Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Tác động của các yếu tố nguồn nhân lực đến tăng trưởng kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THU HẰNG

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN NHÂN
LỰC ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Tp.Hồ Chí Minh - Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THU HẰNG

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN NHÂN
LỰC ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng

Tp.Hồ Chí Minh - Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan rằng luận văn này “Tác động của các yếu tố nguồn nhân lực
đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” là bài nghiên cứu của chính tôi.
Ngoại trừ những tài liệu tham khảo được trích dẫn trong luận văn này, tôi
cam đoan rằng toàn phần hay những phần nhỏ của luận văn này chưa từng được
công bố hoặc được sử dụng để nhận bằng cấp ở những nơi khác.
Không có sản phẩm/nghiên cứu nào của người khác được sử dụng trong luận
văn này mà không được trích dẫn theo đúng quy định.
Luận văn này chưa bao giờ được nộp để nhận bất kỳ bằng cấp nào tại các
trường đại học hoặc cơ sở đào tạo khác.
Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2014.


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các biểu đồ, bảng biểu
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài ................................................................................. 01
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................................... 02
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................................... 03
4. Nội dung và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 03
5. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 03
Chương 1: Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và phát triển kinh tế
1.1 Một số lý luận về nguồn nhân lực ............................................................. 05
1.2 Vai trò của vốn nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế ....................... 07
1.2.1 Vai trò của giáo dục đối với phát triển kinh tế ................................. 09
1.2.2 Vai trò của sức khỏe đối với sự phát triển kinh tế ............................ 13
1.3 Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế và yếu tố nguồn nhân lực ............... 14
1.4 Các nghiên cứu trong và ngoài nước ........................................................ 19

1.4.1 Các nghiên cứu trên thế giới .............................................................. 19
1.4.2 Các nghiên cứu trong nước ................................................................ 23
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
2.1 Quy trình nghiên cứu................................................................................. 25
2.2 Mô tả dữ liệu ............................................................................................. 25
2.3 Mô hình nghiên cứu .................................................................................. 29
2.4 Phương pháp phân tích dữ liệu.................................................................. 31


2.4.1 Thống kê mô tả dữ liệu ...................................................................... 31
2.4.2 Kiểm tra ma trận tương quan ............................................................. 31
2.4.3 Kiểm tra tính dừng của dữ liệu và chọn độ trễ tối ưu ........................ 31
2.4.4 Các kiểm định mô hình ...................................................................... 33
2.5. Giả thiết nghiên cứu ................................................................................ 37
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
3.1 Thống kê mô tả dữ liệu ............................................................................. 39
3.2 Ma trận hệ số tương quan .......................................................................... 39
3.3 Phân tích hồi quy ....................................................................................... 40
3.3.1 Kiểm định tính dừng .......................................................................... 40
3.3.2 Xác định độ trễ tối ưu. ....................................................................... 44
3.3.3 Kết quả mô hình hồi quy.................................................................... 44
3.3.4 Kiểm định mô hình hồi quy. .............................................................. 47
3.4 Nhận xét .................................................................................................... 49
Chương 4: Kết luận và kiến nghị
4.1 Kết luận ..................................................................................................... 52
4.2 Giải pháp đối với giáo dục và sức khỏe nhằm tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam cho những năm tiếp theo ................................................................ 54
4.3 Kiến nghị .................................................................................................. 55
4.4 Hạn chế của đề tài và các hướng nghiên cứu tiếp theo ............................ 59
Tài liệu tham khảo

Phụ lục tính toán


Danh mục các hình, bảng biểu

Bảng 1.1 Kết quả nghiên cứu của Isola và Alani…………………………………19
Bảng 1.2 Kết quả nghiên cứu của Hanushek and Woessmann (2012a)………......20
Hình 2.1 Quy trình nghiên cứu…………………………………...……………... 25
Hình 2.2 Mô hình nghiên cứu…………………………………...……………… 30
Hình 2.3 Quy trình kiểm tra số liệu phù hợp trên Eviews……...………… .…… 33
Hình 2.4 Quy trình kiểm định mô hình ARDL……...…………… ………………37
Bảng 2.1 Tóm tắt các biến và dấu kỳ vọng ............................................................. 38
Bảng 3.1 Thống kê dữ liệu nghiên cứu ................................................................... 39
Bảng 3.2 Ma trận hệ số tương quan ........................................................................ 40
Bảng 3.3 Kiểm định tính dừng cho biến GDP ........................................................ 41
Bảng 3.4 Kiểm định tính dừng cho biến GRL ........................................................ 41
Bảng 3.5 Kiểm định tính dừng cho biến DGRL ..................................................... 42
Bảng 3.6 Kiểm định tính dừng cho biến D2GRL ................................................... 42
Bảng 3.7 Kiểm định tính dừng cho biến LE ........................................................... 43
Bảng 3.8 Kiểm định tính dừng cho biến DLE ........................................................ 43
Bảng 3.9 Kiểm định tính dừng cho biến LR ........................................................... 44
Bảng 3.10 Độ trễ tối ưu ........................................................................................... 44
Bảng 3.11 Kết quả hồi quy ban đầu ........................................................................ 45
Bảng 3.12 Kết quả kiểm định thừa biến .................................................................. 45
Bảng 3.13 Kết quả sau khi loại bỏ biến thừa .......................................................... 46
Bảng 3.14 Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi ....................................... 47
Bảng 3.15 Kết quả kiểm định tự tương quan .......................................................... 47
Bảng 3.16 Kết quả sau khi loại bỏ biến thừa .......................................................... 48



