Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Quyền sở hữu trí tuệ và phát triển công nghệ trong ngành công nghệ thông tin việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.68 KB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
----------------

BÙI HUY BÌNH

QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
TRONG NGÀNH CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
---------------CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

BÙI HUY BÌNH

QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
TRONG NGÀNH CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VIỆT NAM

Chuyên ngành:

Chính sách công

Mã số:

603114


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. Dwight Perkins
Th.S Đinh Vũ Trang Ngân

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2010


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số
liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong
phạm vi hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của
Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh hay Chương trình giảng dạy kinh
tế Fulbright.
TP.HCM, ngày 12 tháng 7 năm 2010
Tác giả

Bùi Huy Bình


ii

Tóm tắt
Qua nghiên cứu thực tế mối liện hệ giữa chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ (SHTT) và chuyển giao công nghệ trong ngành công nghệ thông tin (CNTT)
Việt Nam, tác giả nhận thấy chính sách chưa có vai trò thật sự quan trọng đối với
chuyển giao công nghệ. Phân tích cho thấy, mặc dù với một chính sách đảm bảo

quyền SHTT yếu, nhưng công nghệ vẫn chuyển giao theo cả hai kênh trực tiếp và
gián tiếp. Chính sách bảo vệ quyền SHTT có ảnh hưởng thuận lợi cho việc chuyển
giao công nghệ tại kênh gián tiếp nhưng không có ảnh hưởng quan trọng đến việc
chuyển giao công nghệ tại kênh trực tiếp, có ảnh hưởng tiêu cực đến việc chuyển
giao quyền sử dụng sáng chế. Cũng thông qua nghiên cứu cho thấy những ảnh
hưởng quan trọng hơn chính sách bảo vệ quyền SHTT đối với việc chuyển giao
công nghệ ngành CNTT Việt Nam theo kênh trực tiếp là lao động, hạ tầng đối với
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); đào tạo nhân lực với việc gia công phần
mềm; và nâng cao doanh số sản phẩm đối với các đối tác sản xuất thiết bị gốc
(OEM).
Từ phân tích trên, tác giả đề xuất giữ nguyên chính sách bảo vệ quyền SHTT
trong ngắn hạn, đồng thời tăng cường thu hút đầu FDI công nghệ cao bằng chính
sách ưu đãi cơ sở hạ tầng và đào tạo nhân lực; thúc đẩy hợp đồng gia công phần
mềm với việc đào tạo nhân lực đúng yêu cầu; gia tăng doanh số lắp ráp sản phẩm
phần cứng thông qua hỗ trợ thiết bị CNTT cho các mục tiêu phát triển của quốc gia.
Từ đó, chính sự phát triển công nghệ trong ngành CNTT sẽ tạo ra một cơ chế tự đẩy
mạnh hiệu quả thực thi của chính sách bảo vệ quyền SHTT dẫn tới một hệ thống
bảo vệ quyền SHTT với mục đích bảo vệ thành quả sáng tạo của doanh nghiệp, ủng
hộ cho việc chuyển giao công nghệ trong dài hạn.
Từ khóa: quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, công nghệ thông tin.


iii

MỤC LỤC

Chương 1 - TỔNG QUAN ............................................................................... 1
1.1.

Bối cảnh chính sách ............................................................................................. 1


1.2.

Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 2

1.3.

Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................. 4

1.4.

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4

1.5.

Bố cục đề tài.......................................................................................................... 6

Chương 2 - KHUNG PHÂN TÍCH ................................................................. 7
2.1.

Các nghiên cứu trước .......................................................................................... 7

2.2.

Ba giai đoạn chuyển giao trong quỹ đạo công nghệ.......................................... 8

2.3.

Các hình thức chuyển giao công nghệ ................................................................ 9


2.4.

Vai trò của chính sách SHTT đối với chuyển giao công nghệ ....................... 10

Chương 3 - VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG
QUÁ TRÌNH THÚC ĐẨY CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ NGÀNH
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VIỆT NAM ................................................... 12
3.1.

Chính sách bảo vệ quyền SHTT tại Việt Nam ................................................ 12

3.1.1.

Chính sách bảo hộ sáng chế tại Việt Nam ................................................14

3.1.2.

Thực trạng số liệu sáng chế ........................................................................16

3.1.3.

Thực trạng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT ......................17

3.1.4.

Thực trạng việc thực thi quyền SHTT tại Việt Nam ...............................19

3.2.

Định vị khả năng công nghệ của ngành CNTT Việt Nam .............................. 21


3.2.1.

Tổng quan về ngành CNTT Việt Nam ......................................................21

3.2.2.

Thực trạng chuyển giao công nghệ theo kênh trực tiếp ..........................23

3.2.3.

Thực trạng chuyển giao công nghệ theo kênh gián tiếp ..........................26

3.2.4.

Phát triển công nghệ ...................................................................................27


iv

3.3.

Vai trò của chính sách bảo vệ quyền SHTT đối với quá trình chuyển giao

công nghệ ngành CNTT Việt Nam ............................................................................... 30
3.3.1.

Kênh chuyển giao công nghệ trực tiếp ......................................................30

3.3.2.


Kênh chuyển giao công nghệ gián tiếp ......................................................32

Chương 4 - ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
TRONG NGÀNH CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ......................................... 34
4.1.

Chính sách bảo vệ quyền SHTT với hai điểm mạnh cùng hướng tới mục tiêu

tăng cường chuyển giao công nghệ trong ngắn hạn ................................................... 34
4.2.

Sự hối thúc của nền kinh tế dẫn đường cho hiệu qủa thực thi quyền SHTT

tằng dần .......................................................................................................................... 35
4.3.

