Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.93 KB, 50 trang )

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THUỶ SẢN CỦA VIỆT
NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
2.1. Tổng quan về thị trường thuỷ sản EU
2.1.1. Đặc điểm thị trường EU
- Về kinh tế
EU với 27 nước thành viên có tổng diện tích khoảng 4 triệu km2, dân số
gần 500 triệu người, GDP khoảng 13.000 tỷ USD, bình quân đầu người
29.000 USD/năm (số liệu năm 2006), là khu vực phát triển kinh tế cao.
EU thực hiện một chính sách thương mại chung trong toàn khối và áp
dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch bằng hàng rào phi thuế quan (tiêu chuẩn
kỹ thuật, kiểm soát chất lượng…), thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ
cấp… Các thoả thuận thương mại của EU với các đối tác ngoài khối có thể
được gắn với các yêu cầu phi thương mại như bảo vệ môi trường, điều kiện
lao động, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thậm chí cả vấn đề nhân
quyền. Ngay cả việc dành ưu đãi GSP cho các nước đang phát triển cũng
được EU gắn với các vấn đề chính trị.
EU sẽ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp dựa trên các
nguyên tắc “minh bạch hoá và cạnh tranh công bằng”. Một số chính sách sẽ
được áp dụng nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh
doanh thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, tăng khả năng tiếp cận vốn, trợ giúp tài chính và nguồn lao động
cho các doanh nghiệp, gắn mọi hoạt động với nghĩa vụ bảo vệ môi sinh. Đây
cũng là mục tiêu trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của EU
giai đoạn 2007 – 2013.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 1 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
EU rất cứng rắn trong các tranh chấp thương mại và thắt chặt quản lý
chất lượng hàng hoá nhập khẩu, kể cả với các đối tác lớn và quan trọng như
Mỹ, Nga, Trung Quốc. Trong thương mại quốc tế, bên cạnh mục tiêu hướng
tới tự do hoá thương mại toàn cầu, EU sẽ tiếp tục áp dụng các biện pháp cân
bằng thương mại được Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cho phép, như
chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu…


Trước đây, EU chủ trương chỉ tập trung vào quá trình tự do hóa thương
mại toàn cầu trong khuôn khổ WTO. Nhưng gần đây, EU đã phải chấp nhận
xu thế tăng cường hợp tác kinh tế - thương mại song phương và khu vực qua
việc tham gia đàm phán ký kết một số thỏa thuận, như: Hiệp định thương mại
với 78 nước ACP (châu Phi, Caribe và Thái Bình Dương); thoả thuận hợp tác
kinh tế xuyên Đại Tây Dương và Hiệp định “Bầu trời mở” với Mỹ; khởi động
đàm phán các khu vực mậu dịch tự do (FTA) với Hàn Quốc, Ấn Độ, ASEAN
và Trung Mỹ; tăng cường hợp tác năng lượng với các nước Trung Á và
Balkan; thiết lập quan hệ "đối tác chiến lược" toàn diện với Brasil...
EU là một trong những khu vực đầu tư ra nước ngoài cũng như thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhiều nhất trên thế giới.
Xu thế từ nhiều năm nay là EU nhập siêu đối với hầu hết các nước, trừ
Mỹ vẫn đang tiếp tục. Trong đó, nhập siêu từ Trung Quốc luôn lớn nhất,
chiếm gần 60% tổng nhập siêu của EU.
Do có trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao, những mặt
hàng mà các nước EU có thế mạnh và có tính cạnh tranh cao hầu hết thuộc
các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, hoá chất, giao thông vận tải, hàng
không, dược phẩm, mỹ phẩm cao cấp, thực phẩm, đồ uống và dịch vụ có hàm
lượng chất xám và giá trị gia tăng lớn… Nhu cầu nhập khẩu của EU phần lớn
là nguyên, nhiên vật liệu, hàng thủ công mỹ nghệ, giày dép, may mặc, thuỷ
sản, nông sản, lương thực…
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 2 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
Bảng 2.1: Trao đổi thương mại của EU đến hết tháng 4/2008
Đơn vị: tỉ Euro
EU xuất khẩu EU nhậpkhẩu Cán cân
Mỹ 83,5 62,0 21,5
Nga 32,9 57,6 -24,6
Nhật 14,5 26,4 -11,9
Hàn Quốc 9,0 13,1 -4,1
Trung Quốc 25,7 74,6 -48,9

