BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT
Vấn đề 1: Thực hiện công việc không có ủy quyền
Câu 1: Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Căn cứ theo Điều 574 BLDS 2015 thì: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc
một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công
việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không
biết hoặc biết mà không phản đối.”
Câu 2: Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh Nghĩa
vụ Dân sự?
Căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong thực tế, được
pháp luật dân sự dự liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ
dân sự.
Do đó, thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh Nghĩa vụ dân sự là
vì trong thực tế có các trường hợp thực hiện công việc không có ủy quyền, mà BLDS
2015 đã dự liệu điều này tại Chương XIX: Thực hiện công việc không có ủy quyền và tại
Khoản 8 Điều 8 Căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự là Thực hiện không có
ủy quyền, Khoản 3 Điều 275: Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là thực hiện không
có ủy quyền.
Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện công việc
và người có công việc được thực hiện và nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo quyền
lợi của người thực hiện công việc cũng như đối với người có công việc được thực hiện.
Câu 3: Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”
theo quy định của BLDS?
Căn cứ theo Điều 594 BLDS 2005, ta có thể phân tích các điều kiện để áp dụng chế định
“Thực hiện công việc không có ủy quyền” như sau:
1. Việc thực hiện công việc hoàn toàn không do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật
quy định đối với người thực hiện công việc.
2. Người thực hiện công việc phải thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người
có công việc được thực hiện.
1
3. Người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản đối việc
thực hiện công việc không có ủy quyền.
4. Nếu công việc đó không thực hiện ngay thì sẽ gây thiệt hại cho người có công việc
cần được thực hiện.
Câu 4: Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện
công việc không có uỷ quyền”.
Lược bỏ từ “hoàn toàn” trước cụm từ “vì lợi ích của người có công việc”. Mục đích cho
phép người thực hiện công việc không có uỷ quyền có một phần nhỏ lợi ích trong thực
hiện công việc không có ủy quyền.
Câu 5: Trong tình huống trên, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện
những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có
ủy quyền” không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Điều 574 BLDS 2015 định nghĩa: "Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một
người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó
vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà
không phản đối".
Như vậy: để thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự
với quy định trên thì phải có một người “thực hiện công việc” của người khác và “khi
người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Trong tình huống nêu trên, ban quản
lý dự án B mới chỉ ký hợp đồng với nhà thầu C, không nêu rõ C đã tiến hành xây dựng
chưa.
Trường hợp C chưa làm gì thì không thể yêu cầu A thực hiện những nghĩa vụ trên
cơ sở các quy định của chế định thực hiện công việc không có ủy quyền.
Trường hợp C đang xây dựng mà A biết và phản đối mà C vẫn làm thì C cũng
không thể yêu cầu A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định
thực hiện công việc không có ủy quyền được.
Trường hợp C đã xây dựng xong mà A không biết hoặc biết mà không phản đối thì
lúc này điều kiện có một chủ thể thực hiện công việc của người khác và người này
không biết hoặc biết mà không phản đối đã được thỏa mãn. Chúng ta xét đến những
điều kiện khác.
2
Với quy định tại Điều 574, người thực hiện công việc là “người không có nghĩa vụ thực
hiện công việc” đó. Trong tình huống đã nêu, nhà thầu C thực hiện công việc là do đã ký
hợp đồng với ban quản lý dự án B. Đối chiếu với người có công việc được thực hiện (chủ
đầu tư A), nhà thầu C không có nghĩa vụ nào (giữa họ không có hợp đồng và không có
quy định nào buộc C làm việc cho A) nhưng thực chất công việc mà C tiến hành là theo
thỏa thuận với chủ thể khác (ban quản lý dự án B). Theo thực tiễn xét xử, điều kiện
“không có nghĩa vụ thực hiện công việc’’ dường như chỉ được xem xét trong quan hệ
giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện; nếu công việc này
được thực hiện theo yêu cầu của người thứ ba hay theo thỏa thuận với người thứ ba thì
vẫn có thể vận dụng chế định thực hiện công việc không có ủy quyền. (Quyết định số
23/2003/HĐTP-DS ngày 29-7-2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao).
Như vậy điều kiện người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó đã thỏa mãn.