Hiệu quả thực thi quyền SHTT cao tạo ra một chính sách bảo vệ quyền

SHTT tốt ......................................................................................................................... 37

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 40
Phụ lục 1. Danh mục các thuật ngữ chuyên môn ............................................................ 43
Phụ lục 2. Đo lường quyền SHTT .................................................................................... 45
Phụ lục 3. Mô tả các kênh chuyển giao công nghệ .......................................................... 46
Phụ lục 4. Số đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế đã nộp từ năm 1990 - 2007 ....................... 47
Phụ lục 5. Số bằng bảo hộ sáng chế đã cấp từ năm 1990 - 2007 .................................... 48
Phụ lục 6. Số đơn yêu cầu bảo hộ giải pháp hữu ích đã nộp từ năm 1990 – 2007 .................... 49

Phụ lục 7. Số bằng bảo hộ giải pháp hữu ích đã cấp từ năm 1990 - 2007..................... 50


v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BSA

Liên minh phần mềm doanh nghiệp

CNTT

Công nghệ thông tin

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

HCA

Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh

IDC

Công ty dữ liệu quốc tế (International Data Corporation)


KCN

Khu công nghiệp

OEM

Sản xuất thiết bị gốc

PCT

Hiệp ước sáng chế

R&D

Nghiên cứu và phát triển

SHTT

Sở hữu trí tuệ

TRIP

Hiệp đinh về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ

UPOV

Hiệp định quốc tế về bảo vệ giống cây trồng mới

USPTO


Cơ quan quản lý sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ

WEF

Diễn đàn kinh tế thế giới

WIPO

Tổ chức SHTT thế giới

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


vi

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1 - Các hình thức tiếp nhận công nghệ …............................................... 10
Hình 3.1- Sơ đồ các đối tượng và cơ quan bảo hộ quyền SHTT tại Việt Nam .. 13
Hình 3.2 - Số lượng hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tương SHTT

18

đăng ký và đăng bạ giữa Việt Nam và Nước ngoài giai đoạn 1997 – 2002 ......
Hình 3.3 - Số lượng đối tượng SHTT đăng ký và đăng bạ giữa Việt Nam và

18


Nước ngoài giai đoạn 1997 – 2002 ....................................................................
Hình 3.4 - Tỉ lệ vi phạm bản quyền phần mềm .................................................. 20
Hình 3.5 – Mức độ bảo đảm quyền SHTT các nước ......................................... 20
Hình 3.4 – Thị phần thị trường CNTT toàn cầu ................................................ 22


1

Chương 1

TỔNG QUAN
1. Giới thiệu

1.1. Bối cảnh chính sách
Quyền SHTT ngày càng trở lên quan trọng trong phát triển kinh tế. Trong dài
hạn, ảnh hưởng quan trọng của chính sách quyền SHTT là bảo vệ các thành quả
sáng tạo, tạo ra tiến bộ công nghệ phục vụ phát triển kinh tế. Trong ngắn hạn, chính
sách bảo vệ quyền SHTT có thể đóng vai trò cân bằng trong thúc đẩy sáng tạo hoặc
sao chép các tài sản trí tuệ. Quyền SHTT được bảo vệ rất cao tại những nước phát
triển nhưng thường không được coi trọng tại những nước đang phát triển. Tình
trạng vi phạm quyền SHTT diễn ra tại những nước đang phát triển phổ biến hơn các
nước phát triển.
Tại Việt Nam, chính sách bảo vệ các đối tượng và phạm vi quyền SHTT
ngày càng được hoàn thiện. Từ chính sách bảo hộ trong phạm vi quốc gia đã từng
bước thay đổi phù hợp với các quy định quốc tế. Quyền SHTT ngày nay không chỉ
được bảo vệ phạm vi trong nước mà có mối liên hệ toàn cầu. Các đối tượng SHTT
được mở rộng từ sở hữu công nghiệp, bản quyền tác giả đến giống cây trồng mới.
Hiện nay, chính sách bảo hộ được đánh giá là đầy đủ và phù hợp với thông lệ quốc
tế. Bằng chứng là chính sách SHTT của Việt Nam hiện nay đã được các quốc gia

thành viên WTO chấp nhận trong quá trình đàm phán.
Tuy nhiên, vấn đề thực thi quyền SHTT vẫn còn rất yếu. Theo báo cáo công
nghệ thông tin toàn cầu năm 2009 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WDF), chỉ số bảo
vệ quyền SHTT tại Việt Nam đứng thứ 93/133 quốc gia, chỉ cao hơn Philippines và


2

thấp hơn các quốc gia Đông Nam Á phát triển1 còn lại. Vi phạm bản quyền phần
mềm theo đánh giá của BSA và IDC hiện vẫn ở mức 85%, cao nhất so với các quốc
gia Đông Nam Á, cao hơn cả Trung Quốc, mặc dù các công ty nước ngoài luôn coi
Trung Quốc là quốc gia vi phạm bản quyền cao.
Thực thi quyền SHTT ảnh hưởng đến sự phát triển công nghệ. Bảo vệ quyền
SHTT yếu tạo điều kiện cho việc học hỏi, sao chép công nghệ từ những nước phát
triển. Việc sao chép là khá dễ dàng với những công nghệ có mức độ phức tạp thấp.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang tiếp cận và hấp thụ được nhiều công nghệ
đơn giản, tuy nhiên, công nghệ cao mới chỉ phát triển tại khu vực FDI. Trong bối
cảnh đó, nghiên cứu xem xét vai trò của quyền SHTT ảnh hưởng đến qua trình phát
triển công nghệ tai Việt Nam.
1.2. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này phân tích vai trò của chính sách bảo vệ quyền SHTT đến quá
trình chuyển giao công nghệ từ nước phát triển vào Việt Nam trong lĩnh vực CNTT.
Từ những phân tích cụ thể đó, nghiên cứu đề xuất chính sách bảo vệ quyền SHTT
nhằm thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ.
Trong những ngành công nghiệp phát triển tại Việt Nam, chúng tôi lựa chọn
ngành công nghiệp CNTT làm đối tượng phân tích vì ba lý do. Thứ nhất, sự phát
triển mạnh mẽ về công nghệ của ngành CNTT là tiền đề tốt cho việc chuyển giao
công nghệ vào Việt Nam. Trên thế giới, ngành CNTT được đầu tư cho R&D lớn; số
lượng đơn và bằng sáng chế tăng trưởng nhanh và chiếm tỉ trọng cao tạo ra sự phát
triển mạnh mẽ về công nghệ. Các sản phẩm và dịch vụ CNTT liên tục được đầu tư

nghiên cứu, gắn liền với đó là các quyền SHTT như sáng chế/giải pháp hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế, bố trí mạch tích hợp, bản quyền tác giả được bảo

Nhóm các nước so sánh là các quốc gia phát triển tại Đông Nam Á bao gồm Singapore, Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Philippines.