ASEAN 18,5 25,7 -7,2
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 3 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
(nguồn Eurostat)
Do chưa được EU công nhận có nền kinh tế thị trường nên hàng hoá của
Việt Nam chưa được hưởng hoàn toàn lợi ích của việc là thành viên WTO và
phần nào bị đối xử kém thuận lợi so với một số nước khác, đặc biệt là trong
các vụ kiện bán phá giá.
EU đã bắt đầu sử dụng vấn đề bảo vệ môi trường để hạn chế nhập khẩu
một số loại hàng hóa nguồn gốc thiên nhiên. Điển hình là việc Tây Ban Nha
và Bồ Đào Nha không cho cá kiếm của Việt Nam nhập khẩu từ tháng
12/2007 với lý do Việt Nam chưa phải là thành viên của Ủy ban Nghề cá Tây
và Trung Thái Bình Dương (WCPFC).
- Về văn hóa, thị hiếu tiêu dùng
Với gần 500 triệu người tiêu dùng có mức thu nhập cao, EU luôn là một
thị trường lớn và khó tính. Người tiêu dùng EU có thị hiếu thay đổi nhanh,
yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa, vệ sinh môi trường, nhãn mác, bao bì...
Các doanh nghiệp nước ngoài muốn thâm nhập được thị trường EU phải có
khả năng cạnh tranh cao và trình độ kinh doanh chuyên nghiệp.
Những thay đổi về xu hướng tiêu thụ là do những thay đổi về sở thích
của người tiêu dùng và trong cơ cấu cung cấp sản phẩm. Vai trò của các siêu
thị ngày càng tăng đã khiến cho thuỷ sản được quan tâm nhiều hơn. Hơn nữa,
ngành thuỷ sản của các nước đã mở rộng chủng loại sản phẩm, mang lại thành
công trong việc giới thiệu các sản phẩm mới như cá hồi nuôi và cá vược sông
Nile với lợi ích kinh tế và sự hấp dẫn đối với người tiêu dùng.
- Người tiêu dùng ngày càng hướng tới các sản phẩm có lợi cho sức
khoẻ, thích ứng với dạng sản phẩm an toàn. Họ thích các sản phẩm ít béo và
có giá trị dinh dưỡng cao. Thuỷ sản có hàm lượng prôtêin, các vitamin và chất
khoáng cao thích hợp cho nhu cầu này. Ngoài ra, các sản phẩm thuỷ sản có
chất lượng thường đóng vai trò chống lại các nguy cơ về sức khoẻ.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 4 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47

- Người tiêu dùng ngày càng hướng tới sự thuận tiện. Trong những thập
kỷ gần đây, thời gian dành cho mua sắm và chế biến món ăn đã bị rút ngắn.
Vai trò của phụ nữ trong xã hội ngày càng tăng, nhiều hộ gia đình bận rộn với
công việc. Vì vậy, nhu cầu về các sản phẩm tiêu dùng và dễ chế biến sẵn cũng
tăng lên.
- Người tiêu dùng quan tâm hơn đến giá: Khoảng 2 năm trở lại đây, một
số nước (Hà Lan, Anh và Pháp) đã trải qua thời kỳ gọi là chiến tranh về giá
giữa các nhà bán lẻ. Ðức luôn được xem là thị trường quan tâm tới giá cả. Giá
cả tăng khiến người tiêu dùng chuyển sang tiêu thụ các sản phẩm có giá thấp
hơn. Trong môi trường cạnh tranh, nhu cầu cho các sản phẩm đơn giản và giá
rẻ được thể hiện rõ nét và thành công của các sản phẩm cá vược sông Nile, cá
rô phi và cá tra, ba sa của Việt Nam.
- Người tiêu dùng ở những nước châu Âu thể hiện mối quan tâm của
mình về các hoạt động liên quan đến môi trường và xã hội của các công ty sản
xuất thực phẩm. Những người này thường thúc ép chính phủ và các công ty
quan tâm đến các vấn đề này. Một số vấn đề họ quan tâm đến nhiều nhất là:
+ Sự khai thác quá mức các ngư trường, sự suy thoái trữ lượng thuỷ sản
và sự cạnh tranh giữa các hoạt động khai thác và bảo tồn thiên nhiên.
+ Các vấn đề về vệ sinh và môi trường khi nuôi như sử dụng kháng sinh,
ô nhiễm nguồn nước, sử dụng cá làm thức ăn động vật.
+ Các khía cạnh xã hội trong nuôi trồng và khai thác như vấn đề về giới,
vị thế của các nhà sản xuất thủ công.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 5 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
- Bên cạnh những xu hướng tiêu dùng chính, một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng tới thị trường thuỷ sản là các chuỗi bán lẻ. Việc bán các sản phẩm thuỷ
sản thông qua đại lý truyền thống như những người buôn cá và các chợ đã
giảm, thay vào đó là bán ở các siêu thị. Các siêu thị thường nhạy cảm với nhu
cầu của khách hàng hơn các nhà sản xuất trong ngành thuỷ sản và họ thường
đưa ra các sản phẩm có nhãn hiệu riêng của mình.
2.1.2. Tình hình nhập khẩu thuỷ sản của EU từ năm 2000 đến nay

