PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1.1 NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TTCK
1.1.1 Khái niệm TTCK
TTCK, theo nghĩa rộng được gọi là thị trường vốn (Capital market). Ở đây
các giấy nợ trung, dài hạn (chứng khoán có thời hạn trên 1 năm) và các loại cổ
phiếu được mua bán.
TTCK là thị trường tạo lập và cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế.
Các công cụ ở TTCK bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu
công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay thế chấp.
Các công cụ trên thị trường vốn thường có thời hạn dài như trái phiếu, cổ
phiếu… do đó giá cả của nó dao động rộng hơn so với các công cụ của thị trường
tiền tệ. Vì vậy, nó được coi là những CK có độ rủi ro cao hơn, và vì vậy cơ chế
phát hành và lưu thông chúng khá chặt chẽ nhằm hạn chế những biến động và
thiệt hại cho nền kinh tế
1.1.2 Phân loại TTCK
1 Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khoán, TTCK
được chia làm 2 cấp:
- Thị trường sơ cấp: hay thị trường phát hành; là hoạt động chào bán ra
công chứng lần đầu tiên một loại chứng khoán của Chính Phủ hay doanh nghiệp,
đó chính là việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Trừ trái phiếu chính phủ,
tất cả các tổ chức kinh tế muốn phát hành chứng khoán đều phải được phép của
UBCKNN. Thông thường việc phát hành CK ra công chứng được sự giúp đỡ của
các tổ chức tài chính trung gian như công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư…
- Thị trường thứ cấp hay thị trường lưu hành CK là hoạt động chuyển
nhượng quyền sở hữu CK từ tay nhà đầu tư này sang tay nhà đầu tư khác. Trên
thị trường này các nhà đầu tư có thể mua và bán chứng khoán rất nhiều lần. Hàng
ngày một khối lượng rất lớn chứng khoán được giao dịch qua các TTCK trên thế
giới lên đến hàng ngàn tỷ USD.
- Mối liên quan giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ
cấp là tiền đề cho hoạt động của thị trường thứ cấp bởi vì chính nơi đây đã tạo ra
hàng hĩa cho thị trường giao dịch.
Ngược lại, thị trừơng thứ cấp tạo động lực cho sự phát triển của thị trường
sơ cấp. Chính việc giao dịch mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp đã tạo ra tính
thanh khoản cho CK, đó là tính chất dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt. Các nhà
1
đầu tư nắm giữ các loại CK thường nhắm các cơ hội bán đi CK để kiếm lời, chính
tính thanh khoản đã thu hút các nhà đầu tư đến với TTCK
t Căn cứ vào tính chất pháp lý của hình thức tổ chức thị trường chia
ra: TTCK tập trung (SGDCK) hay TTCK không tập trung (OTC)
TTCK tập trung: là địa điểm hoạt động chính thức của các giao dịch chứng
khoán gọi là SGDCK. Đó là nơi các nhà môi giới kinh doanh chứng khoán gặp gỡ
để đấu giá, thương lượng mua bán chứng khoán cho khách hàng hay cho chính
mình theo những nguyên tắc và quy chế giao dịch của SGDCK đề ra trên cơ sở
của Luật chứng khoán.
TTCK không tập trung ( thị trường OTC): là hoạt động giao dịch của CK
không thông qua SGDCK, mà thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên
ở rải rác khắp nơi trên đất nước. Phương thức giao dịch thông qua mạng điện
thoại và vi tính.
t Căn cứ vào phương thức giao dịch của thị trường, chia ra 2 loại thị
trường
Thị trường giao ngay (Spot market) là thị trường của những giao dịch CK
mà lệnh của khách hàng được thực hiện ngay căn cứ vào giá trị hiện tại và sẽ
thanh tốn vào một ngày gần sau đó.
Thị trường kỳ hạn hay thị trường tương lai ( Future market) là thị trường
của các hợp đồng tương lai và các công cụ dẫn xuất từ chứng khoán. Hợp đồng
được ký kết căn cứ vào giá cả hiện tại, nhưng giao dịch thanh tốn lại diễn ra một
ngày ở tương lai trong kỳ hạn.
1.1.3 Chức năng của TTCK
1 Công cụ tập trung vốn cho nền kinh tế: vai trị quan trọng đầu tiên
của TTCK là thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân để hình thành các
nguồn vốn khổng lồ có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn phát triển
kinh tế cũng như tài trợ tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. TTCK là công cụ
huy động vốn hết sức hữu hiệu không những trong nước mà cả nước ngoài. Đối
với nước ta, các nguồn vốn lớn cịn tiềm tang trong nhân dân chưa được đưa vào
sản xuất kinh doanh, thì việc cần có một TTCK song hành với sự ra đời của các
công ty cổ phần là một chiến lược kinh tế trước mắt cũng như lâu dài.
c Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư:TTCK tạo ra cơ hội thuận tiện
khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền tiết kiệm một
cách tích cực mang lại hiệu quả qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Khả
năng sinh lời của các loại CK gây ra ý muốn tiết kiệm để đưa tiền vào đầu tư.
Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm bé nhỏ, nhưng tổng số tiền
tiết kiệm của cả xã hội sẽ to lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào. Mặt khác,
trong xã hội cũng tồn tại các quỹ tiền tệ tập trung: ngân hàng đầu tư, ngân hàng
thương mại, quỹ bảo hiểm…đều có mục đích khuyến khích tiết kiệm, nhưng các
2
quỹ tiền tệ này cũng chỉ phát huy hết tác dụng của nó khi có một TTCk tồn tại
song hành với nó.
1.1.4 Vai trị của TTCK
1 Công cụ đảm bảo thanh khỏan cho sổ tiết kiệm phục vụ đầu tư dài
hạn: Vai trị của TTCK bảo đảm cho việc nhanh chóng chuyển tiền mặt của các
chứng khoán có giá. Đây chính là yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư đến
với TTCK, với một TTCK hoạt động càng hữu hiệu thì tính thanh khỏan càng
cao.
c Công cụ đo lường giá trị các tích sản của doanh nghiệp: Những
thông tin doanh nghiệp cung cấp cho các nhà đầu tư trên TTCK qua các bảng
phân tích đánh giá năng lực sản xuất của doanh nghiệp, triển vọng của doanh
nghiệp trên thị trường, khả năng sinh lợi của hoạt động sản xuất kinh doanh, xu
thế phát triển của doanh nghiệp trong thời kỳ tương lai từ 3 đến 5 năm đã phần
nào lượng giá được tích sản của doanh nghiệp khách quan và khoa học. Mặt khác,
với tính chất đặc biệt nhạy bén của TTCK, sự lên xuống gía cả chứng kháon trên
thị trường cũng nói lên sự biến động của giá trị doanh nghiệp tại bất kỳ thời điểm
nào
n Thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh có
hiệu quả: với nguyên tắc hoạt động chủ đạo trên TTCK là công khai, công bằng
và trung thực, mọi thông tin về doanh nghiệp đều được công chứng kiểm tra đánh
giá. TTCK vừa tạo điều kiện vừa bắt buộc các doanh nghiệp không những phải
hoạt động sản xuất kinh doanh đúng pháp luật mà cịn phải hoạt động sản xuất
kinh doanh có hiệu quả
k Vai trị chống lạm phát của TTCK: TTCK cịn làm giảm áp lực lạm
phát, Ngân hàng TW với vai trị điều hịa hệ thống tiền tệ sẽ tung ra nhiều trái
phiếu kho bạc bán trên TTCK với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền lưu hành, nhờ
đó số tiền sẽ giảm bớt và áp lực lạm phát cũng giảm đi.
đ Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển: có thể
nói, hai loại định chế tài chính này đi đơi với nhau như hình với bĩng. Thật vậy,
TTCK là điều kiện không thể thiếu trong việc đưa cổ phiếu ra công chứng giúp
cho quá trình phát hành và lưu hành cổ phiếu đạt hiệu quả.
Những đóng góp của TTCK đối với nền kinh tế hiển nhiên là rất to lớn.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia theo cơ chế thị trường đều có tổ chức TTCK, ngay
cả các quốc gia đang phát triển cũng hình thành và phát triển TTCK của họ làm
công cụ đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, TTCK được coi là một công cụ cực kỳ nhạy bén và tinh xảo
cũng có những mặt trái của nó, những tác động tiêu cực vơ cùng nguy hiểm đối
với nền tài chính của một quốc gia nếu nó không được điều hành một cách lành
mạnh, hợp pháp và đúng quy luật.
1.2 ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC
NGỒI
3
1.2.1 Khái niệm “ Đầu tư gián tiếp nước ngoài”
Lý thuyết và thực tiễn hoạt động đầu tư đã phân biệt hai hình thức đầu tư
chủ yếu: trực tiếp và gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài dùng chỉ các hoạt động đầu tư vật chất của nhà
đầu tư của một nền kinh tế vào việc hình thành nên một doanh nghiệp ở một nền
kinh tế khác nhằm mục đích kinh doanh lâu dài.
Khái niệm đầu tư gián tiếp xuất hiện khi TTCK phát triển, việc mua bán cổ
phiếu, trái phiếu trở nên phổ biến, nhiều nhà đầu tư thay vì phương thức đầu tư
trực tiếp truyền thống đã lựa chọn phương thức đầu tư thông qua một công ty
khác (thường là các tổ chức tài chính) hoặc mua cổ phiếu, trái phiếu của các
doanh nghiệp, các tổ chức tự trị có hạch tốn hoặc của Chính phủ.
Để phản ánh các hoạt động đầu tư nêu trên, thuật ngữ “Portfolio
investment” được đưa ra.
Như vậy, Portfolio Investment là thuật ngữ phản ánh các hoạt động đầu tư
không phải là đầu tư trực tiếp truyền thống.