1


3

hộ 2. Chi đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) cho ngành máy tính và thiết bị
điện tử chiếm tỉ trọng lớn nhất trong các ngành, năm 2007 chiếm 25% tổng R&D
toàn cầu (Kim Loan, 2009). Trong số 20 công ty có chi R&D hàng đầu thế giới, có
6 công ty thuộc lĩnh vực CNTT, chiếm 28,6% tổng số chi R&D của 20 công ty toàn
cầu (Kim Loan, 2009). Số đơn yêu cầu cấp bằng sáng chế giai đoạn 2001-2006, chỉ
tính riêng lĩnh vực công nghệ máy tính (computer technology) cao nhất trong các
lĩnh vực chiếm hơn 20% trong nhóm kỹ thuật điện và gần 7% trong tổng số đơn và
có xu hướng tăng dần.
Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của ngành CNTT tại Việt Nam nhanh cho thấy
nhu cầu cần thiết phải tiếp nhận công nghệ để phát triển sản xuất trong nước cao.
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2002 - 2007 khoảng 25%, trong đó, ngành
công nghiệp phần cứng đạt 17,6%/năm, ngành công nghiệp phần mềm và dịch vụ
đạt 35%/năm (HCA, 2007). Doanh số toàn ngành năm 2007 đạt 3.758 triệu USD,
trong đó, ngành công nghiệp phần cứng chiếm gần 80%. Sự tăng trưởng mạnh kéo
theo việc ra đời hàng loạt nhà máy sản xuất trong và ngoài các khu công nghiệp.
Thứ ba, mức độ sẵn sàng ứng dụng CNTT của cả ba khu vực: chính phủ,
doanh nghiệp và tư nhân đều rất khả quan. Theo đánh giá của diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) tại báo cáo ngành CNTT toàn cầu, trong những năm qua, chỉ số sẵn
sàng ứng dụng CNTT tại Việt Nam không ngừng cải thiện. Năm 2009, vị trí cao

nhất là khu vực chính phủ (24/134 quốc gia), thứ 2 là khu vực tư nhân đạt 43/134
quốc gia và cuối cùng là khu vực doanh nghiệp đạt 52/134 quốc gia. Các chỉ số đó
đã tạo nên chỉ số tổng hợp về mức độ sẵn sàng ứng dụng CNTT năm 2009 đã đạt
37/134 quốc gia. Chỉ số này đưa Việt Nam vượt qua cả Thái Lan, Indonesia,
Philippines, đứng sau Ấn Độ, Trung Quốc và Malaysia.

2

Theo quy định của WIPO, bố trí mạch tích hợp được bảo hộ như kiểu dáng hoặc sáng chế, bản quyền phần
mềm bảo hộ như sáng chế.


4

Do đó, khi xem xét vai trò tác động của quyền SHTT đến chuyển giao công
nghệ, với một ngành có sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ như ngành CNTT là
một điều kiện tốt cho nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là chính sách bảo vệ quyền SHTT bao gồm chính sách
bảo hộ sáng chế, chính sách chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT3 và chính
sách thực thi quyền SHTT đối với các đối tượng SHTT. Các đối tượng SHTT luận
văn này xem xét gồm sáng chế/giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế
bố trí mạch tích hợp bán dẫn và bản quyền phần mềm, trong đó tập trung chính vào
sáng chế. “Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm
giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”4. Chuyển
giao công nghệ là việc các doanh nghiệp trong nước nắm được quy trình công nghệ
để sản xuất ra một sản phẩm mới. Công nghệ đó có thể được chuyển giao trực tiếp
từ các đối tác nước ngoài hoặc gián tiếp do các doanh nghiệp trong nước sao chép,
sáng tạo ra.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Với mục tiêu đó, nghiên cứu này hướng vào trả lời câu hỏi rằng, liệu chính

sách bảo vệ quyền SHTT hiện tại ở Việt Nam có vai trò khuyến khích sự chuyển
giao công nghệ từ các nước phát triển vào Việt Nam trong lĩnh vực CNTT hay
không? Nếu có thì sự khuyến khích đó đang được diễn ra như thế nào, và nếu
không, tại sao? Từ đó, việc thực thi chính sách bảo vệ quyền SHTT trong ngành
CNTT ở Việt Nam nên có những cải thiện gì nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ
và khuyến khích sáng tạo trong dài hạn?
1.4. Phương pháp nghiên cứu

Nguyên văn tiếng anh là từ “licence”, trong các văn bản luật trước đây thường dùng từ li-xăng, trong Luật
SHTT hiện nay sử dụng từ “chuyển giao quyền sử dụng”.
4
Điều 5, Luật SHTT

3


5

Để trả các câu hỏi trên, nghiên cứu này sử dụng phương pháp định tính kết
hợp với phân tích thống kê mô tả. Qua đó, tác giả kỳ vọng sẽ có được cái nhìn toàn
diện và chi tiết hơn về các mặt của chính sách, nhằm mô tả bối cảnh kinh tế, xã hội
và thể chế mà chính sách bảo vệ quyền SHTT đang được vận hành tại Việt Nam.
Nghiên cứu này không sử dụng phương pháp định lượng để phân tích vai trò của
chính sách SHTT trong chuyển giao công nghệ của ngành CNTT Việt Nam vì hai lý
do sau:
Một là, trong các nghiên cứu về chính sách bảo vệ quyền SHTT, vấn đề quan
trọng nhất là đo lường. Quyền SHTT là không dễ dàng đo lường cũng không hiển
nhiên ảnh hưởng lên giá cả (Maskus, 2000a). Một loạt các nghiên cứu sử dụng
phương pháp kinh tế lượng với dữ liệu mức độ quốc gia thường sử dụng chỉ số GP
để đo lường mức độ bảo vệ của chính sách quyền SHTT tại mỗi nước. Chỉ số GP do