* Tình hình chung
EU là là một trong những thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế
giới. Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Italy và Anh là những thị trường nhập khẩu
chính, giá trị nhập khẩu thủy sản hàng năm vượt 1 tỷ USD và các nước này
cũng chiếm gần 80% giá trị nhập khẩu thủy sản của EU. Tuy nhiên, như trên
đã trình bày, phần lớn sản phẩm thuỷ sản được nhập khẩu từ các nội bộ các
nước trong khối. Ngoài ra, để bổ sung một số sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ, chủ yếu là các sản phẩm thuỷ sản nước ấm, EU cũng nhập khẩu thuỷ sản
từ hơn 180 nước khác trên thế giới. (Theo fistenet)
* Nhập khẩu thủy sản của một số nước thành viên EU
- Tây Ban Nha
Tây Ban Nha là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba thế giới, đứng đầu
EU. Giá trị nhập khẩu của Tây Ban Nha bằng 16,8% giá trị nhập khẩu thủy
sản toàn EU. Tây Ban Nha nhập khẩu chủ yếu là các sản phẩm tôm đông lạnh,
cá tươi và đông lạnh, nhuyễn thể, cá hun khói và cá đóng hộp. Tôm đông lạnh
là sản phẩm chính với sản lượng cao nhất hàng năm đạt 9,0 đến 9,6 tấn.Các
thị trường nhập khẩu chính của Tây Ban Nha là Trung Quốc, Achentina,
Colombia, Ấn Độ, Thái Lan và Malaixia,….
(Nguồn : />- Pháp
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 6 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
Pháp là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ tư thế giới và thứ nhì trong
khối EU. Giá trị nhập khẩu thủy sản hàng năm chiếm 11,5% giá trị nhập khẩu
lương thực thực phẩm và 1% tổng giá trị nhập khẩu của Pháp. Có 3 nhóm sản
phẩm thủy sản nhập khẩu chính của thị trường Pháp là cá tươi và cá, giáp xác,
nhuyễn thể đông lạnh; và thủy sản đóng hộp, thủy sản tẩm bột,... Trong các
mặt hàng nhập khẩu thì cá philê đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp theo
là tôm đông lạnh. Tiêu thụ tôm của Pháp phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhập
khẩu.
(Nguồn : />- Italy
Tổng sản lượng thủy sản của Italy chỉ vào khoảng 0,6 triệu tấn/năm,

trong khi với 57 triệu người và hàng chục triệu khách du lịch, Italy phải nhập
khẩu hàng năm từ 0,9-1 triệu tấn thủy sản. Italy là nước nhập khẩu thủy sản
lớn thứ 5 thế giới và thứ 3 của EU. Thị trường nhập khẩu thủy sản của Italy
hầu như ít biến động trong nhiều năm qua. Các mặt hàng nhập khẩu chính của
Italy là cá ngừ đóng hộp, mực đông lạnh, tôm và cá philê đông lạnh. Các
nước cung cấp chủ yếu các sản phẩm này cho Italy là Thái Lan, Achentina,
Êcuađo, Đan Mạch, Ấn Độ... (Nguồn : />- Đức
Hàng năm, lượng tôm nhập khẩu vào Đức đáp ứng khoảng 2/3 nhu cầu
thị trường nội địa thông qua hệ thống nhập khẩu của trên 150 công ty vào 7
chuỗi siêu thị lớn, 10 ngàn nhà bán lẻ và gần 1 ngàn nhà hàng lớn nhỏ. Tôm
nhập khẩu vào Đức khá đa dạng về chủng loại từ trên 80 nước, trong đó chủ
yếu từ Banglađét, Ấn Độ, Bỉ, Anh, Inđônêxia,… Nhập khẩu tôm nước ấm vào
Đức dưới dạng đông lạnh (không đầu, bóc vỏ hoặc cả vỏ) và các dạng chế
biến chín sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới do ngày càng có nhiều hộ gia
đình ở Đức ăn thuỷ sản và tôm. Tôm cũng là mặt hàng được tiêu thụ mạnh ở
hệ thống các nhà hàng tại Đức hiện nay.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 7 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
(Nguồn : />- Anh
Tuy có điều kiện thuận lợi trong việc đánh bắt hải sản (chiếm tới 1/5 sản
lượng hải sản của EU), nhưng Anh vẫn phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu
trong nước. Nhập khẩu tôm của Anh không lớn so với cá do thói quen tiêu
dùng của người Anh là thích ăn các loại cá đã qua chế biến (như cá rán, cá
viên,…), mặt hàng tôm chủ yếu để phục vụ cộng đồng người châu Á sinh
sống ở Anh, được nhập khẩu từ Ailen (chiếm khoảng 22% kim ngạch nhập
khẩu), Bănglađét (14,4%), Ấn Độ (13,4%), Đan Mạch (8%)...
(Nguồn : />- Hy Lạp
Theo thống kê gần đây nước cung cấp thủy sản cho Hy Lạp nhiều nhất là
Đan Mạch với 32.700 tấn, Italy 14.900 tấn, Hà Lan 12.400 tấn. Nhập khẩu từ
Đan Mạch chủ yếu gồm bột cá làm thức ăn chăn nuôi.
Các nước thành viên EU thuộc Bắc Âu đều có biển, nguồn hải sản tương