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Thực trạng các nước đang phát triển đang đi tìm một hướng xây dựng
chiến lược phát triển kinh tế, thông qua khai thác các nguồn lực kinh tế và con
người nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong điều kiện tình hình
kinh tế xã hội từng quốc gia và từng giai đoạn phát triển, thì tác động của từng
nhân tố đối với tăng trưởng kinh tế cần thiết phải được kiểm định để từ đó điều
chỉnh chính sách và chiến lược phù hợp. Như vậy, một vấn đề đặt ra đối với các
nước là phải đánh giá đúng mối tương quan giữa các nhân tố với tăng trưởng
kinh tế, phát triển nguồn nhân lực với tăng trưởng kinh tế, định mức chi tiêu đầu
tư hiệu quả để phát huy tác dụng của các nhân tố, nhưng đồng thời ngăn chặn
nguy cơ gây ra những biến động tiêu cực cho quốc gia.
Nguồn nhân lực là nguồn gốc của mọi sự phát triển trong xã hội, ngay cả
các dịch vụ hàng ngày đang cung cấp cho chúng ta như giáo dục, y tế cũng đều
thực hiện bởi nguồn nhân lực là con người, và mục đích của các dịch vụ đó cũng
chính là cách quan trọng của việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực cho xã hội
để phục vụ cho một mục tiêu chung là phát triển kinh tế xã hội. Sự quay vòng đó
đem tới một nỗ lực không ngừng trong việc phát triển nguồn nhân lực để phát
triển đất nước.
Sức khỏe là nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế, một trong
những chìa khóa đối với yết tố quyết định hiệu quả kinh tế cả ở cấp vi mô và vĩ
mô. Điều này cũng xuất phát từ các nghiên cứu cho rằng sức khỏe là một thành
phần trực tiếp của đời sống con người và là một hình thức làm tăng sự phát triển
cá nhân cũng như phát triển xã hội (Blomm & Canning, 2003; Grossman, 1972),
hay là lập luận cho rằng chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định tới năng
suất lao động và cũng nhất mạnh vào giá trị của sự đầu tư giáo dục và y tế
(Shultz, 1992). Bên cạnh yếu tố về sức khỏe, thì giáo dục cũng đã được nhắc tới



2

trong việc đánh giá sự phát triển của nền kinh tế. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng
nền kinh tế phụ thuộc vào giáo dục (Shultz, 1961; Denis, 1962).
Qua các nghiên cứu trước đây có thể thấy được tầm quan trọng của nguồn
nhân lực mà ở đây là hai yếu tố chính là giáo dục và sức khỏe có vai trò vô cùng
quan trọng, hay nói cách khác là không thể thiếu trong sự tăng trưởng kinh tế.
Vì vậy, để làm rõ áp dụng cho Việt Nam, tác giả tiến hành thực hiện
nghiên cứu “Tác động của các yếu tố nguồn nhân lực đến tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Với mục tiêu chính của bài nghiên cứu nhằm tìm ra sự tác động của yếu tố
nguồn nhân lực lên sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam nhằm lý giải cũng như
khám phá ra các yếu tố mới, những sự khác biệt trong môi trường xã hội ở Việt
Nam so với các nghiên cứu trước kia về tác động của nguồn nhân lực lên tăng
trưởng kinh tế. Ngoài ra tác giả sẽ tìm ra mức độ tác động của các nhân tố nguồn
nhân lực đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế như thế nào để từ đó có các
khuyến nghị phù hợp giúp nền kinh tế tăng trưởng một cách nhanh nhất và bền
vững. Việc đưa ra khuyến nghị nên tập trung vào cái nào nhiều hơn, đầu tư ít
hơn vào yếu tố nào sẽ góp phần giảm chi phí đầu tư công cho xã hội đồng thời
làm tăng hiệu quả đầu tư cho xã hội.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên các vấn đề được đặt ra trong
quá trình nghiên cứu của đề tài:
Tác động của các yếu tố nguồn nhân lực tới tăng trưởng kinh tế, tập trung
vào yếu tố liên quan tới giáo dục và sức khỏe con người.
Xem xét đánh giá xem yếu tố nào có tầm quan trọng hơn yếu tố nào trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.



3

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài tập trung nghiên cứu về tác động của các yếu tố nguồn nhân lực lên
tăng trưởng kinh tế để lý giải các lý thuyết có trước và tìm ra các điểm mới của
nghiên cứu.
Do nguồn lực có hạn nên phạm vi không gian nghiên cứu của luận văn
được tiến hành tại quốc gia Việt Nam, tập trung nghiên cứu yếu tố nguồn nhân
lực qua hai nhân tố chính là giáo dục và sức khoẻ tác động lên tăng trưởng kinh
tế, được thể hiện qua các biến độc lập: tỷ lệ nguời lớn biết chữ, tuổi thọ trung
bình, tăng trưởng lao động. Số liệu được khảo sát trong khoảng thời gian từ năm
1990 đến năm 2013.

4. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên lý thuyết về tăng trưởng kinh tế và yếu tố nguồn nhân lực, bài
luận văn này tác giả nghiên cứu và đưa ra đánh giá về tác động của các yếu tố
nguồn nhân lực lên sự phát triển kinh tế ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1990 đến
năm 2013. Với kết quả đạt được sau khi nghiên cứu, tác giả sẽ đưa ra các khuyến
nghị giúp cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế dựa trên đầu tư và phát triển các
yếu tố nào của nguồn nhân lực ở Việt Nam và không cần đầu tư quá nhiều vào
yếu tố nào vì lý do yếu tố này không có tác động.
Trong luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng
trên cơ sở xây dựng các dữ liệu để tiến hành kiểm định tác động của các yếu tố
nguồn nhân lực đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Số liệu được tác giả phân
tích bằng phương pháp phân phối trễ tự hồi quy ARDL (AutoRegressive
Distributed Lag model) và sử dụng phần mềm Eviews để xử lý số liệu và các
bước hồi quy.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu trong 4 chương, gồm:



4

Chương 1: Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và phát triển kinh tế
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Kết luận và kiến nghị
Tóm tắt
Phần mở đầu khái quát tổng quan về mục tiêu nghiên cứu của đề tài, từ đó
đưa ra các câu hỏi nghiên cứu cho đề tài, các phần sau của bài luận văn sẽ tập
trung trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu này. Bên cạnh đó tác giả cũng chỉ ra đối
tượng nghiên cứu là đánh giá tác động của vốn con người lên tăng trưởng kinh tế
và phạm vi nghiên cứu là tại Việt Nam trong giai đoạn 1990 đến 2013.