Theo quy định tại Điều 574 thì chúng ta chỉ áp dụng chế định thực hiện công việc không
có ủy quyền khi người thực hiện công việc tiến hành công việc này hoàn toàn vì lợi ích
của người có công việc được thực hiện, tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng người
tiến hành công viêc cũng có lợi ích từ việc thực hiện vì nhà thầu C làm việc để thu lợi
nhuận. (Trường hợp tương tự trong Quyết định số 23/2003/HĐTP-DS ngày 29-7-2003).
Như vậy điều kiện này cũng được đảm bảo.
Như vậy, khi nhà thầu C đã hoàn thành công việc thì có thể yêu cầu Chủ đầu tư A thực
hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có
ủy quyền”.
3
Vấn đề 2: Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật.
Câu 1: Vì sao Toà giám đốc thẩm xác định cặp trâu mẹ con là của ông Hơn? Anh chị
có suy nghĩ gì về hướng giải quyết này của Toà giám đốc thẩm?
Toà giám đốc thẩm xác định cặp trâu mẹ con là của ông Hơn vì trong quá trình giải quyết,
ông Đồng Văn Hơn chứng minh được cặp trâu mẹ con thuộc quyền sở hữu của mình
bằng việc nêu rõ được đặc điểm của hai con trâu cũng như nguồn gốc của chúng và khi
đối chiếu với các chứng cứ khác và kết quả giám định là có căn cứ. Ngược lại ông Phong
lại không có thiện chí giải quyết như: không chịu thả trâu theo tập quán, tự ý tổ chức vợ
con đến dắt trâu và nghé đang tranh chấp về nhà, các lời khai mâu thuẫn như anh khai
con trâu mẹ của anh khoảng 8 tuổi trong khi con trâu này được xác nhận là được khoảng
11 năm tuổi, đồng thời ông khai con trâu mẹ và con trâu nghé đực không phải là mẹ con
mà là trâu ghép mẹ trong khi xác định được các đặc điểm nhận dạng của chúng lại có rất
nhiều điểm giống nhau như được di truyền từ mẹ sang con. Bởi vậy lời khai của ông
Phong là rất mâu thuẫn và không đáng tin cậy.
Từ những yếu tố trên, Toà giám đốc thẩm đã xác định cặp trâu mẹ con là của ông Hơn.
Tôi đồng ý với hướng giải quyết trên của toà án.
Câu 2: Thế nào là chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật? Ai trong vụ án trên là
người chiếm hữu trâu và nghé của ông Hơn không có căn cứ pháp luật và vì sao?
Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 165 BLDS 2015 là
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Như vậy chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật là chiếm hữu tài sản không thuộc
các trường hợp sau đây:
Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản.
Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản.
Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với
các quy định của pháp luật.
4
Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu,
tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện
do pháp luật quy định.
Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với
các điều kiện do pháp luật quy định.
Trong vụ án trên ông Phong là người chiếm hữu trâu và nghé của ông Hơn không có căn
cứ pháp luật. Vì theo như Toà án đã xác định thì con trâu và con nghé là của ông Hơn,
trong khi đó ông Phong lại chiếm hữu chúng khi không có sự đồng ý, cho phép, uỷ quyền
chiếm hữu từ ông Hơn. Bởi vậy việc ông Phong tự ý lấy mất con trâu và nghé của ông
Hơn là hành vi trái pháp luật, là hành động chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Toà giám đốc thẩm buộc ông Phong trả
cho ông Hơn trâu và nghé có tranh chấp? Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải
quyết này của Toà giám đốc thẩm?
Đoạn cho thấy Toà giám đốc thẩm buộc ông Phong trả cho ông Hơn trâu và nghé là:
“…Hội đòng xét xử giám đốc thẩm Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao nhất trí với nội
dung kháng nghị: …Toà án cấp cấp phúc thẩm đã xử công nhận con trâu cái và con nghé
đực đang tranh chấp hiện ông Phong đang quản lý là trâu của ông Hơn đồng thời buộc
ông Phong phải trả cho ông Phạm Đình Trọng 3.240.000đ tiền công coi và chăm sóc trâu
là có căn cứ. Song Toà án cấp phúc thẩm không tuyên buộc ông Phong phải trả lại 2 con
trâu nêu trên là sai sót nghiêm trọng dẫn đến bản án không thi hành được…nếu ông
Nguyễn Văn Phong không tìm thấy 2 con trâu nêu trên thì ông Phong phải có trách nhiệm
thanh toán giá trị hai con trâu đó cho ông Đồng Xuân Hơn theo giá thị trường”.