Ginarte và Park (1997) xây dựng từ chỉ số RR (Xem thêm phụ lục 2 về cách đo
lường các chỉ số). Điểm mạnh của chỉ số GP so với chỉ số RR là đánh giá được mức
độ bảo vệ của chính sách quyền SHTT bao quát hơn nhưng Maskus (2000a) cho
rằng khó có thể định lượng hết tất cả các chính sách.
Hai là, hiện trạng số liệu thống kê ngành CNTT Việt Nam còn chưa thống
nhất. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, ngành CNTT chưa được thống kê riêng.
Số liệu thống kê5 phần cứng nằm trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; phần
mềm và dịch vụ CNTT nằm trong ngành thông tin và truyền thông. Trước đó6,
ngành phần mềm còn chưa được đề cập như một mục riêng. Số liệu thống kê toàn
ngành có thể được thống kê theo báo cáo ngành dọc7 hoặc được tổng hợp theo đánh
giá của các tổ chức nước ngoài như Ngân hàng thế giới, Liên minh viễn thông quốc
tế, Diễn đàn kinh tế thế giới… Do đó, các số liệu trong các báo cáo trong nước và
nước ngoài, giữa các tổ chức trong nước còn nhiều điểm chưa đồng nhất.
Theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23/01/2007 của Thủ tướng CP về việc ban hành Hệ thống
Ngành kinh tế Quốc dân.
6
Theo Nghị định số 75/CP ngày 27/10/1993 của Thủ tướng Chính Phủ.
7
Trước năm 2002 là Bộ Khoa học và Công nghệ, sau đó là Bộ Bưu chính Viễn Thông nay là Bộ Thông tin
và Truyền thông và cấp Sở tương đương tại các tỉnh, thành phố.
5


6

1.5. Bố cục đề tài
Bố cục đề tài gồm 4 chương: sau chương 1 về tổng quan các vấn đề nghiên
cứu; chương 2 điểm lại các nghiên cứu trước và đưa ra khung phân tích; chương 3
xem xét thực trạng chính sách SHTT tại Việt Nam và phân tích vai trò của chính
sách đối với quá trình chuyển giao công nghệ; chương 4 đề xuất chính sách SHTT

đảm bảo cân bằng lợi ích giữa hai kênh tiếp nhận công nghệ và kết luận.


7

Chương 2

KHUNG PHÂN TÍCH
2. Khung phân tích
2.1. Các nghiên cứu trước
Nhiều nghiên cứu về SHTT toàn cầu ủng hộ tăng cường sự bảo vệ quyền
SHTT. Vai trò của quyền SHTT đối với tiến bộ công nghệ được các nhà nghiên cứu
kinh tế theo trường phái lý thuyết tăng trưởng nội sinh đánh giá cao. Lý thuyết tăng
trưởng nội sinh xem tiến bộ công nghệ là một biến số quan trọng. Những số liệu
thống kê lịch sử cho thấy những gợi ý về mối quan hệ đồng biến giữa tăng trưởng
kinh tế, R&D và SHTT (Idris, 2005). Yang và Maskus (2008) đề xuất bảo vệ quyền
SHTT mạnh để thúc đẩy chuyển giao công nghệ. Các nghiên cứu theo dòng quan
điểm này cho thấy quyền SHTT thúc đẩy thương mại toàn cầu, đồng thời cũng là
chất xúc tác cho tăng trưởng FDI.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lập luận rằng cần giảm bớt mức độ bảo
vệ quyền SHTT tại các nước đang phát triển để tiếp cận và sao chép công nghệ
trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Maskus (2000b) cho rằng quyền SHTT
yếu trong giai đoạn đầu sẽ giúp học hỏi công nghệ, nhưng trong dài hạn quyền
SHTT cần bảo vệ chặt để thúc đẩy sáng tạo. Chen và Puttianum (2004) đề xuất mức
độ bảo hộ quyền SHTT lúc đầu giảm dần rồi sau tăng dần. Quyền SHTT mạnh hay
yếu tùy thuộc mức độ phát triển của quốc gia. Mansfield (1994) cho thấy quyền
SHTT giảm chỉ tác động đến FDI trong việc liên doanh, các công ty từ Mỹ vẫn đầu
tư dự án 100% vốn nước ngoài và vốn đầu tư thuộc lĩnh vực phân phối.
Tại Hàn Quốc, Giáo sư Linsu Kim đã đóng góp rất nhiều nghiên cứu về mối
quan hệ giữa phát triển công nghệ và quyền SHTT. Từ những nghiên cứu trong nội