5

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1 Một số lý luận về nguồn nhân lực
Vốn con người (Human capital) được xác định là tài sản của mỗi quốc gia.
Khi định giá tài sản quốc gia các nhà kinh tế cũng tính toán phần giá trị của nó vào
tổng tài sản. Ngày nay nguồn vốn này giữ vai trò rất lớn trong sự phát triển của
mỗi quốc gia và là nguồn lực quyết định tới tính bền vững sự tăng trưởng kinh tế.
Vốn con người là vốn vô hình gắn với con người và thể hiện qua kết quả và hiệu
quả làm việc trong quá trình sản xuất. Vốn con người hình thành và tích luỹ nhờ
giáo dục đào tạo và từng trải trong cuộc sống lao động.
Ngày nay khi vai trò của nguồn nhân lực đang ngày càng được thừa nhận
như một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn và công nghệ cho mọi sự tăng trưởng thì

một trong những yêu cầu để hòa nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới
là phải có được nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng những yêu cầu của trình độ
phát triển của khu vực, thế giới, thời đại.
Vốn con người là những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tích luỹ trong
mỗi con người nhờ quá trình học tập, rèn luyện và lao động. Nguồn vốn này được
khai thác sử dụng trong quá trình người lao động tham gia vào sản xuất và được
phản ánh qua năng suất lao động và hiệu quả công việc của họ. Cùng với vốn hữu
hình nó tạo ra tài sản của nền kinh tế, nhưng vốn con người là phần cấu thành
quan trọng nhất trong đó, góp phần vào tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế của
mỗi nước.
Nguồn nhân lực là của toàn bộ nhưng người lao động đang có khả năng
tham gia vào các quá trình hoạt động và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã hội.
Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã hội,
là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân


6

cư lao động trong độ tuổi lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương
đương với nguồn lao động.
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tập hợp cá nhân, những con người cụ thể
tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần
được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này người lao động bao gồm
những người từ dưới giới hạn độ tuổi lao động trở lên.
Người lao động được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số
lượng nguồn nhân lực được biểu hiện qua chỉ tiêu quy mô và tốc độ nguồn tăng
nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với các chỉ tiêu quy mô và
tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng trưởng dân số càng cao
thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên
mối quan hệ dân số và nguồn lực được biểu hiện sau một thời gian nhất định vì

đến lúc đó con người mới phát triển đầy đủ, mới có khả năng lao động.
Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người đóng
vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối quá trình đó, hướng nó tới mục
tiêu nhất định. Vì vậy nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng, lao động
đã có và sẽ có mà nó còn bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng
làm việc, thái độ và phong cách làm việc…, tất cả các yếu tố đó ngày nay đều
thuộc về chất lượng nguồn nhân lực và được đánh giá là một chỉ tiêu tổng hợp gọi
là văn hóa lao động. Ngoài ra, khi xem xét nguồn nhân lực, cơ cấu của lao động bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề cũng là một chỉ tiêu rất quan
trọng.
Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt chất lượng nguồn
nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất cho xã
hội.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng lao động, những
người lao động phải được đào tạo, phân bổ theo cơ cấu hợp lý, đảm bảo tính hiệu
quả cao trong sử dụng lao động. Một quốc gia có lượng lao động đông đảo, nhưng


7

nếu phân bổ không hợp lý giữa các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo không phù
hợp với nhu cầu sử dụng thì lực lượng lao động đông đảo đó không những không
trở thành nguồn lực để phát triển mà nhiều khi còn là gánh nặng cản trở sự phát
triển.
Nguồn lực con người là tổng thể các tiềm năng, năng lực, khả năng của mỗi
cá nhân, của mỗi cộng đồng và toàn xã hội đã tạo ra sự phát triển cho xã hội được
thể hiện qua các yếu tố như giáo dục, chuyên môn, kĩ năng lao động, mức sống,
sức khỏe, tư tưởng tình cảm. Trong các yếu tố đó thì 2 nhân tố quan trọng và bao
quát nhất là giáo dục và sức khỏe.
1.2 Vai trò của vốn nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế
Nguồn nhân lực là mục tiêu tác động chính của sự phát triển.

Nói đến vai trò nguồn nhân lực là nói đến vai trò của con người trong sự
phát triển. Con người là trung tâm của mọi sự phát triển, mọi sự phát triển đều
hướng vào mục tiêu duy nhất là phục vụ con người.
Vai trò của con người được thực hiện ở hai mặt: trước hết con người là
người tiêu dùng, đồng thời con người cũng sản xuất ra nhưng sản phẩm tiêu dùng.
Sự tiêu dùng của con người là nguồn gốc của sự phát triển, cùng với nhu
cầu ngày càng phát triển và đòi hỏi đáp ứng nhu cầu của con người ngày càng
nâng cao, sản xuất là để phục vụ tiêu dùng, tiêu dùng là động lực thức đẩy sản
xuất.
Con người thông qua quá trình lao động sản xuất đã ngày càng đáp ứng hơn
nhu cầu tiêu dùng của mình, thông qua hoạt động lao động sản xuất con người
phát triển và hoàn thiện hơn, chỉ có thông qua lao động sản xuất con người mới
sáng tạo ra các giá trị vật chất tinh thần, lao động của con người đóng vai trò quyết
định.