Toà giám đốc thẩm đưa ra hướng giải quyết như vậy là hợp lý theo quy định tại Điều 579
BLDS 2015. Vì Toà đã xác định 2 con trâu là của ông Hơn, ông Phong chiếm hữu không
có căn cứ pháp luật, không ngay tình nên việc buộc ông Phong là người đang quản lý trâu
trả lại trâu cho Hơn là hợp tình hợp lý. Và khi ông Phong không tìm lại được 2 con trâu
đã thả vào rừng thì phải đền bù bằng tiền mặt lại giá trị của 2 con trâu cho ông Hơn.
Câu 4: Có quy định nào buộc ông Phong trả cho ông Trọng tiền công trông coi trâu có
tranh chấp không? Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết vừa nêu của Tòa phúc
thẩm và Tòa giám đốc thẩm?
BLDS 2015 không có quy định nào trực tiếp buộc ông Phong trả cho ông Trọng tiền công
trông coi trâu có tranh chấp, trong bản án đoạn nhận thấy có nêu: “cả hai bên thỏa thuận
5
đề nghị Công an xã giao cả hai con trâu cho ông Trọng công an xã chăn dắt giá
60.000đ/ngày/2 con chờ Tòa án giải quyết. Ai thắng kiện được lấy trâu và không phải
chịu chi phí chăn dắt trâu”, như vậy đây là Hợp đồng gửi giữ tài sản – theo Điều 554
BLDS: “Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài
sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp
đồng, bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền
công.”. Vì ông Phong thua kiện nên phải trả tiền công trông coi trâu có tranh chấp cho
ông Trọng theo thỏa thuận trước đó, theo quy định về nghĩa vụ của bên gửi giữ tài sản tại
Khoản 2 Điều 555: “Phải trả đủ tiền công, đúng thời hạn và đúng phương thức đã thoả
thuận.”
Câu 5: Nếu ông Phong cho người khác thuê trâu có tranh chấp từ tháng 02/2008 thì
khoản tiền thuê mà ông Phong nhận được từ việc cho thuê được giải quyết như thế
nào? Ai sẽ được hưởng khoản tiền này? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu ông Phong cho người khác thuê trâu có tranh chấp từ tháng 02/2008 thì khoản tiền
mà ông Phong nhận được thì phải hoàn trả khoản tiền ấy và ông Hơn là người được
hưởng khoản tiền này vì đây là trường hợp được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp
luật không ngay tình.
Áp dụng Khoản 1 Điều 581 BLDS 2015: “Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản,
người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật và không ngay tình thì phải hoàn
trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật..”
6
Vấn đề 3: Thực hiện nghĩa vụ dân sự (Thanh toán một khoản tiền)
Câu 1: Thông tư 01/TTLT ngày 19/06/1997 cho phép tính lại khoản giá trị tiền phải
thanh toán như thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Theo Điểm a, b Điều 1 Mục I Thông tư 01/TTLT trên thì việc tính lại khoản giá trị tiền
phải thanh toán được tính như sau:
-Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 01/07/1996 và
trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo
loại trung bình ở địa phương, tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính
số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có
nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
-Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra
trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng
ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải
thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói
trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà
nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy
định tạikhoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.
Việc tính lại khoản giá trị tiền phải trả qua trung gian là gạo.
Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền là 3.285.000đ. Cơ sở pháp lý: Điểm a
Khoản 1 Thông tư 01/TTLT ngày 29/6/1997 và điều 280 BLDS 2015.
Cách tính như sau: Giá gạo trung bình năm 1973 là 137đ/kg thì số lượng gạo quy đổi là
365kg (50000đ:137đ/kg=365kg). Giá gạo tại thời điểm xét xử là 9000đ, vậy số tiền mà
tòa án yêu cầu ông Quới hoàn trả cho bà Cô là 3285000đ (365kg*9000đ/kg=3285000đ).
Câu 3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong tình huống thứ hai không? Vì sao?
7
Thông tư 01/TTLT ngày 19/06/1997 không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp
đồng chuyển nhượng bất động sản trong tình huống trên. Thông tư trên điều chỉnh nghĩa
vụ tài sản là các khoản tiền, vàng (là các khoản tiền, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương,
tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính) và nghĩa vụ tài sản là hiện vật, chứ
không nêu về việc điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất
động sản.