bộ ngành công nghiệp đến mức độ quốc gia, cho thấy vấn đề chính sách bảo vệ


8

quyền SHTT yếu hay mạnh nhằm khuyến khích chuyển giao công nghệ phụ thuộc
vào mức độ phức tạp của công nghệ và trình độ công nghệ.
Trong luận văn này, nhằm xem xét vai trò của chính sách bảo vệ quyền
SHTT trong khuyến khích chuyển giao công nghệ, tác giả áp dụng khung lý thuyết
dựa trên các nghiên cứu của Linsu Kim về quỹ đạo phát triển công nghệ và chuyển
giao công nghệ từ những nước phát triển vào những nước đang phát triển, mối liên
hệ giữa chuyển giao công nghệ và quyền SHTT, nghiên cứu của Maskus (2000b) về
chi phí chuyển giao công nghệ.
Để xem xét ảnh hưởng của chính sách bảo vệ quyền SHTT đến quá trình
chuyển giao công nghệ, trước hết tác giả điểm lại lý thuyết về quỹ đạo chuyển giao
công nghệ và các kênh chuyển giao công nghệ.
2.2. Ba giai đoạn chuyển giao trong quỹ đạo công nghệ
Những nghiên cứu của Linsu Kim (2003) đề xuất các giai đoạn phát triển của
công nghệ theo quỹ đạo công nghệ để các nước đang phát triển bắt kịp các nước
phát triển. Tại những nước phát triển, theo Utterback và Abernathy (từ Kim, 2003),
quỹ đạo công nghệ của một sản phẩm trải qua ba trạng thái được tác giả gọi là trạng
thái dễ biến đổi (fluid), trạng thái chuyển tiếp (transition) và trạng thái chi tiết
(specific). Quỹ đạo công nghệ tại các nước đang phát triển được Linsu Kim (1980)
nghiên cứu trong ngành điện tử Hàn Quốc và đưa ra mô hình ba giai đoạn: tiếp nhận
công nghệ (acquisition), hấp thụ công nghệ (assimilation) và cải tiến công nghệ
(improvement).
• Tiếp nhận công nghệ (acquisition): Ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, các
nước đang phát triển tiếp nhận các công nghệ cơ bản từ những nước công
nghiệp phát triển. Các doanh nghiệp nội địa phát triển quy trình sản xuất
thông qua việc tiếp nhận công nghệ trọn gói bao gồm dây truyền sản xuất,

sản phẩm, bí quyết công nghệ, nhân công kỹ thuật và các phần khác liên


9

quan. Giai đoạn này sẽ sản xuất ra những sản phẩm hoàn toàn giống những
sản phẩm của các công ty nước ngoài đã sản xuất.
• Hấp thụ công nghệ (assimilation): Sau khi tiếp nhận thành công công nghệ,
công nghệ sản xuất và tạo dáng sản phẩm nhanh chóng lan truyền trong
nước. Công nghệ mới tiếp tục được du nhập. Sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong nước để tiếp cận những công nghệ đó sẽ khuyến khích những
nỗ lực kỹ thuật nội địa trong việc hấp thụ và làm chủ công nghệ để sản xuất
những sản phẩm có đôi chút khác biệt.
• Cải tiến công nghệ (improvement): Trong một nền kinh tế mở, việc làm chủ
công nghệ thành công sẽ thúc đẩy doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm chủ
lực. Trong nỗ lực đó, sự kết hợp cùng năng lực tăng cường của khoa học và
nhân lực kỹ thuật trong nước sẽ dần dần cải tiến các công nghệ cơ bản. Điểm
nhấn của giai đoạn này là sao chép nguyên trạng, chính xác và “mở khóa”
được công nghệ.
2.3. Các hình thức chuyển giao công nghệ
Theo Linsu Kim, có bốn kênh có thể tiếp nhận công nghệ (Kim, 1997), được
mô tả trong hình 2.1. Sự phân chia này dựa vào cách tiếp nhận trực tiếp hoặc gián
tiếp, có thị trường hay không có thị trường. Tiếp nhận chính thức là khi người sở
hữu công nghệ quản lý được quá trình lan tỏa công nghệ của mình và thu được chi
phí nghiên cứu. Ngược lại, tiếp nhận công nghệ phi chính thức khi người sở hữu
công nghệ không quản lý được quá trình lan tỏa công nghệ và không thu được chi
phí nghiên cứu. Tiếp nhận công nghệ có thị trường là khi giao dịch được thực hiện
trên nguyên tắc hợp đồng có bên mua và bên bán, có thương lượng về chi phí. Tiếp
nhận công nghệ không có thị trường là chuyển giao công nghệ không có hợp đồng
cam kết. Công nghệ có thể ngẫu nhiên đi kèm theo giao dịch khác mà không phải

trả chi phí tiếp nhận công nghệ. Phụ lục 3 mô tả các kênh tiếp nhận công nghệ một
cách chi tiết.


10

Trực tiếp

Gián tiếp

Có thị
trường

Đầu tư trực tiếp,
li-xăng công nghệ,
cố vấn kỹ thuật

Sản phẩm thương mại,
tiêu chuẩn kỹ thuật

Không có
thị trường

Hỗ trợ kỹ thuật bởi
người mua, nhà cung
cấp

Quan sát, tham quan
thương mại, thông tin
kỹ thuật


Hình 2.1 - Các hình thức tiếp nhận công nghệ
Nguồn: Linsu Kim, 2003 [29]
Quá trình chuyển giao công nghệ chịu tác động bởi khả năng hấp thụ công
nghệ của các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ đó (Cohen và Levinthal, 1990;
Kim, 1998 từ Kim, 2003). Khả năng hấp thụ công nghệ là những gì có được thông
qua quá trình học hỏi công nghệ. Khả năng hấp thụ công nghệ phụ thuộc vào hai
nhân tố quan trọng là kiến thức nền và mức độ nỗ lực. Kiến thức nền là khả năng,
trình độ học vấn của mỗi cá nhân trong tổ chức. Mức độ nỗ lực là phần năng lực các
cá nhân trong tổ chức bỏ ra để cùng giải quyết vấn đề.
Việc chuyển giao công nghệ có thể là khó hay dễ tùy thuộc vào độ phức tạp
của công nghệ và cách tiếp nhận (Maskus, 2000b). Ví dụ như việc sao chép một
phần mềm là khá đơn giản, nhưng việc nắm được phần mềm đó có cấu trúc thế nào
lại khó khăn hơn. Sao chép hình dáng bên ngoài sản phẩm là đơn giản, nhưng nắm
được công nghệ bên trong là rất khó khăn. Những sản phẩm công nghệ phức tạp
như việc sản xuất bản mạch, chíp máy tính là rất khó sao chép.
2.4. Vai trò của chính sách SHTT đối với chuyển giao công nghệ
Quyền SHTT có ảnh hưởng quan trọng đến chi phí chuyển giao công nghệ
(Maskus, 2000b). Theo Teece (trong Maskus, 2000b) dù công nghệ được chuyển
giao theo cách nào cũng phải tốn chi phí. Chi phí có thể không đáng kể như trong