đối phong phú, có nghề đánh bắt hải sản truyền thống nên có thế mạnh về
xuất khẩu hải sản (trong đó có tôm, nhất là các loại tôm nước lạnh). Nhập
khẩu tôm của các nước này chủ yếu có tính chất bổ sung chủng loại cho nhau
giữa các nước trong khu vực. Nhập khẩu từ khu vực châu Á không lớn do sức
tiêu thụ của các nước này khá thấp (do dân số ít, khách du lịch đến Bắc Âu
không đông và người dân không có tập quán ăn nhiều hải sản)
(Nguồn: />2.1.3. Các quy định pháp lý đối với thuỷ sản nhập khẩu vào EU
Thị trường châu Âu là thị trường khó tính và nghiêm ngặt. Họ đưa ra
hàng loạt các quy định pháp lý về chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh để
bảo vệ cho sức khoẻ người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết
định thành công khi thâm nhập thị trường này.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 8 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
Xuất khẩu thuỷ sản vào EU bắt buộc phải có chứng nhận chính thức dựa
trên việc EU công nhận cơ quan thẩm quyền của các nước xuất khẩu. Các
nước xuất khẩu phải có một cơ quan thẩm quyền chịu trách nhiệm về việc
quản lý chính thức thông suốt cả hệ thống sản xuất. Tháng 4/2004, EU đã
thông qua các quy định về kiểm soát thực phẩm mới và toàn bộ các quy định
về vệ sinh.
Từ 1/1/2006, EU đưa ra luật quản lý thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi
mới gọi là đóng gói vệ sinh, trong đó quy định về tiêu chí vi sinh đối với thực
phẩm, quy định về kiểm soát thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi cũng như quy
định vệ sinh thức ăn cho vật nuôi tạo thành một bộ các quy định chặt chẽ và
hài hoà khung hiệp định an toàn thực phẩm của EU.
Quy định đóng gói vệ sinh rõ ràng hơn và nghiêm ngặt hơn về vệ sinh
thực phẩm, các quy định vệ sinh cụ thể đối với thực phẩm có nguồn gốc từ
động vật, các quy định cụ thể về kiểm soát các sản phẩm có nguồn gốc từ
động vật phục vụ cho tiêu dùng của con người
+ Quy định mới về vệ sinh thực phẩm
Luật mới quy định tất cả các cơ sở kinh doanh thực phẩm và thức ăn cho
vật nuôi, từ người nuôi, nhà chế biến đến người bán lẻ và dịch vụ nhà hàng

đều phải chịu trách nhiệm trong việc đảm bảo thực phẩm bán trên thị trường
EU đáp ứng mọi tiêu chuẩn bắt buộc về an toàn thực phẩm. Mọi khâu trong
chuỗi thực phẩm kể cả khâu sản xuất nguyên liệu cũng phải tuân thủ phương
pháp tiếp cận từ trại nuôi đến bàn ăn của EU về an toàn thực phẩm.
Quy định đóng gói vệ sinh được chia làm 5 quy định và các chỉ thị thay
thế cho 17 chỉ thị trước đây. Theo đó, tất cả các sản phẩm nhập khẩu phải đáp
ứng các tiêu chuẩn chung như các sản phẩm của EU.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 9 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
-Quy định 852/2004 của Quốc hội châu Âu và Hội đồng châu Âu về vệ
sinh thực phẩm. Quy định này bao gồm cả những yêu cầu chung và yêu cầu
kỹ thuật đối với sản xuất.
-Quy định 853/2004 của Quốc hội châu Âu và Hội đồng châu Âu đề ra
các nguyên tắc vệ sinh cụ thể đối với thực phẩm có nguồn gốc từ động vật.
-Quy định 854/2004 của Quốc hội châu Âu và Hội đồng châu Âu đề ra
các nguyên tắc cụ thể đối với việc tổ chức quản lý có thẩm quyền đối với sản
phẩm có xuất xứ từ động vật phục vụ cho tiêu dùng của con người.
-Chỉ thị 2002/99/EC đề ra các nguyên tắc vệ sinh chi phối việc sản xuất,
chế biến, phân phối và nhập khẩu các sản phẩm có xuất xứ động vật.
-Chỉ thị 2004/41/EC thay thế cho 17 chỉ thị trước đây.
Các biện pháp thực hiện theo các qui tắc vệ sinh mới
-Quy định 2073/2005 của Uỷ ban châu Âu về các tiêu chí vi khuẩn, độc
tố và các chất chuyển hoá (thuộc vi trùng học) đối với nguyên liệu là thực
phẩm (1/1/2006).
-Quy định 2074/2005 của Uỷ ban châu Âu về các biện pháp thực hiện
đối với một số sản phẩm nhất định theo Quy định 853/2004, 854/2004 và
882/2004 và các văn bản hướng dẫn thực hiện theo Quy định 852/2004, phần
bổ sung cho Quy định 853/2004 và Quy định 854/2004.
-Ðến 31/12/2009, EU sẽ cho phép sắp xếp chuyển đổi để tạo thuận lợi
cho giai đoạn chuyển tiếp giữa quy định vệ sinh thực phẩm mới và cũ. Các
biện pháp chuyển đổi được đề ra trong Quy định 2076/2005.