Câu 4: Đối với tình huống thứ hai, thực tế ông Tấn phải trả cho ông Minh, bà Oanh
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Đối với tình huống trên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng dất của ông Tấn và vợ
chồng ông Minh là 300 triệu, ông Tấn đã thanh toán 1/3 giá trị của hợp đồng, còn lại 2/3
giá trị chưa thanh toán. Đến thời điểm giải quyết tranh chấp, giá trị của hai phần đất là
1.200.000.000 đồng. Việc ông Tấn phải thanh toán phần còn thiếu theo giá cả thị trường
là cần thiết. Tức là, 2/3 giá trị hợp đồng mà ông Tấn phải trả cho vợ chồng ông Minh
được tính bằng 2/3 giá trị hiện tại của hai phần đất đó: 800.000.000đồng.
Vì hợp đồng này đã được tòa công nhận nên các bên phải tiếp tục thực hiện, ông Tấn phải
thanh toán tiền còn thiếu. Số tiền ông Tấn chưa trả khi hợp đồng được công nhận thì phải
xác định tỷ lệ tương ứng diện tích đất chưa trả tiền để tính theo giá thị trường. Nên ông
Tấn phải thanh toán cho ông Minh, bà Oanh phần chênh lệch giữa số tiền mà ông Tấn
chưa trả so với diện tích đất thực tế mà ông Tấn đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng
theo giá trị quyền sử dụng đất.
*Quan điểm của Thạc sĩ Đỗ Thành Công về vấn đề:” Thực tiễn xét xử về thực hiện nghĩa
vụ trả tiền trong hợp đồng chuyển giao bất động sản”, Tạp chí TAND , số 22/2011,”…
Nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản, thay vì áp dụng các quy
định tương ứng của BLDS, được xác định vào mức tăng giá trị của bất động sản giao
dịch. Đây là một giải pháp không hợp lý và không nên áp dụng cho nhựng tranh chấp
tượng tự. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trả tiền, cần áp dụng các
quy định của BLDS dựa trên cơ sở phân biệt giữa trách nhiệm trả nợ gốc cộng với lãi suất
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.”
Vậy theo thạc sĩ Đỗ Thành Công, toà án cần phải giữ nguyên giá trị của bất động sản
đang tranh chấp theo giá của hợp đồng gốc là 300 triệu đồng, áp dụng quy tắc được qui
định tại điều 280 BLDS 2015 (điều 290 BLDS 2005) để xác định nghĩa vụ trả tiền của
8
ông Tấn. Như vậy ông Tấn phải trả số tiền còn thiếu là 200 triệu đồng công thêm tiền lãi
suất theo thoả thuận.
9
VẤN ĐỀ 4: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ DÂN SỰ THEO THỎA THUẬN
Câu 1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Điểm giống:
Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/có quyền yêu cầu về việc chuyển giao
quyền yêu cầu/nghĩa vụ
CSPL: Khoản 2 Điều 365 và khoản 1 Điều 370 BLDS 2015
Không được phép chuyển giao quyền, nghĩa vụ gắn với nhân thân hoặc các quyền,
nghĩa vụ khác mà pháp luật không cho phép chuyển giao
CSPL: Điểm a khoản 1 Điều 365, khoản 1 Điều 370 BLDS 2015
Điểm khác:
Tiêu chí
Điều kiện chuyển
giao
Chuyển giao quyền yêu cầu
Việc chuyển giao quyền
yêu cầu không cần có sự
đồng ý của người có nghĩa
vụ, nếu các bên không có
thỏa thuận khác hoặc pháp
luật không quy định khác
CSPL: Khoản 2 Điều 365
BLDS 2015
Trách nhiệm của
bên chuyển giao
Nếu không có thỏa thuận
khác, người chuyển giao
quyền yêu cầu không phải
chịu trách nhiệm về khả
năng thực hiện nghĩa vụ của
bên có nghĩa vụ một khi
nghĩa vụ đã được chuyển
giao
CSPL: Điều 367 BLDS
2015
10
Chuyển giao nghĩa vụ dân sự
Việc chuyển giao nghĩa vụ dân
sự bắt buộc phải có sự đồng ý
của bên có quyền
CSPL: Khoản 1 Điều 370 BLDS
2015
Trách nhiệm của người có nghĩa
vụ ban đầu về việc thực hiện
nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ
không được BLDS quy định
Đối với nghĩa vụ có biện
pháp bảo đảm thì việc
Chuyển giao
chuyển giao quyền yêu cầu
quyền/nghĩa vụ đi bao gồm cả biện pháp bảo
kèm biện pháp
đảm đó.