11

trường hợp sao chép phần mềm đến rất nhiều đối với việc mua chuyển giao quyền
sử dụng đối tượng SHTT sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Xét trên góc độ tiếp
nhận công nghệ không trực tiếp, quyền SHTT mạnh sẽ ngăn chặn khả năng sao
chép nguyên trạng sản phẩm (như đối với phần mềm máy tính) và làm tăng chi phí
mô phỏng công nghệ hoặc kỹ thuật ngược. Xét trên góc độ tiếp nhận công nghệ
gián tiếp, quyền SHTT mạnh sẽ làm giảm chi phí chuyển giao của chủ công nghệ

bởi hai lý do: một là do quyền SHTT được bảo đảm sẽ tạo ra một hiệu ứng mở rộng
thị trường nghiên cứu; hai là quyền SHTT mạnh tạo điều kiện thuận lợi cho giao
dịch công nghệ và tạo ra những hợp đồng chuyển giao rõ ràng hơn.
Do đó, quyền SHTT đóng vai trò cân bằng trong thúc đẩy sáng tạo và hạn
chế sao chép, ảnh hưởng đến tiếp nhận chủ động hoặc bị động. Khi quyền sở hữu trí
tuệ tại một quốc gia được bảo đảm mạnh, chuyển giao công nghệ theo hướng chính
thức nhiều hơn, các hãng trong nước cũng sẵn sàng đầu tư chi phí để tiếp nhận công
nghệ mới, đầu tư chi phí nghiên cứu để làm chủ và cải tiến công nghệ. Nhưng khi
đó, các sản phẩm sản xuất theo công nghệ nước ngoài có xu hướng độc quyền nhiều
hơn, tăng giá và làm giảm thặng dư xã hội và thặng dư tiêu dùng. Đồng thời, các
hãng trong nước do có môi trường cạnh tranh mạnh sẽ đầu tư cho nghiên cứu nhiều
hơn, tạo ra những sản phẩm phù hợp hơn sẽ tác động tăng hiệu quả đầu tư và tăng
thặng dư xã hội (Chen và Puttianum, 2005). Ngược lại, khi quyền sở hữu trí tuệ yếu,
xu hướng chuyển giao công nghệ theo hướng bị động tăng, đặc biệt là sao chép
nguyên trạng. Xu hướng này trong ngắn hạn sẽ làm giảm giá thành sản phẩm (do
giảm chi phí chuyển giao công nghệ), tăng thặng dư xã hội và thặng dư tiêu dùng.
Nhưng trong dài hạn sẽ không có tác dụng khuyến khích các hãng trong nước đầu
tư chi phí cho nghiên cứu và quá trình phát triển công nghệ chỉ dừng lại ở giai đoạn
chuyển giao mà khó chuyển qua giai đoạn làm chủ và cải tiến.
Khung phân tích trên sẽ được sử dụng làm cơ sở lý thuyết cho những phân tích
trong chương 3 nhằm xem xét vai trò của chính sách bảo vệ quyền SHTT trong thúc
đẩy chuyển giao công nghệ trong ngành CNTT từ các nước phát triển vào Việt Nam.


12

Chương 3

VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG QUÁ TRÌNH THÚC ĐẨY CHUYỂN GIAO

CÔNG NGHỆ NGÀNH CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
VIỆT NAM
3.
3.1. Chính sách bảo vệ quyền SHTT tại Việt Nam
Chính sách bảo vệ thành quả sáng tạo được Việt Nam ý thức từ rất sớm. Từ
nền kinh tế kế hoạch hóa bao cấp, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và
sáng chế đã được công nhận và trao thưởng nhằm khuyến khích sáng tạo trong lao
động sản xuất. Trải qua quá trình phát triển, các thành quả sáng tạo ngày càng được
mở rộng phạm vi và đối tượng bảo hộ độc quyền với chính sách khuyến khích dựa
trên lợi ích về vật chất ngày càng cao. Hiện nay, văn bản cao nhất là Luật SHTT
quy định các đối tượng SHTT hiện nay được bảo hộ chia làm ba mảng chính. Các
đối tượng sở hữu công nghiệp gồm có sáng chế/giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh
doanh và tên thương mại. Các đối tượng bảo hộ bản quyền gồm có phần mềm, các
tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc. Giống cây trồng mới cũng là đối tượng
được bảo hộ quyền SHTT. Sự mở rộng đa dạng các đối tượng SHTT cho phép các
sáng tạo được bảo hộ dễ dàng dưới nhiều hình thức khác nhau (xem sơ đồ 3.1 các
đối tượng và cơ quan bảo hộ quyền SHTT tại Việt Nam trang sau).
Chính sách thực thi quyền SHTT được phân công cho các cơ quan chuyên
ngành gồm Toà án, Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Uỷ ban nhân


13

dân các cấp. Tòa án chịu trách nhiệm xử lý hình sự. Thanh tra chuyên ngành chịu
trách nhiệm kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm theo thẩm quyền khi có yêu cầu trong
lĩnh vực đối tượng SHTT pháp luật quy định. Cơ quan quản lý thị trường chịu trách
nhiệm kiểm tra, xử phạt hành chính đối với hàng hóa vi phạm quyền SHTT lưu
thông trên thị trường. Cơ quan hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, xử phạt hành
chính hàng hóa vi phạm quyền SHTT trong lĩnh vực ngoại thương. Công an chịu

trách nhiệm phối hợp khi có yêu cầu, trực tiếp xử lý tội phạm vi phạm pháp luật
SHTT. Ủy ban nhân dân các cấp cũng có quyền sử phạt vi phạm hành chính theo
thẩm quyền.
Chính phủ

quan
bảo hộ

Các
đối
tượng
SHTT
được
bảo hộ

Bộ Khoa học
và Công nghệ

Bộ Văn hóa
Thể thao, Du lịch

Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn

Cục Sở hữu trí tuệ

Cục Bản quyền tác giả

Văn phòng bảo hộ
giống cây trồng mới


Sáng chế
Kiểu dáng công nghiệp
Nhãn hiệu hàng hóa
Bố trí mạch tích hợp

Tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học
(bao gồm chương
trình phần mềm)