8

Nghị quyết của đại hội Đảng VIII quyết định “nâng cao dân trí và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công
nghiệp hoá - hiện đại hoá”.
Việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã đem lại
những bước tiến thần kỳ cho sự phát triển kinh tế, thực tế đã chứng minh sự phát
triển vượt bậc của các quốc gia có chiến lược về công nghệ đúng đắn. Tài nguyên
trí thức là nguồn tài nguyên vô giá, quốc gia nào sử dụng nguồn tài nguyên này thì
quốc gia đó nắm được chìa khóa của sự phát triển.
Trí thức và công nghệ là sản phẩm của sự sáng tạo của con người hay nói
cách khác chính là sản phẩm của nguồn nhân lực qua quá trình lao động, con
người chính là chủ thể qua quá trình lao động, công nghiệp hoá - hiện đại hoá có
thành công hay không là do chính sách sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả hay

không, có làm phát huy mọi tiềm năng của con người để sáng tạo và cống hiến
cho đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá, yếu
tố vốn hữu hình tuy còn giữ vài trò quan trọng nhưng không như trong giai đoạn
công nghiệp hoá, Thay vào đó vai trò của vốn vô hình mà đặc biệt là vốn con
người ngày càng lớn hơn.
Đây là nguồn vốn rất quan trọng với các công ty vì được tính vào giá trị của
họ, và hình thành nên vốn vô hình của quốc gia. Vốn con người đóng vai trò ngày
càng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế: (1) đó là các kỹ năng được tạo
ra bởi giáo dục và đào tạo, vốn con người là yếu tố của quá trình sản xuất kết hợp
với vốn hữu hình và các lao động “thô” (không có kỹ năng) để tạo ra sản phẩm;
(2) đó là kiến thức để tạo ra sự sáng tạo, một yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế.”
(Mincer, 1989). Ngoài ra, người ta đã đưa vốn con người như một yếu tố đầu vào
để phân tích tăng trưởng kinh tế và đã chỉ ra ảnh hưởng tích cực của nó giống như
vốn hữu hình nhưng mức độ ngày càng lớn hơn. Tuy nhiên, nếu đầu tư hình thành
vốn con người chưa tốt không hiệu quả thì nguồn vốn này không tác động tích cực
mà lại làm giảm tăng trưởng. Theo cách tiếp cận thu nhập GDP của nền kinh tế


9

bằng tổng thu nhập của mọi người trong nền kinh tế, khi thu nhập của mọi người
tăng lên cũng làm tăng chỉ tiêu này. Borjas, George (2005) thông qua mô hình
giáo dục chỉ ra ảnh hưởng tích cực của giáo dục tới thu nhập.
Thực tế phát triển kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy tầm quan
trọng của vốn con người. Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế Nhật Bản sau
chiến tranh, hay sự phục hồi kinh tế nhanh của Tây Âu nhờ vào nguồn nhân lực
chất lượng cao chứ không phải tài nguyên. Với các nước đang phát triển dù có
nhiều tài nguyên nhưng thiếu lao động có chất lượng nên sự phát triển chậm
(Waines, 1963). Mặt khác, các nước đang phát triển cố gắng thu hút thêm nguồn
vốn hữu hình từ bên ngoài để tăng cường cơ sở vật chất cho sự phát triển, tuy

nhiên do trình độ quản lý kém do thiếu nhân lực chất lượng cao nên hiệu quả sử
dụng vốn huy động thấp đã không cho phép phát triển nhanh kinh tế ở đây.
Mọi sự phát triển lấy con người làm trung tâm, là tác nhân và mục đích của
sự phát triển.
Con người đi đến sự phát triển là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trên các mặt về trình độ khoa học kỹ thuật, và bản sắc văn hóa tốt đẹp, phù hợp,
trong đó khâu cải tiến phù hợp quan trọng nhất là cải tiến giáo dục đào tạo.
1.2.1 Vai trò của giáo dục đối với phát triển kinh tế
Tầm quan trọng của giáo dục đối với tăng trƣởng kinh tế thông qua
việc tăng năng suất lao động:
Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế từ lâu đã nhận thấy rằng vốn con
người đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và giáo dục chính là
cách thức cơ bản để tích lũy vốn con người. Các tác giả cổ điển trước đây như
Adam Smith, Afred Marshall và nhiều tác giả khác đã có một số quan điểm về
khái niệm “vốn con người”, nhưng tầm quan trọng của nó đối với tăng trưởng
kinh tế chưa được xác lập. Sau đó, Pigou đã dành cả cuộc đời nghiên cứu về vốn
nhân lực và tìm hiểu vấn đề: có hay không một mối quan hệ có ý nghĩa giữa giáo


10

dục và tăng trưởng kinh tế và các nền kinh tế có nên đầu tư vào giáo dục hay
không?
Để có tăng trưởng kinh tế phải có các nhân tố tất yếu: nhân tố tự nhiên,
nhân tố con người, các yếu tố vật chất do con người tạo ra (công nghệ, vốn). Nhân
tố con người còn được gọi bằng những khái niệm khác nhau như nguồn nhân lực,
tài nguyên con người, nguồn vốn con người. Khi cuộc cách mạng khoa học, công
nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, khi mà nền kinh tế thế giới đã và đang chuyển sang
nền kinh tế tri thức, nguồn lực con người, nguồn lực trí tuệ càng được thừa nhận
vai trò trung tâm trong quá trình phát triến.