bảo đảm
CSPL: Điều 368 BLDS
2015
Bên có nghĩa vụ có quyền
từ chối thực hiện nghĩa vụ
nếu không được thông báo
về việc chuyển giao quyền
yêu cầu và người thế quyền
không chứng minh về tính
xác thực của việc chuyển
giao quyền yêu cầu
Nghĩa vụ việc
thông báo về
Trường hợp bên có nghĩa
chuyển giao và hệ
vụ không được thông báo
quả từ việc không
mà đã thực hiện nghĩa vụ
thông báo
đối với người chuyển giao
quyền yêu cầu thì người thế
quyền không được yêu cầu
bên có nghĩa vụ phải thực
hiện nghĩa vụ đối với mình
Sau khi chuyển giao nghĩa vụ có
biện pháp bảo đảm thì BPBĐ
chấm dứt (bên thế quyền không
cần thực hiện nghĩa vụ bảo đảm),
trừ trường hợp có thỏa thuận
khác
CSPL: Điều 371 BLDS 2015
Nếu bên có quyền không được
thông báo thì việc chuyển giao
nghĩa vụ vô hiệu và bên có nghĩa
vụ tiếp tục phải thực hiện nghĩa
vụ.
Trường hợp không thông báo mà
bên thế nghĩa vụ đã thực hiện
nghĩa vụ đối với bên có quyền thì
bên có quyền phải hoàn trả lại
(nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu,
sử dụng tài sản, được lợi về tài
sản không có căn cứ pháp luật)
hoặc chấp nhận việc chuyển giao
nghĩa vụ
CSPL: Khoản 1 Điều 369
BLDS 2015
Câu 2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú?
Đoạn hai phần Nhận thấy của bản án ghi nhận:
"Ngày 27/04/2004, bà Tú tiếp tục vay tiền Ngân hàng và cho bà Phượng vay lại với số
tiền 615.000.000đm có làm biên nhân. Đến tháng 04/2005, Phượng không có tiền trả nên
nhờ bà Tú vay nóng bên ngoài để trả cho Ngân hàng khi đến hạn. Phượng đồng ý trả
khoản tiền lãi 2,5% trên vốn vay 615.000.000đ đồng thời Phượng xin giảm lãi xuống còn
1,3%/tháng".
11
Như vậy và Phượng có nghĩa vụ trả nợ số tiền 615.000.000 đồng cho bà Phượng kèm
theo lãi suất.
Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã chuyển
giao cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn thứ năm phần Xét thấy, Tòa án nhân dân Thị xã Châu Đốc, Tỉnh An Giang ghi nhận
rằng: "Xét hợp đồng vay tiền giữa và Phượng và bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm
nghĩa vụ thanh toán nợ vaym không trả vốn, lãi cho bà Tún, lẽ ra phía bà Phượng phải
có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển
nghĩa vụ trả nợ cho bà ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể qua việc bà Tú đã lập hợp đồng
cho ba Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho và Loan, ông Thạnh vay số tiền
số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/05/2005".
Như vậy, Tòa án đã nhận định nghĩa vụ trả số tiền vay bà Tú của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc và bà Loan, ông Thạnh.
Câu 4: Suy nghĩ của anh (chị) về đánh giá trên của Tòa án?
Theo nhóm em, đánh giá trên của Tòa án Thị xã Châu Đốc, Tỉnh An Giang là linh hoạt và
hợp lý.
Thứ nhất, Tòa án xác định nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển giao sang cho
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Vì
theo Điều 370 Bộ luật dân sự 2015 thì bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân
sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý và người thế nghĩa vụ sẽ trở
thành bên có nghĩa vụ. Trong trường hợp này, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh, thông qua việc bà Tú đã lập
hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh
vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Điều đó thể hiện người có quyền là bà Tú
đã đồng ý với việc chuyển giao này. Ngoài ra, BLDS 2015 cũng không quy định về hình
thức thông báo về việc chuyển giao nghĩa vụ do đó việc bà Tú giao kết hai hợp đồng vay
vào ngày 12/05/2005 đã thể hiện bà đã được thông báo và chấp nhận việc chuyển giao
nghĩa vụ.