Giống cây trồng
và vật liệu nhân
giống

Cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình,
chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh

Chỉ dẫn địa lý
Bí mật kinh doanh
Tên thương mại

Hình 3.1. Sơ đồ các đối tượng và cơ quan bảo hộ quyền SHTT tại Việt Nam


14

3.1.1. Chính sách bảo hộ sáng chế tại Việt Nam

Một hệ thống bằng độc quyền sáng chế mạnh và sự thực thi phù hợp là điều
kiện tiên quyết cho chuyển giao công nghệ (Idris, 2005). Sáng tạo ở mức độ cao
nhất được bảo vệ sáng chế dưới hai hình thức: sáng chế sản phẩm và cải tiến quy
trình (được gọi là giải pháp hữu ích). Giải pháp hữu ích thường thích hợp hơn với
những cải tiến trong dây truyền sản xuất. Tuy nhiên, các quy định về bảo hộ sáng
chế là rất nghiêm ngặt và cản trở một số thành quả sáng tạo ở mức độ thấp được cấp
bằng độc quyền sáng chế. Ví dụ như sáng tạo về hình thức sản phẩm, về bố trí mạch
tích hợp sẽ rất khó đáp ứng được trình độ sáng tạo và tính mới để bảo vệ thành sáng
chế. Ở một mức độ yêu cầu thấp hơn, các sáng tạo này được bảo hộ dưới dạng bằng
độc quyền kiểu dáng công nghiệp hoặc thiết kế bố trí mạch tích hợp.
Chính sách bảo hộ sáng chế từ khi ra đời đến nay đã có nhiều thay đổi,
nhưng chưa thấy tác động làm thay đổi số lượng đơn sáng chế của người Việt và
chưa đủ cơ sở kết luận ảnh hưởng đến số lượng đơn sáng chế từ người nước ngoài
nộp tại Cục SHTT. Điểm quan trọng đầu tiên của chính sách bảo hộ sáng chế là thời
gian bảo hộ. Thời gian bảo hộ là một đặc điểm quan trọng của hệ thống sáng chế
nhằm khuyến khích bảo hộ. Thời gian bảo hộ thấp sẽ khuyến khích công nghệ
khuếch tán vì khi hết thời gian bảo hộ, công nghệ có thể được sử dụng miễn phí.
Thời gian bảo hộ càng tăng sẽ càng khuyến khích nghiên cứu phát triển và nộp đơn
bảo hộ sáng chế/giải pháp hữu ích vì các thành quả sáng tạo được có thời gian bảo
dài hơn nên có xác suất thu lợi nhuận lớn hơn. Tuy nhiên, thời gian bảo hộ tăng là
một khó khăn hơn cho việc khuếch tán công nghệ do chủ sở hữu được có thời gian
độc quyền dài hơn. Năm 1993, khi nghị định 63/CP ra đời đã nâng thời gian bảo hộ
sáng chế từ 15 năm lên 20 năm, giải pháp hữu ích có thời hạn bảo hộ 15 năm Sự
thay đổi này bắt nguồn từ áp lực hội nhập quốc tế và để phù hợp với các yêu cầu khi
Việt Nam muốn tham gia vào hiệp ước quốc tế. Chính sách này đã không có tác
động tăng số đơn sáng chế cũng như giải pháp hữu ích của người Việt. Bằng chứng
là số đơn sáng chế và giải pháp hữu ích không những tăng mà ngược lại còn giảm.


15


Đơn sáng chế từ người nước ngoài từ 1993 đến 1997 đã có giai đoạn tăng trưởng
cao nhưng lại tăng trưởng từ trước thời điểm có chính sách nên khó có thể kết luận
đó là kết quả của chính sách (xem số liệu chi tiết tại phụ lục 3 và phụ lục 5).
Nguyên nhân có lẽ xuất phát từ nền tảng nghiên cứu. Trong một tình trạng
đầu tư cho R&D không nhiều, công nghệ đang ở những giai đoạn đầu với mục đích
tạo ra những sản phẩm tương tự thì phản ứng của người nộp đơn sáng chế Việt Nam
trước thông tin thay đổi chính sách không mạnh cũng là điều dễ hiểu.
Thay đổi thứ hai là yêu cầu tính mới. Đầu tiên sáng chế được bảo hộ với
những yêu cầu rất sơ khai và tính mới chỉ hạn chế trong nền kinh tế quốc dân. Giải
pháp hữu ích được gọi là sáng kiến, hợp lý hóa sản xuất. Tuy nhiên, sáng chế được
bảo vệ chỉ yêu cầu tính mới trong nền kinh tế trong nước là không phù hợp với các
hiệp ước quốc tế và không được các quốc gia khác công nhận. Cho đến năm 1990,
sau khi nền kinh tế mở cửa, khái niệm về sáng chế được định nghĩa về sáng chế
được rõ ràng hơn và phù hợp hơn: sáng chế phải có tính mới so với trình độ kỹ thuật
thế giới8. Tuy nhiên, sự thay đổi này là những giai đoạn khởi đầu của hệ thống sáng
chế nên số liệu cực thấp chưa phản ánh được thay đổi của chính sách.
Năm 2005, Luật SHTT ra đời do yêu cầu hội nhập WTO, hai đối tượng sáng
chế và giải pháp hữu ích được gọi chung là sáng chế và có hai hình thức cấp văn
bằng: bằng độc quyền sáng chế và bằng độc quyền giải pháp hữu ích. Điểm khác
nhau duy nhất là bằng sáng chế yêu cầu có trình độ sáng tạo trong khi bằng giải
pháp hữu ích không yêu cầu9. Sự phân biệt bảo hộ sáng chế thành hai đối tượng
sáng chế và giải pháp hữu ích nhằm gia tăng số lượng sáng chế cải tiến quy trình
được bảo hộ dưới dạng giải pháp hữu ích, không đòi hỏi tính sáng tạo và tính mới
cao. Điều này nhằm mục đích khuyến khích sáng tạo trong nước ở trình độ chưa
Điều 10, Điều lệ về sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và sáng chế ban hành kèm theo Nghị
định số 31/CP ngày 23/1/1981 được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 84/HĐBT ngày 20/3/1990: “Sáng chế là
giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật thế giới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng trong các
lĩnh vực kinh tế - xã hội”
9