Khi TTCK phát triển ở quy mơ quốc tế, hoạt động mua bán chứng khoán
được mở rộng cho các nhà đầu tư quốc tế và được tổ chức liên thông ở nhiều
TTCK khác nhau, ranh giới giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián
tiếp nước ngoài (FPI) trở nên khĩ phân định, từ đó cách hiểu về FDI và FPI có sự
thay đổi đáng kể.
Vì vậy, đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể tạm hiểu theo nghĩa khá rộng
thông qua 3 hình thức:
- “Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác” (kể cả của
doanh nghiệp, các tổ chức tự trị được phép phát hành và của chính phủ)
- Đầu tư “thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán”
- “Thông qua các định chế tài chính trung gian khác”.
Với nghĩa rộng như vậy, đầu tư gián tiếp nước ngoài được hiểu tương
đương với thuật ngữ Foreign Portfolio Investment (FPI)
1.2.2 Các kênh, hình thức FPI:
Xét trên bình diện quốc tế, FPI có 2 kênh chính: FPI trực tiếp và FPI gián
tiếp. Mỗi kênh này lại có một số hình thức đầu tư cụ thể..
1.2.2.1 FPI theo phương thức trực tiếp: kênh FPI này có hai hình thức:
- Mua các chứng chỉ đầu tư nước ngoài tại thị trường nước ngoài.
- Mua các chứng chỉ đầu tư nước ngoài tại thị trường tài chính trong nước.
1.2.2.2 FPI theo phương thức gián tiếp: kênh này có 3 hình thức:
- Mua các trái phiếu Châu Âu có quyền mua cổ phiếu (Equity- linked
Eurobonds). Trên thị trường tài chính có lưu hành 2 loại trái phiếu Châu Âu: trái
4
phiếu gắn với quyền mua cổ phiếu (Eurobonds with warrante) và trái phiếu
chuyển đổi (transation eurobond).
- Mua cổ phiếu của các công ty liên quốc gia ( MNC), các MNC luơn có
đầu tư (trực tiếp và gián tiếp) vào các quốc gia khác.
- Đầu tư thông qua các quỹ tương hỗ quốc tế (International Mutul funds)
Mỗi một kênh, hình thức đầu tư nêu trên có đặc điểm nhất định.
Xét về hình thức chứng từ có giá trong đầu tư gián tiếp, ta có các hình thức
FPI sau:
- Mua cổ phiếu công ty và các tổ chức được phép phát hành.
- Mua trái phiếu công ty.
- Mua trái phiếu Chính phủ.
1.2.3.2 Tác động của FPI:
FPI có vai trị lớn trong nển kinh tế tịan cầu nói chung và đối với từng nước
nói riêng. FPI có tác động nhiều mặt, cả tích cực và tiêu cực đối với nước đầu tư
và nước nhận vốn đầu tư.
1.2.3.2.1 Tác động tích cực
Đối với nước đầu tư
o Đa dạng hĩa cơ cấu đầu tư, cho phép các nhà đầu tư có thể chuyển
vốn đến những thị trừơng mới nổi có mức lợi nhuận kinh doanh cao (kèm theo hệ
số rủi ro lớn). Bằng cách đầu tư FPI, các nhà đầu tư có thể nhanh chóng khắc
phục xu hướng lợi nhuận bình quân giảm dần, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
o San sẽ rủi ro kinh doanh sang các khu vực khác, đặc biệt là các khu
vực thị trường mới nổi. So với đầu tư trực tiếp (FDI), khả năng san sẽ rủi ro qua
đầu tư gián tiếp (FPI) nhạy bén hơn và đa dạng hơn.
o Thông qua đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư có cơ hội tìm hiểu và thâm
nhập thị trường mới, thích nghi từng bước với thị trường mới.
Đối với nước nhận đầu tư:
o Trước hết FPI là một kênh dẫn vốn có quy mơ lớn hơn nhiều so với
đầu tư trực tiếp truyền thống, cho phép có thể thu hút lượng vốn lớn của nước
ngoài đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và các mục tiêu tài
chính. Hơn nữa, chính hình thức đầu tư FPI cịn giúp đẩy mạnh FDI (thông qua
mua cổ phiếu, NĐTNN có thể dễ dàng sở hữu và trực tiếp quản lý doanh nghiệp
trong nước). Ngoài ra FPI giúp các doanh nghiệp trong nước có thể hoạt động
hiệu quả hơn, năng động hơn và nâng cao giá trị của mình (Ví dụ: Công Ty
VINAMILK đã nâng cao giá trị của mình lên rất nhiều do có sự tham gia mua cổ
phiếu của NĐTNN). Hơn nữa, đối với nền kinh tế, FPI là hình thức giúp các nước
có nền kinh tế mới nổi và chuyển đổi như Việt Nam nhanh chóng hơn trong việc
mở cửa, tham gia hội nhập vào thị trường vốn quốc tế, nâng cao sự tín nhiệm
trong hoạt động kinh tế đối với nước ngoài.
5