Về mặt kinh tế, nguồn lực con người xem xét chủ yếu dưới góc độ là lực
lượng lao động cơ bản của xã hội, cả trong hiện tại và tương lai. Nó chủ yếu cần
được quan tâm về mặt chất lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức
khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, tức là toàn bộ năng lực sáng tạo, năng lực
hoạt động thực tiễn của con người. Vai trò của người lao động được V.I.Lênin
nhấn mạnh là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại. Con người là một đầu
vào trực tiếp của quá trình sản xuất. Nếu người lao động có kỹ năng lao động,
trình độ khoa học - kĩ thuật thì hiển nhiên là năng suất lao động sẽ cao hơn.
Người lao động cần được trang bị kỹ năng lao động, sự hiểu biết, trình độ về khoa
học công nghệ,… đó là điều kiện thiết yếu nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển
công nghệ tiên tiến. Con người là chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực khác,
chỉ khi kết hợp với con người, các nguồn lực khác mới phát huy tác dụng. Mặt
khác, con người lại là khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí
tuệ cho sự phát triển. Vậy con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của các quá
trình kinh tế – xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực. Sự kết hợp thống nhất biện
chứng giữa con người với công nghệ tiên tiến sẽ là động lực cơ bản của tăng
trưởng kinh tế.
Con người được xem xét là phương tiện, là động lực cơ bản và bền vững
của sự tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tăng trưởng mang lại sự giàu có về vật chất,


11

suy cho cùng, không ngoài mục đích đáp ứng tốt hơn các nhu cầu sống của bản
thân con người. Vậy con người không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu cuối
cùng của phát triển kinh tế.
Đầu tư cho phát triển nguồn lực hay chính là đầu tư cho giáo dục con người
mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được việc khai thác sử dụng các nguồn
lực khác. Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy đầu tư vào giáo
dục cho phát triển nguồn lực con người mang lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và

ổn định hơn. Mặt khác hiệu quả đầu tư cho phát triển con người có độ lan toả
đồng đều, nó mang lại sự công bằng hơn về cơ hội phát triển cũng như việc hưởng
thụ các lợi ích của sự phát triển.
Ví dụ: Từ lâu lịch sử đã chứng minh một quy luật thép là: không có một sự
tiến bộ và thành đạt quốc gia nào mà lại tách rời ra khỏi sự tiến bộ và thành đạt
của quốc gia đó trong lĩnh vực giáo dục . Những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục
hoặc không có đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu
quả thì số phận của quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn là sự
phá sản.
Một kinh nghiệm lớn của thế giới đã được rút ra và cũng được đúc kết
thành quy luật là: hễ quốc gia nào đầu tư đúng và đủ cho giáo dục thì quốc gia ấy
sẽ tiến nhanh trên con đường phát triển của mình, còn nếu làm ngược lại, sự chậm
phát triển hoặc thụt lùi là điều không thể tránh khỏi.
Alvin Toffler, nhà tương lai học của Mỹ đã nói: “Những người mù chữ của
thế kỷ 21 không phải là những người không biết đọc , biết viết, mà là những kẻ
không biết học tập để gạt bỏ các kiến thức cũ kỹ mà học lại” . Cũng chính ông đã
nói rằng: “Thế chiến thứ ba sẽ diễn ra trên mặt trận giáo dục . Nó sẽ làm thay đổi
cơ bản phương hướng phát triển của nền văn minh nhân loại , sẽ phát triển mạnh
mẽ tính ham học của con người. Ai chậm chân trên hướng này sẽ không đuổi kịp
bước tiến bộ chung của nhân loại”.


12

Nhật Bản là đất nước có nhiều nét tương đồng về văn hóa và giáo dục với
Việt Nam, được thế giới nhận xét là một hiện tượng thần kỳ . Từ một đất nước
nghèo nàn lạc hậu , tài nguyên thiên nhiên hầu như không có gì đáng kể , mật độ
dân số thì đông, thua trận, bị Chiến tranh thế giới lần thứ hai tàn phá nặng nề ,
nhưng họ đã trở thành một cường quốc kinh tế và công nghệ làm cho thếgiới phải
thán phục và kinh ngạc. Nguyên nhân nào làm cho nước Nhật đi lên nhanh chóng

như vậy? Giáo dục chính là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của xã hội Nhật
Bản. Người Nhật đã sớm nhận ra bí quyết này khi họ hiểu rằng đằng sau sức mạnh
của Âu, Mỹ là nền giáo dục được vận hành tốt, đào tạo được những con người có
trình độ và năng lực sáng tạo trong xã hội công nghiệp. Nhật cũng chịu ảnh hưởng
của Nho giáo nhưng họ đã thoát ra khỏi ảnh hưởng sâu sắc của Đạo Khổng để tiếp
thu nền giáo dục Âu, Mỹ và họ đã vượt lên thành một trong những nước phát triển
vượt bậc.
Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật Bản đã có một khẩu quyết để đời là hồn
Nhật, kỹ thuật Tây. Bí quyết của ông vua này đơn giản, nhưng thật thông tuệ, sâu
sắc, với tầm nhìn cương quyết đuổi kịp phương Tây để không bị mất nước. Cùng
lúc bấy giờ cuốn sách Khuyến học của ngài F ukuzawa Yukichi được xuất bản
năm 1872-1874 đã có ảnh hưởng lớn lao nhất đến công chúng Nhật Bản

. Khi

được in lần đầu trong thời kỳ Duy Tân, cuốn sách có số lượng in kỷ lục là3,4 triệu
bản với dân số nước Nhật lúc đó 35 triệu người. Ông được coi là một trong những
khai quốc công thần, được tôn vinh là Voltaire của Nhật Bản . Hình ảnh của ông
được in trên tờ bạc mệnh giá lớn nhất 10.000 yên. Ông là người khai sáng tinh
thần quốc dân Nhật Bản, đem lại linh hồn, động lực và sự hậu thuẫn tinh thần cho
công cuộc Duy Tân của Chính phủ Minh Trị.
Giáo dục với xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội:
Thu nhập của người nghèo chủ yếu là dựa vào sức lao động. Thu nhập của
người nghèo thấp một phần do lao động của họ kém hiệu quả, một phần do sự


