

i3

E' −E
E
i

Nếu lãi suất tăng từ i1 đến i2, tỷ giá hối đoái cân bằng sẽ giảm từ E1 xuống
E2. Bây giờ cho trước lãi suất trong nước ở i2, một sự tăng lên của lãi suất nước
ngoài từ i*1 đến i*2 sẽ dẫn đến một sự giảm giá của đồng nội tệ từ E2 xuống E3.
Cách duy nhất đồng nội tệ có thể tránh mất giá khi đối mặt với lãi suất nước ngoài
tăng là lãi suất trong nước phải tăng lên, trong trường hợp này i tăng từ i2 lên i3.
Khủng hoảng tiền tệ như đã xảy ra ở các nước Đông Nam Á là kết quả tất
yếu của một sự thay đổi đột ngột trong kỳ vọng của thò trường về giá trò dài hạn
của tiền tệ. Ví dụ như ở Thái Lan, những người tham gia vào thò trường mất lòng tin
vào khả năng hay sự sẵn lòng của ngân hàng trung ương Thái trong việc giữ tỷ giá
cố đònh ở mức 25 Baht = 1USD. Theo như đồ thò trên, đường ngang bằng lãi suất
đột ngột dòch chuyển sang phải lên trên và Thái Lan phải đối mặt với viễn cảnh
chấp nhận đồng tiền bò mất giá nghiêm trọng hoặc là một mức lãi suất cao hơn rất
nhiều. Thò trường đã dự đoán đúng là chính phủ Thái không chấp nhận sự tăng lên
bắt buộc của lãi suất như vậy do những thiệt hại có thể gây ra cho cả khu vực tài
chính cũng như hoạt động kinh tế, và thế là đồng Baht đã rớt giá từ 25Baht/USD
xuống thấp đến mức 55Baht/1USD.

Trang 23



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHNN VIỆT NAM
1.1- Khái quát sự ra đời của ngân hàng trung ương
Quá trình ra đời của ngân hàng trung ương trải qua 3 giai đoạn :
Giai đoạn 1 : Giai đoạn phát triển từ NHTM đến ngân hàng phát hành
Trong giai đoạn từ thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 17, ở các nước tư bản phát triển
có nhiều ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trong số đó chỉ có những ngân hàng lớn
hoạt động có uy tín, kỳ phiếu của những ngân hàng này phát hành ra có uy tín và
lưu thông rộng rãi hơn so với các ngân hàng khác. Do đó những ngân hàng này về
sau đã trở thành những ngân hàng phát hành, còn các ngân hàng thương mại có quy
mô vừa và nhỏ lúc đầu cũng được phát hành kỳ phiếu nhưng uy tín và phạm vi lưu
thông bò thu hẹp, dần dần các ngân hàng này không còn phát hành kỳ phiếu nữa.
Giai đoạn 2 : Giai đoạn phát triển từ ngân hàng phát hành sang ngân hàng
phát hành độc quyền
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ này, trong một số nước có nhiều ngân hàng
phát hành và chiếm lónh ở những vùng khác nhau trong nước, kỳ phiếu của những
ngân hàng này phát hành ra cũng chỉ lưu thông trong phạm vi nhất đònh nào đó.
Trong số đó có những ngân hàng phát hành có quy mô lớn hơn, có uy tín rộng hơn
thì đồng thời những ngân hàng này cũng được những sự ưu đãi của chính quyền nhà
nước, và hầu như có sự xâm nhập lẫn nhau giữa các ngân hàng này với bộ máy nhà
nước. Trong điều kiện đó, một mặt để cho kỳ phiếu ngân hàng lưu thông rộng rãi
hơn, mặt khác để chứng tỏ sức mạnh của chính quyền, các nhà nước tư bản đã công
bố những quy đònh khắc khe nhằm chỉ cho phép một số ngân hàng được phép phát
hành kỳ phiếu. Đây là những ngân hàng phát hành độc quyền, còn những ngân

Trang 24



×