+ Quản lý thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 10 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
Quy định 882/2004 của Hội đồng châu Âu thiết lập các hệ thống kiểm
soát hài hoà của EU bao gồm cả an toàn thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi,
các nguyên tắc về phúc lợi và sức khoẻ động vật. Liên quan đến việc kiểm
soát nhập khẩu, các nước thứ ba sẽ phải đảm bảo rằng các sản phẩm xuất
khẩu vào thị trường EU phải đáp ứng được những tiêu chuẩn cần thiết.
+ Quy định dán nhãn
Ba quy định chính liên quan đến việc dán nhãn là Quy định 2000/104/EC,
Chỉ thị 2000/13/EC và Quy định 2065/2001/EC. Tất cả các luật mới của EU
đều (và sẽ) dựa trên quyền lợi của người tiêu dùng và sự an toàn theo phương
thức người tiêu dùng sẽ không bị bất kỳ sản phẩm nào hay bao bì nào đánh
lừa. Ðối với yêu cầu vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là truy xuất nguồn gốc các
sản phẩm thuỷ sản, quy định của EU yêu cầu tất cả các sản phẩm đóng gói
phải ghi nước xuất xứ. Nhãn mác phải được in lên gói hàng hoặc thùng các
tông để tránh bị tẩy xoá hoặc rách khi sử dụng. Ngôn ngữ sử dụng phải chính
thống và dễ hiểu.
+ Ðộc tố và chất gây ô nhiễm trong các sản phẩm thuỷ sản
EU đã chi tiết hoá việc kiểm soát pháp lý đối với việc sử dụng và theo
dõi các loại thuốc thú y và các loại thuốc khác có trong cá và thuỷ sản, việc
kiểm soát pháp lý những chất bị cấm chỉ định trong động vật và kiểm soát các
sản phẩm dự tính xuất khẩu phải có hiệu lực ở nước thứ ba.
Quy định 466/2001 đưa ra mức độ tối đa cho phép đối với một số chất
gây ô nhiễm nhất định trong thực phẩm. Ðối với thuỷ sản và thuỷ sản nuôi,
mức độ tối đa được áp dụng với thuỷ ngân, cát mi và chì (kim loại nặng).
Chỉ thị 96/22/EEC cấm sử dụng một số hoá chất nhất định có chứa hoóc
môn và hoạt chất thyreostatic, trong đó có kháng thể β trong các sản phẩm
nuôi.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 11 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
Quy định 2377/90 đặt ra mức độ cặn tối đa cho phép đối với các sản

phẩm thuốc thú y.
Quyết định 95/249/EC ấn định giới hạn tổng lượng Nitơ cơ bản dễ bay
hơi (TVB-N) đối với các danh mục thuỷ sản nhất định và cụ thể hoá những
phương pháp phân tích được sử dụng.
2.2. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam từ năm
2000 đến nay
2.2.1. Tình hình nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ sản của Việt Nam
- Nuôi trồng
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nuôi trồng thuỷ sản là một thế mạnh
của Việt Nam. Việt Nam đứng thứ 3 trên thế giới về sản lượng nuôi trồng
thuỷ sản.
+ Vùng trung du miền núi phía Bắc có điều kiện sinh thái thích hợp với
nuôi trồng các giống loài thuỷ sản cận nhiệt đới, ôn đới dòng Trung Hoa.
+ Vùng đồng bằng sông Hồng có các bãi bồi màu mỡ, đặc biệt thuận lợi
cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ.
+ Vùng Bắc Trung Bộ có diện tích nuôi trồng thuỷ sản không lớn.
+ Duyên hải Nam Trung Bộ có khí hậu rất thuận lợi cho việc phát triển
nuôi trồng thuỷ sản, nhất là các loài thuỷ sản ưa nóng như tôm.
+ Vùng Tây Nguyên có địa hình thuận lợi cho phát triển nuôi mặt nước
lớn (31.500 ha).
+ Vùng Đông Nam Bộ có ưu thế phát triển nuôi trồng thuỷ sản cả nước
mặn, lợ và ngọt.
+ Vùng đồng bằng sông Cửu Long có thuỷ triều vào rất sâu, thuận lợi
cho việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 12 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
- Khai thác
Nghề đánh bắt thuỷ sản đã hình thành từ cách đây hàng ngàn năm. Thời
kỳ sơ khai, người dân đã đánh bắt cá ở các đầm, ao, hồ, dọc các cửa sông
bằng những dụng cụ thô sô như lao, xiên, bẫy, sau đó di chuyển dọc các sông,
hướng dần ra biển để khai thác hải sản ở vùng ven biển.

Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều hộ ngư dân đã có phương
tiện đánh bắt, thậm chí một số hộ còn làm chủ nhiều phương tiện khai thác.
Các thành phần kinh tế như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn cũng đã tham gia hoạt động khai thác hải sản.
Phát triển khai thác hải sản xa bờ đã góp phần thực hiện chuyển dịch cơ
cấu nghề cá, giảm áp lực khai thác vùng gần bờ, tạo việc làm cho hơn 60.000
lao động, đồng thời hạn chế các tàu thuyền nước ngoài vào khai thác hải sản
trái phép ở vùng biển Việt Nam, góp phần bảo vệ an ninh trên biển và chủ
quyền vùng biển quốc gia.
- Chế biến
Chế biến thủy sản là khâu rất quan trọng của chu trình sản xuất, kinh
doanh thủy sản. Các khía cạnh được đánh giá cụ thể như sau:
+ Nguồn nguyên liệu và cơ cấu sử dụng nguyên liệu cho chế biến thủy sản
Do tổng sản lượng thuỷ sản tăng mạnh và công nghệ chế biến, thói quen
tiêu dùng cũng có nhiều thay đổi nên lượng nguyên liệu được đưa vào chế
biến ngày càng nhiều.
+ Chất lượng nguyên liệu
Vì những lý do kinh tế, tài chính, kỹ thuật mà ngư dân chưa thể áp dụng
những công nghệ bảo quản mới nên chất lượng nguyên liệu thuỷ sản chưa
cao.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 13 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
+ Các cơ sở vật chất kỹ thuật và sự phân bố theo vùng nguyên liệu của
công nghiệp chế biến thủy sản
Cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành chế biến thuỷ sản Việt Nam phát triển
khá nhanh. Phần lớn cơ sở chế biến thủy sản hiện nay đã ngang với trình độ
công nghệ của các nước trong khu vực và đã bước đầu tiếp cận được với trình
độ công nghệ của thế giới.
+Vấn đề chất lượng, quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm
Chất lượng các mặt hàng xuất khẩu những năm gần đây đã đạt được rất
nhiều tiến bộ do hoạt động tích cực của bản thân các cơ sở chế biến thuỷ sản

cũng như các trung tâm kiểm tra chất lượng thuỷ sản được bố trí đều khắp
trên phạm vi toàn quốc.
2.2.2. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
2.2.2.1. Quy mô, chất lượng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Trong các nhà xuất khẩu thuỷ sản, Việt Nam đựơc coi là nước có tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản nhanh nhất. Hiện nay hàng thủy sản Việt Nam
đó cú mặt trên khắp 146 nước và vùng lónh thổ trờn thế giới.
* Về kim ngạch xuất khẩu
Kể từ năm 2000 trở lại đây, xuất khẩu thuỷ sản của VN sang EU có xu
hướng tăng rất mạnh, gấp 6,5 lần về khối lượng từ mức 20.290 tấn năm 2000
lên 130.277 tấn năm 2005, tương tự tăng gấp 6 lần về giá trị xuất khẩu và lên
3,8 tỷ USD năm 2007 với sản lượng xuất khẩu đạt 925 nghìn tấn tương đương
với mức tăng 157%. Dự kiến năm 2008 sẽ còn tăng trưởng vượt bậc.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 14 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
Năm 2001 đạt kim ngạch xuất khẩu 1,778 tỷ USD với sản lợng khoảng
375,49 nghìn tấn, tăng 20,2% so với năm 2000. T thỏng 9/2001, VN cựng mt
s nh sn xut tụm chõu (Trung Quc, Inụnờxia, Thỏi Lan) bt u phi
i phú vi vic EU ỏp dng cỏc chớnh sỏch nghiờm ngt v kim soỏt d
lng khỏng sinh, nht l chloramphenicol trong sn phm thu sn nhp
khu t cỏc nc ny vo EU. éú l nguyờn nhõn chớnh dn n kim ngch
xut khu ca VN vo khi th trng ny ó gim sỳt trong nm 2002. T
nm 2003, nh s n lc ci tin v qun lý cht lng, quy trỡnh v iu kin
sn xut thu sn ca cỏc doanh nghip, xut khu thu sn ca VN sang EU
ó phc hi v tng tr li. Bng nhiu n lc, ngnh thu sn Vit Nam ó
t c kt qu mong i. én nay, s doanh nghip Vit Nam c cụng
nhn ỏp ng cỏc yờu cu v tiờu chun an ton v sinh thc phm (ATVSTP)
xut khu sn phm vo th trng ny ó t ti 209 doanh nghip. Bờn
cnh ú, v kin chng bỏn phỏ giỏ cỏ tra v ba sa vo M nm 2004 ó khin
cỏc doanh nghip xut khu mt hng ny chuyn hng vo th trng chõu
u. éõy cng l mt trong nhng nguyờn nhõn dn n vic tng nhanh kim