13

phân biệt đối xử trên thị trường lao động. Giáo dục mang lại kiến thức, quan điểm
và kỹ năng giúp nâng cao năng suất lao động của người nghèo, và kiếm được thu

nhập cao hơn.
Giáo dục có tác động tích cực đến đời sống cá nhân, góp phần giảm đói
nghèo, tạo điều kiện cho mỗi người có thể tham gia vào quá trình xã hội một cách
bình đẳng nhờ nâng cao nguồn lực của người lao động. Song chính sự đói nghèo
và bất công trong xã hội cũng làm cho giáo dục kém phát triển. Vì vậy biện pháp
đặt ra là vừa phải tăng cường giáo dục để giảm đói nghèo và bất công xã hội, vừa
phải tìm ra các biện pháp để cải thiện đời sống và lao động của những người
nghèo để giúp họ tham gia vào quá trình học tập có hiệu quả.
Giáo dục và việc giảm mức sinh và tăng cƣờng sức khỏe:
Giáo dục có tác động tích cực đến sức khỏe của con người, giáo dục đem
lại những hiểu biết về khoa học giúp cho việc ăn ở vệ sinh và sử dụng các biện
pháp phòng ngừa bệnh tốt hơn. Nhất là đối với phụ nữ, những kiến thức mà giáo
dục đem lại không chỉ giúp họ bình đẳng hơn mà còn giúp họ nâng cao được sức
khỏe sinh sản của bà mẹ và thai nhi. Nghiên cứu của ngân hàng thế giới cho thấy
giữa trình độ học vấn của phụ nữ và số con trong gia đình tỉ lệ thuận với nhau, phụ
nữ càng được giáo dục thì càng sinh ít con.
1.2.2 Vai trò của sức khỏe đối với sự phát triển kinh tế
Sức khỏe là quý giá nhất đối với con người, do vậy để huy động nguồn lực
làm các công tác xã hội nhằm đem lại sự phát triển kinh tế cũng như xã hội đều
cần những con người có sức khỏe. Học tập, làm việc đều cần có sức khỏe. Vì thế
sức khỏe là điều kiện tối cần thiết để có thể làm các công việc đóng góp vào sự
phát triển của đất nước cũng như nâng tầm vóc con người, tầm vóc dân tộc.
Những ảnh hưởng của sức khỏe vào hoạt động kinh tế thường được thảo
luận ở cấp vi mô và vĩ mô trong các tài liệu. Bằng chứng của sự liên kết này ở cấp


14

độ vi mô đã được thảo luận rộng rãi ở những nơi khác (Schultz, 2002). Sức khoẻ
tốt là một điều kiện cần thiết để đi học, một đứa trẻ phải có sức khỏe để chịu đựng

sự khắc nghiệt của trường học. Ngoài ra, sinh viên khỏe mạnh, trái ngược với các
đối tượng có sức khỏe yếu hơn có chức năng nhận thức thấp hơn, và do đó nhận
được một nền giáo dục tốt hơn cho một mức độ nhất định đi học, đảm bảo tăng
thu nhập trên một thời gian dài. Sức khỏe tốt tăng cường năng suất thông qua
những tác động lan tỏa về khả năng thể chất và tinh thần của họ. Tất cả những
điều khác là như nhau, nó được giả định rằng người lao động khỏe mạnh làm việc
chăm chỉ hơn và lâu hơn và lý do rõ ràng hơn những người kém năng khiếu với
sức khỏe tốt. Sức khỏe tốt cũng có thể giảm thiểu tỷ lệ đói nghèo thông qua lao
động cao hơn tham gia và giảm chi phí dịch vụ y tế, do đó giải phóng thu nhập
cho việc tăng cường cải thiện phúc lợi xã hội. Tình trạng này giữ cho dù người lao
động có tay nghề hoặc không có tay nghề (Asola & Anali, 2005).
1.3 Các lý thuyết về tăng trƣởng kinh tế và yếu tố nguồn nhân lực
Tăng trưởng GDP chắc chắn là thước đo sự cải thiện phúc lợi con người
tốt hơn là những thay đổi trong trữ lượng vàng và bạc. Thu nhập bình quân đầu
người thường đi kèm với hầu hết các thước đo phúc lợi, ví dụ tỉ lệ sống của trẻ
và tuổi thọ kỳ vọng từ lúc sinh. Tuy nhiên, tăng trưởng GDP không phải là cách
duy nhất để đo lường tiến bộ kinh tế, và bản thân nó cũng không hoàn chỉnh.
Simon Kuznets, người đi tiên phong trong hạch toán thu nhập quốc dân ở Mỹ
thập niên 1930, đã có nhận định nổi tiếng rằng chúng ta không nên nhầm lẫn số
lượng với chất lượng tăng trưởng.
Phát triển kinh tế không nhất thiết là mọi người đều khá hơn. Tăng trưởng
có thể tích tụ một cách bất cân xứng vào người giàu. Ví dụ, một phần trăm dân
số Mỹ giàu nhất chiếm đến 65% mức tăng GDP từ 2002-2007 (Atkinson,
Piketty, và Saez 2011, 9). Hoặc tăng trưởng có thể là sản xuất quá nhiều súng và
thuốc lá nhưng không đủ giáo dục và y tế. Tài khoản quốc dân ghi nhận các