Điều 58, Luật SHTT năm 2005.
8


16

cao. Tuy nhiên, sự khuyến khích này cũng không nhìn thấy rõ ràng qua đơn giải
pháp hữu ích của người Việt không tăng cao như kỳ vọng. Nguyên nhân cốt lõi có
lẽ vẫn do mức độ đầu tư R&D cho nghiên cứu tại Việt Nam thấp.
3.1.2. Thực trạng số liệu sáng chế
Sáng chế của người Việt Nam rất ít. Số liệu thống kê về sáng chế của người
Việt chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng số sáng chế: Số đơn sáng chế chỉ chiếm 9%; Số
bằng sáng chế chỉ chiếm chưa đầy 5% (số liệu chi tiết tại phụ lục 4, 5). Mỗi năm chỉ
có vài chục bằng sáng chế được cấp cho người Việt Nam, năm cao nhất cũng chưa
đạt 50 bằng sáng chế. Nếu theo thống kê của WIPO, số sáng chế bao gồm cả bố trí
mạch tích hợp bán dẫn và phần mềm thuộc lĩnh vực máy tính chiếm 7% tổng số thì
lĩnh vực CNTT Việt Nam mỗi năm chưa có nổi một bằng sáng chế. Trong cả năm
2008 Việt Nam không có một bằng sáng chế nào được cấp bởi USPTO10. Trong khi
đó các nước trong khu vực đều có số sáng chế cao: Đài Loan đạt 279,25 bằng/triệu
dân, Hàn Quốc đạt 155,97 bằng/triệu. Các nước Đông Nam Á cũng có số liệu sáng
chế tốt hơn Việt Nam nhiều như: Malaysia 5,36 bằng/triệu dân, Thái Lan 0,34
bằng/triệu dân.
Số liệu về giải pháp hữu ích cho thấy người Việt chiếm ưu thế hơn. Số đơn
sáng chế từ công dân Việt Nam chiếm gần 60% tổng số và số bằng giải pháp hữu
ích chiếm hơn 60% tổng số. Tuy nhiên tổng số đơn giải pháp hữu ích chỉ bằng 9,7%
số đơn sáng chế, tổng số bằng giải pháp hữu ích cũng chỉ tương đương 9% số bằng
sáng chế. Số liệu thống kê giai đoạn từ năm 1900 đến 2007, chỉ có 4 năm gần đây
số đơn và số bằng sáng chế của công dân Việt Nam đạt trên 100, còn lại chỉ dừng ở
mức hai con số. Tốc độ tăng trưởng trung bình 15%, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng
không đều, có những năm tăng trưởng gần gấp đôi và có nhiều năm lại giảm (số liệu

chi tiết tại phụ lục 6).

10

Cơ quan quản lý sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ, nguồn số liệu của WEF.


17

Tổng số bằng sáng chế và giải pháp hữu ích cấp ra chỉ đạt khoảng 35% tổng
số đơn. Nếu tính độ trễ trung bình của việc cấp văn bằng là khoảng 2 năm (căn cứ
vào thời gian công bố đơn 18 tháng), thì số văn bằng được cấp so với số đơn trước
đó 2 năm có tỉ lệ khác biệt lớn. Có những năm tỉ lệ này lên đến hơn 80%, nhưng có
những năm tỉ lệ này chỉ đạt 20%, thậm chí dưới 20%. Một trong những lý do là mức
độ chắc chắn của đơn yêu cầu cấp văn bằng là rất không đồng đều. Tuy nhiên, cũng
không loại trừ khả năng quá tải của cơ quan cấp văn bằng đã làm chậm quá trình
cấp văn bằng trong một số thời điểm nhất định (số liệu chi tiết tại phụ lục 7).
Phản ứng của người nộp đơn với việc thay đổi chính sách như kéo dài thời
gian bảo hộ, tăng chi phí nộp đơn cũng không nhìn thấy qua số liệu thống kê đơn
sáng chế. Trong các mốc về thay đổi thời gian bảo hộ, tăng chi phí nộp đơn, số đơn
sáng chế và giải pháp hữu ích đều không có sự tăng trưởng đột biến. Điểm này cho
thấy chính sách bảo hộ sáng chế dường như bị áp lực của cộng đồng quốc tế nên
buộc phải thay đổi nhiều hơn là sự chủ động của chính sách nhằm khuyến khích
trực tiếp đến tăng trưởng số đơn, khuyến khích gián tiếp đến chuyển giao công nghệ
theo kênh chính thức.
3.1.3. Thực trạng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT
Số liệu thống kê chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT tại Việt Nam
cho thấy có sự chuyển dịch của công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam nhưng rất
thấp thể hiện qua số lượng hợp đồng và số đối tượng chuyển giao quyền sử dụng
công nghệ. Chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHTT được thống kê theo ba loại

hợp đồng tùy vào các bên tham gia giao dịch: giữa nước ngoài và nước ngoài; giữa
nước ngoài và Việt Nam; giữa Việt Nam và Việt Nam. Số lượng đơn cũng như hợp
đồng đã được đăng bạ đều cho thấy khối lượng giao dịch giữa Việt Nam và nước
ngoài chiếm ưu thế cả về số hợp đồng và số đối tượng chuyển giao. Tuy nhiên, số
lượng hợp đồng năm cao nhất cũng chỉ đạt gần một trăm hợp đồng cho toàn bộ các
ngành công nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành CNTT thông tin gần đây mặc


×