ngch xut khu thu sn ca VN vo th trng EU t nm 2004. Ngoi ra,
s kin EU m rng lờn 25 nc thnh viờn ó nõng kim ngch xut khu
sang th trng ny nm 2004 t 231,5 triu USD, tng khong 88% so vi
nm 2003, chim t trng gn 10%. Mc dự cú nhng thng trm, nhng EU
vn gi c u th ca khi th trng ln i vi thu sn xut khu ca
VN, chim khong 16% tng kim ngch xut khu nm 2005, t 433 triu
USD. nm 2006 xut khu thu sn c nc t 821, 68 nghỡn tn tr giỏ 3,
364 t USD tng 31,3% v khi lng v 23,31% v giỏ tr so vi nm 2005.
Nm 2007, xut khu thu sn t 3, 8 t USD tng 12,96% so vi nm 2006
tuy nhiờn mc tng ny cha t nh k vng trong nm u tiờn gia nhp
WTO vi lý do doanh nghip xut khu thu sn Vit Nam phi i mt vi
quỏ nhiu ro cn v sinh an ton thc phm ca nhng th trng vn c
coi l th mnh ca Vit Nam nht l th trng Nht Bn. Sn lng thu
SV: Ngô Thị Lơng Thu 15 Lớp: Kinh tế Quốc tế 47
sản tháng 7/2008 đạt 427,5 nghìn tấn, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó nuôi trồng đạt 251 nghìn tấn, tăng 21,5%; khai thác đạt 176,5 nghìn
tấn, tăng 2,7%. Nuôi trồng thuỷ sản hiện đang gặp nhiều khó khăn do giá thức
ăn tiếp tục tăng trong khi giá cá thịt và giá xuất khẩu thuỷ sản chế biến giảm,
cá tra đến thời kỳ thu hoạch nhưng không tiêu thụ được. Một số địa phương
có lượng cá tồn đọng nhiều là: An Giang 25 nghìn tấn; Đồng Tháp trên 27
nghìn tấn; Cần Thơ 12 nghìn tấn; Vĩnh Long 11 nghìn tấn. Khai thác thủy sản
thuận lợi hơn do đang vào vụ cá nam là vụ đánh bắt chính trong năm và chưa
bị ảnh hưởng nhiều của mưa bão. Tính chung 7 tháng, sản lượng thủy sản đạt
2551,5 nghìn tấn, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước (Cá đạt 1986,4 nghìn
tấn, tăng 14,1%; tôm 231,6 nghìn tấn, tăng 1,5%), trong đó nuôi trồng 1296
nghìn tấn tăng 25%; khai thác 1255,5 nghìn tấn, tăng 0,1%. Trong nhiều năm
liền, thuỷ sản duy trì được vị trí là một trong những mặt hàng đem lại nguồn
ngoại tệ lớn nhất cho Việt Nam, chiếm 8-11% tổng giá trị kim ngạch xuất
khẩu. Với những kết quả đã đạt được, Việt Nam đặt mục tiêu năm 2008 phải
đạt kim ngạch xuất khẩu 4,25 tỷ USD tăng 13,3% so với năm 2007 và lọt vào

nhóm 5 nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới.
Trong 11 tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của VN
sang EU đạt hơn 649,4 triệu USD, chiếm khoảng 21,2% tổng kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản của VN, đứng thứ 2 sau Nhật Bản (25%), vượt trên thị trường
Mỹ (19,15%).(Nguồn FICEN)
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam qua các năm được thể hiện
cụ thể trong bảng 2.2 và biểu đồ 2.3.
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản VN qua các năm

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tính
đến8/2008
Sản lượng
XK (nghìn
tấn)
291,92 375,49 458,66 518,747 531,325 626,992 821,68 925 2551,5
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 16 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
KN XK (tỷ
USD)
1,479 1,778 2,023 2,200 2,397 2,728 3,364 3,8 2,3
% tăng so với
năm trước
20,2 13,8 8,7 8,98 13,81 23,31 12,96 17,7
% so với tăng
KNXK của
Việt Nam
8,7 10,3 11.0 9,6 9,04 8,28 8,49 7,79 6,23
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 17 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
(Nguồn: www.fistenet.gov.vn)
Nguồn: www.fistenet.gov.vn