15

dòng thu nhập nhưng không tính đến sự hao mòn trữ lượng tài nguyên thiên

nhiên hay sự xuống cấp hệ sinh thái. Ví dụ, nền kinh tế Indonesia đang tăng
trưởng nhanh chóng nhưng mức tiết kiệm quốc gia ròng, hay tổng tiết kiệm nội
địa trừ cho hao mòn tài nguyên thiên nhiên, là âm, có nghĩa là tăng trưởng sẽ
dừng lại khi quốc gia đó hết tài nguyên.
Con số GDP không nói gì về tính bền vững của tăng trưởng, hay mức độ
đánh đổi tăng trưởng hay mức sống trong tương lai để đạt được tăng trưởng hiện
tại.
Amartya Sen có quan điểm mạnh mẽ không ủng bộ sử dụng GDP làm
thước đo chính cho tiến độ phát triển. Ông lập luận rằng thu nhập không phải là
mục tiêu mà là phương tiện để đạt mục tiêu. Mục tiêu của phát triển không phải
là tiêu dùng hàng hóa nhiều hơn, mà để tạo cho con người khả năng tận hưởng
cuộc sống của mình. Ông gọi đó là một loạt những khả năng mở ra cho “năng
lực” của một người, vốn không thể đo lường trực tiếp nhưng chịu tác động của
một loạt các yếu tố như thu nhập, sức khỏe và tiếp cận giáo dục. Ông viết “đóng
góp của tăng trưởng kinh tế phải được nhận định không chỉ bằng sự gia tăng
trong thu nhập tư nhân, mà còn bởi việc mở rộng các dịch vụ xã hội (nhiều
trường hợp gồm cả mạng lưới an sinh xã hội) mà tăng trưởng kinh tế có thể tạo
ra” (Sen 1999, 40).
Cách tiếp cận về năng lực là một trong những cảm hứng chính của Chỉ số
Phát triển Con người, là thước đo thường niên tiến bộ phát triển của Chương
trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP). Chỉ số kết hợp thu nhập bình quân đầu
người với thước đo sức khỏe (tuổi thọ kỳ vọng) và giáo dục (tỉ lệ biết đọc biết
viết người lớn và tỉ lệ ghi danh trường học). Với đa số các nước mối quan hệ
giữa điểm số HDI và GDP bình quân đầu người là rất mật thiết. Điều này không
ngạc nhiên vì thu nhập là một phần của HDI, nhưng nó cũng phản ánh sự tiến
bộ nhanh chóng đặc trưng mà các nước đang phát triển đạt được trong việc cải


16


thiện các chỉ số sức khỏe và giáo dục khi thu nhập trung bình tăng lên (Kenny
2005).
Nghiên cứu của Brist và Caplan (1999) cho thấy không thể giải thích được
sự khác biệt tăng trưởng GDP giữa các quốc gia bằng biến số người đi học.
Nghiên cứu khác của Hanushek và Kimko (2000) lại đưa ra một kết luận là chất
lượng của nguồn lao động có mối quan hệ nhân quả, bền vững và lâu dài với tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chất lượng lao động mà Hanushek và Kimko đã đề cập
đến trong nghiên cứu này lại không liên quan đến giáo dục chính thức (formal
education). Như vậy, việc tham gia đi học theo hệ thống giáo dục quốc dân chưa
rõ ràng trong việc quyết định chất lượng lao động.
Cũng có nghiên cứu khác của Bosworth và Collins (2003) đã tìm ra được
tác động dương của vốn con người (giáo dục là biến đại diện) đến tăng trưởng
kinh tế nhưng giá trị của tác động này là rất nhỏ. Nghiên cứu này cho thấy, vốn
con người chỉ đóng góp khoảng 0.3% trong tổng số 2.3% tỷ lệ gia tăng sản lượng
của thế giới tính trung bình trên một lao động, giai đoạn 1960-2000. Đóng góp
này của vốn con người thấp hơn so với vốn vật thể (1%).
Khi giáo dục được chọn làm biến đại diện cho vốn con người thì việc chọn
lựa biến đại diện cho giáo dục cũng không hề đơn giản và việc lựa chọn này cũng
sẽ có ảnh hưởng kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa vốn con người (cũng
như giáo dục) đối với tăng trưởng kinh tế. Các biến thường được đề nghị là các
biến thuộc nhóm biến số đại diện cho quá trình tham gia giáo dục chính thức của
một cá nhân như: tỷ lệ tham gia giáo dục, tỷ lệ biết chữ, số năm đào tạo chính quy
trung bình. Đây là ba biến số thường được sử dụng nhiều nhất như là biến đại diện
cho giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh cãi giữa nhiều nhà nghiên cứu về lựa
chọn này vì mỗi biến đều có những hạn chế riêng.
Đối với tỷ lệ tham gia giáo dục: Vẫn có kết quả nghiên cứu cho rằng biến
số này có quan hệ nghịch chiều với tỷ lệ tăng trưởng của vốn nhân lực (Pritchett,
1996); chưa tính đến khía cạnh chất lượng của giáo dục; không nói lên mức độ



17

tích lũy (Benhabib và Spiegel, 1994); và độ tin cậy chỉ dừng lại ở mức độ lý
thuyết khi mà số người đi học được xem như nhân tố tác động tới tăng trưởng
kinh tế, nhưng trên thực tế, lại chưa tham gia lực lượng lao động (phần lớn đều
đang đi học, chúng ta loại trừ các công việc làm bán thời gian) và chưa đóng góp
vào sự gia tăng sản lượng của một quốc gia ở hiện tại (thường là trong một năm).
Đối với tỷ lệ biết chữ, lại có sự khác biệt khi so sánh giữa các quốc gia, tính
không đồng nhất do việc bất cân xứng của việc chọn mẫu theo hướng thiên về khu
vực thành thị (Benhabib và Spiegel, 1994); không phản ánh được mức độ biết
chữ, loại hình, và các đóng góp của các kỹ năng tăng thêm (Stroombergen, Rose
et al., 2002).
Đối với số năm đào tạo chính quy trung bình: Không tính đến khía cạnh
chất lượng giáo dục (Hanushek và Woessmann, 2007: tr.21; Stroombergen, Rose
et al., 2002).
Trong ba biến trên thì biến được sử dụng phổ biến nhất là số năm đào tạo
chính quy trung bình (Benhabid và Spiegel 1994; Islam 1995). Ngoài ra, cũng có
một số biến khác được các nhà nghiên cứu đề nghị như: Tỷ lệ sinh viên/giáo viên;
tỷ lệ ngân sách chi tiêu cho giáo dục; học tập thông qua làm việc; cấu trúc chương
trình giáo dục (Lee, 2000).
Việc chọn mẫu theo những hướng khác nhau cũng là một vấn đề lớn có thể
tạo những sự khác biệt trong kết quả nghiên cứu. Hai hướng chọn mẫu này thường
là lựa chọn quốc gia hoặc giai đoạn nghiên cứu khác nhau.
Thứ nhất, đối với việc lựa chọn các quốc gia khác nhau (trong cùng một
giai đoạn kinh tế) thì kết quả cũng có thể khác nhau về mối quan hệ giữa giáo dục
với tăng trưởng kinh tế. Theo nghiên cứu của Islam (1995) thì kết quả tác động
của giáo dục đến tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông Á và OECD trong cùng
giai đoạn 1965-1985 là khác nhau.
Thứ hai, lấy mẫu nghiên cứu ở cùng một nhóm các quốc gia nhưng sử dụng
số liệu ở những giai đoạn khác nhau thì kết quả nghiên cứu cũng có những khác