Như vậy, khi đã chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ trả nợ ban đầu
là bà Phượng sẽ được giải phóng hoàn toàn, không phải chịu trách nhiệm liên đới. Thay
vào đó bà Ngọc và bà Loan, ông Thanh sẽ trở thành người thay thế nghĩa vụ, có trách
nhiệm trả số nợ còn thiếu cho bà Tú.
12
Thứ hai, việc Tòa án thừa nhận việc chuyển giao nghĩa vụ trả nợ từ Phượng sang cho bà
Ngọc và bà Loan, ông Thạnh là phù hợp với bản chất của giao dịch giữa tất cả các bên và
cũng đã được các bên thừa nhận. Cụ thể, bà Phượng đóng vai trò trung gian, vay tiền của
bà Tú để cho bà Ngọc và bà Loan, ông Thanh vay lại. Hơn nữa, theo nội dung bản án thì
bà Tú còn nhận thế chấp tài sản bảo đảm của bà Ngọc là quyền sử dụng đất.
Câu 5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khoản 2 Điều 370 BLDS 2015 quy định: "Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế
nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ". Như vậy, một khi nghĩa vụ ban đầu đã được chuyển
giao một phần hoặc toàn bộ và đã được bên có quyền yêu cầu đồng ý thì bên thế nghĩa vụ
là bên có nghĩa vụ mới, chịu toàn bộ trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cho bên có quyền
trong phạm vi nghĩa vụ được chuyển giao. Do đó, người có nghĩa vụ ban đầu sẽ không có
trách nhiệm đối với bên có quyền trong trường hợp bên thế nghĩa vụ không thực hiện
phần nghĩa vụ đã được chuyển giao.
Câu 6: Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.
Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, việc người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách
nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao là hoàn toàn hợp lý. Việc bên có quyền đồng ý chuyển giao nghĩa vụ tức là
đã chấp nhận bên có nghĩa vụ mới, loại bỏ toàn bộ trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với
bên có nghĩa vụ đầu tiên.
Mặc dù BLDS 2015 không quỹ định rõ về trách nhiệm của bên có nghĩa vụ đầu tiên đối
với nghĩa trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đã được chuyển giao nhưng theo tinh thần của
Bộ luật thì có thể hiểu quy định tại Điểu 370 hướng tới việc này.
Tham khảo quan điểm của tác giả Đỗ Văn Đại về vấn đề này: “Khi có chuyển giao nghĩa
vụ theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm với người có
quyền nên người có quyền không thể yêu cầu người có nghĩa vụ ban đầu thực hiện nghĩa
vụ khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao. Nếu có nghĩa vụ
chuyển giao theo pháp luật mà khi chuyển giao người có nghĩa vụ ban đầu chết hay
13
chấm dứt (như do sáp nhập hay hợp nhất) thì hiển nhiên người có quyền cũng sẽ không
thể yêu cầu người có nghĩa vụ ban đầu thực hiện nghĩa vụ”.1
Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án có theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn thứ năm phần Xét thấy của bản án, Tòa án ghi nhận rằng: "Như vậy, kể từ thời điểm
bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay
của Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà ngọc, bà Loan và ông
Thạnh đối bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách
nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận".
Câu 8: Suy nghĩ của anh (chị) về hướng giải quyết trên của Tóa án?
Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, phù hợp với tinh thần của Bộ luật
dân sự 2015. Cụ thể, khoản 2 Điều 375 BLDS 2015 quy định: “Khi được chuyển giao
nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có trách nhiệm đối với người có quyền thì
sẽ không thấy sự khác biệt giữa chuyển giao nghĩa vụ được quy định tại Điều 370 với
Điều 283 về thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba, theo đó “Khi được bên có
quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện
nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Do vậy, để chuyển giao nghĩa vụ là một
chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba cần xác định rõ
chuyển giao nghĩa vụ sẽ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu khỏi trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ đó, trừ khi có thỏa thuận khác.
Câu 9: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có
chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Điều 371 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được
chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Như vậy một khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh chấm dứt theo quy định
1 Đỗ Văn Đại (2017), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB.
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam
14
trên, trừ trường hợp bà Phượng, bà Tú và bên bảo lãnh có thỏa thuận bên thứ ba tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với nghĩa vụ đó.
15