* Về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
Từ nhiều năm nay, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của VN vẫn
là tôm, cá tra, cá biển, nhuyễn thể, các loại thủy sản đông lạnh và các loại
thủy sản khô. Cơ cấu các mặt hàng XK của nước ta ngày càng bổ sung thêm
các mặt hàng có giá trị như cá ngừ, nghêu và một số đặc sản khác. Cơ cấu sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong thời gian hơn 2 thập
kỷ qua.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 18 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
Năm 1986 hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng
nguyên liệu sơ chế đông lạnh, trong đó tôm chiếm tới 64%, xuất khẩu cá
không đáng kể. Từ đó đến nay, mặc dù khối lượng và giá trị xuất khẩu tôm
vẫn liên tục tăng nhưng tỷ trọng trong tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu đã
giảm dần do các mặt hàng khác tăng nhanh hơn, đặc biệt là cá. Do tình hình
kinh tế thế giới có biến động, những nước nhập khẩu thuỷ sản lớn như Mỹ,
Nhật Bản gặp khó khăn về kinh tế, thị hiếu tiêu dùng có thay đổi, chuyển sang
tiêu thụ những sản phẩm kém xa xỉ, giá trung bình thấp tức là chuyển một
phần tiêu thụ từ tôm sang cá. Mặt khác do các doanh nghiệp Việt Nam đã chú
ý đa dạng hoá sản phẩm, sản xuất các mặt hàng cá theo hướng thuận tiện cho
người sử dụng, chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm từ nguyên liệu đến chế
biến nên đã tận dụng được nguồn nguyên liệu đưa vào chế biến xuất khẩu.
Đến năm 2003, xuất khẩu cá đã chiếm 1/3 khối lượng và 1/5 giá trị xuất khẩu.
Năm 2005, Việt Nam xuất khẩu 258,25 nghìn tấn cá các loại (chiếm tới
40,91% khối lượng xuất khẩu) gồm các mặt hàng cá đông lạnh, cá khô, và sản
phẩm cá trị gia tăng khác, thu về 691,94 triệu USD (25,36% kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản). Trong năm 2006, tỷ trọng cá xuất khẩu còn tăng cao hơn nữa
(33,1% giá trị xuất khẩu thuỷ sản) và xu thế này còn tiếp diễn trong thời gian
tới. Tuy nhiên, tôm đông lạnh vẫn duy trì được vị trí là mặt hàng xuất khẩu
hàng đầu, chiếm gần 1/2 giá trị xuất khẩu, tiếp theo là cá đông lạnh với tỷ
trọng xấp xỉ 22%. Con tôm đang được phát triển nuôi rất rầm rộ trên toàn thế
giới, sản lượng tôm ngày càng tăng thỏa mãn tương đối tốt nhu cầu tiêu thụ

chung của thế giới. Trong bối cảnh nguồn cung dồi dào, con tôm có thể nói là
mặt hàng cạnh tranh gay gắt nhất trong các mặt hàng TS thương mại trên thế
giới, con tôm Việt Nam đã phải nỗ lực rất nhiều để duy trì tiềm năng xuất
khẩu.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 19 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47
Năm 2007 XK tôm đạt gần 112 nghìn tấn, trị giá trên 1,067 tỷ USD, chỉ
tăng rất nhẹ 1,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. XK tôm vẫn giữ vị trí là
mặt hàng XK số 1, chiếm 39,4% tổng giá trị XKTS của nước ta. XK tôm tăng
trưởng nhẹ là kết quả của nhiều yếu tố như sản lượng tôm nguyên liệu trong
nước không tăng, giá tôm nguyên liệu luôn giữ mức cao so với nhiều nước
sản xuất tôm trong khu vực và giá thành sản xuất nói chung tăng. Xu hướng
của nhiều DN chế biến hiện nay là tăng tỷ trọng sản phẩm tôm GTGT, phù
hợp với nhu cầu của các thị trường lớn như Nhật và Mỹ.
Mấy năm gần đây con cá tra thể hiện rõ tiềm năng to lớn trên vùng sông
nước ĐBSCL, tạo nên sức tăng trưởng nhảy vọt của xuất khẩu thủy sản VN.
Năm 2007, XK cá tra đạt trên 272,7 nghìn tấn, trị giá trên trên 709 triệu USD,
tăng khá mạnh 37,2 % về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. XK cá tra chiếm
26,2% tổng giá trị XKTS. Hiện nay, EU, Đông Âu và một số nước Bắc Mỹ
vẫn có nhu cầu cao đối với philê cá tra đông lạnh, đây là sự thay thế thích hợp
cho philê cá thịt trắng hiện đang sụt giảm dần sản lượng trên phạm vi toàn thế
giới. Vì vậy, kết hợp với tiềm năng công suất nuôi đang tăng mạnh trong
nước, giá nguyên liệu đang ở mức vừa hợp lý, xuất khẩu cá tra sẽ tiếp tục lập
kỷ lục mới trong năm 2007. XK cá ngừ cũng đạt được tiến bộ lớn, đạt trên
39,2 nghìn tấn, trị giá trên trên 111 triệu USD, với sức tăng trưởng khá cao
27,8% so với cùng kỳ năm 2006. Đơn giá của cá ngừ đại dương khá cao, vì
vậy đây cũng là đối tượng sản phẩm thu hút sự đầu tư phát triển của các ngư
dân và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.
Một điểm đáng chú ý và lạc quan trong tình hình XKTS của VN là mặt
hàng mực và bạch tuộc đông lạnh đạt mức tăng trưởng có thể nói là cao nhất
trong mấy năm gần đây với 35,5% năm 2007 cao hơn về giá trị so với cùng

năm 2006, đạt 60,4 nghìn tấn, trị giá 205,5 triệu USD, chiếm 7,7% tổng
XKTS của nước ta. XK mặt hàng này đạt được kết quả khả quan một phần là
nhờ sản lượng khai thác trong vài năm gần đây đã cải thiện lên khá nhiều.
SV: Ng« ThÞ L¬ng Thu 20 Líp: Kinh tÕ Quèc tÕ 47

×