18

biệt. Tác động của giáo dục đến tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông Á, nếu thực
hiện với số liệu trong giai đoạn 1965-1985 thì cho thấy giáo dục chưa tạo ra tác
động tích cực, thậm chí còn gây ra chi phí; trong khi đó, giáo dục lại là một yếu tố
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Đông Á giai đoạn hậu khủng hoảng 1997 (Permani,
2008).
Khi xem xét, vai trò của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế nhìn nhận
dưới góc độ cá nhân (ở tầm vi mô) thì quan điểm rõ ràng và thống nhất là giáo dục
giúp làm tăng thu nhập của người lao động. Nghiên cứu này đã đưa ra được các
bằng chứng cho khẳng định này qua các nghiên cứu ở Trung Quốc (Maurer-Fazio
và Dinh, 2004); ở Indonesia năm 1995 (Duflo, 2001); ở Malaysia (Milanovic,
2006); ở Singapore (Huff, 1999); ở Việt Nam năm 1998 (Kikuchi, 2007); và ở Đài
Loan (Lin và Orazem, 2004).
Một câu hỏi nghiên cứu mà nhiều nhà nghiên cứu đặt ra là mối quan hệ
giữa giáo dục và tăng trưởng kinh tế có phải là theo là hai chiều? Trong nghiên
cứu này, tại khu vực Đông Á, Permani đã cho rằng đây là mối quan hệ hai chiều –
nhân quả. Tác giả đã sử dụng kết quả nghiên cứu của Zin (2005) để làm cơ sở.
Theo Zin (2005) thì ban đầu, tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ làm tăng cầu lao động
có trình độ, kết quả là số người tham gia học tập tăng lên rất nhiều. Điều này tạo
ra điều kiện cho giáo dục phát triển. Ngược lại, giáo dục phát triển dẫn tới việc
nâng cao tính cạnh tranh của lao động có trình độ, làm cho thu nhập và tăng
trưởng kinh tế cao hơn. Như vậy, giáo dục không chỉ là nguyên nhân mà còn là
kết quả của tăng trưởng kinh tế
Theo Permani thì đối với các nhà làm giáo dục trước khi đề ra mục tiêu của
chính sách là thiết kế được một chương trình giáo dục hiệu quả thì cần xem xét,
phân tích và đánh giá những sự đánh đổi có thể có của chính sách đó. Sự đánh đổi
đó có thể là giữa hiệu quả kinh tế và phúc lợi xã hội; giữa tác động trong ngắn hạn

và dài hạn; số lượng và chất lượng giáo dục; hội nhập giáo dục và bảo tồn văn
hóa; tập trung hóa hay phi tập trung hóa trong quản lý giáo dục.


19

Ngoài ra, Permani cho rằng giáo dục có thể tác động tới tăng trưởng kinh tế
nếu giáo dục kích thích được đổi mới (Nelson và Phelps, 1966); thúc đẩy động cơ
tối đa hóa lợi nhuận cho người lao động (Romer, 1990); khả năng tiếp cận cơ hội
học tập giữa mọi người trong xã hội như nhau (Ngân hàng Thế giới, 1993); có
được nguồn vốn hỗ trợ (Hanf et al., 1975). Cụ thể, giáo dục giúp cải thiện chất
lượng lao động; xóa bỏ các rào cản xã hội và thể chế (Lim, 1996); giáo dục giúp
nâng cao tư duy khoa học, kỹ năng toán và thành thạo ngôn ngữ (Benavot, (1992).

1.4 Các nghiên cứu trong và ngoài nƣớc
1.4.1 Các nghiên cứu trên thế giới
- Nghiên cứu về tác động của nguồn nhân lực lên tăng trưởng kinh tế tại
NIGERIA của Isola và Alani dựa trên các yếu tố về sức khỏe và giáo dục: Số
người lớn biết chữ, tuổi thọ bình quân, nguồn vốn đầu tư, tăng trưởng người lao
động, và biến phụ thuộc là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế GDP giai đoạn 1982 đến 2005
đã chỉ ra chỉ có yếu tố số người lớn biết chữ có tác động tới tăng trưởng kinh tế ở
mức ý nghĩa 5%. Tác động của số người biết chữ mang dấu (+) cho thấy việc càng
nhiều người biết chữ sẽ làm cho tăng sự phát triển kinh tế. Trong khi đó ở mức ý
nghĩa 10% có thêm yếu tố tuổi thọ trung bình và nguồn vốn đầu tư có tác động tới
tăng trưởng kinh tế. Điều này cho thấy tuổi thọ và nguồn vốn đầu tư có tác động
yếu hơn so với tác động của số người lớn biết chữ.
Bảng 1.1 Kết quả nghiên cứu của Isola và Alani



×