Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Hồi ký văn học (của nhà văn) trong Văn học Việt nam hiện đại nhìn từ góc độ thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 167 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

LÊ THỊ LỆ THỦY

HỒI KÝ VĂN HỌC (CỦA NHÀ VĂN)
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

LÊ THỊ LỆ THỦY

HỒI KÝ VĂN HỌC (CỦA NHÀ VĂN)
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI
Chuyên ngành:

Văn học Việt Nam

Mã số:

62 22 34 01



LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện
TS. Nguyễn Thị Kiều Anh

Hà Nội, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Tên đề tài luận án không trùng với bất cứ nghiên cứu nào đã đƣợc
công bố. Các tài liệu, số liệu, trích dẫn trong luận án là trung thực,
khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận án

Lê Thị Lệ Thủy

i

năm 2017


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài: "Hồi ký văn học (của nhà
văn) trong văn học Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể loại", tôi đã nhận đƣợc
sự giúp đỡ, hƣớng dẫn chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo trong khoa Văn học,
Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. Đặc biệt là sự hƣớng dẫn
khoa học của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện và TS. Nguyễn Thị Kiều Anh đã giúp
tôi hiểu sâu sắc vấn đề và hoàn thành luận án.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trƣờng Đại học Sƣ phạm Đại học Thái Nguyên, đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận án.
Tôi cũng tỏ lòng biết ơn tới gia đình cùng anh chị, bạn bè là những ngƣời đã
luôn bên cạnh động viên và ủng hộ tôi trong quá trình học tập.
Mặc dù tôi đã cố gắng rất nhiều song đề tài vẫn không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong đƣợc sự giúp đỡ góp ý của quý các thầy cô, các nhà khoa học và
quý bạn đọc.
Xin kính chúc quý thầy, cô và bạn đọc dồi dào sức khỏe và hạnh phúc!
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng

năm 2017

Tác giả

Lê Thị Lệ Thủy

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................. ii
MỤC LỤC ...................................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................... 1
2. Mục đích - Đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 3
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................ 3
6. Những đóng góp của luận án .................................................................................. 4
7. Cấu trúc luận án ...................................................................................................... 4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................................. 5
1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận hồi ký văn học ở Nga ........................................... 5
1.2. Tình hình nghiên cứu hồi ký, hồi ký văn học ở Việt Nam .................................. 9
1.2.1. Nghiên cứu lý thuyết thể loại ................................................................... 9
1.2.2. Nghiên cứu quá trình phát triển ............................................................. 14
1.2.3. Nghiên cứu tác giả, tác phẩm ................................................................ 18
Tiểu kết Chƣơng 1 ........................................................................................................ 24
Chƣơng 2. THỂ LOẠI HỒI KÝ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
HỒI KÝ VĂN HỌC TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ......................... 26
2.1. Giới thuyết về hồi ký, hồi ký văn học ................................................................ 26
2.1.1. Khái niệm hồi ký..................................................................................... 26
2.1.2. Hồi ký văn học ........................................................................................ 29
2.2. Khái quát về hồi ký văn học trong nền văn học Việt Nam hiện đại .................. 38
2.2.1. Quá trình hình thành phát triển ............................................................. 38
2.2.2. Nhận diện hồi ký văn học của các nhà văn Việt Nam ............................ 52
2.3. Hồi ký văn học dƣới góc nhìn thể loại ............................................................... 54
2.3.1. Tôn trọng sự thật, kết cấu linh hoạt theo dòng hồi ức ........................... 54
2.3.2. Diễn ngôn theo phong cách của “cái tôi” tác giả ................................. 58
2.3.3. Phong phú đa dạng trong hình thức thể hiện nghệ thuật ngôn từ ......... 61
Tiểu kết Chƣơng 2 ........................................................................................................ 63

iii



Chƣơng 3. HỒI KÝ VĂN HỌC CỦA CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT ................................ 64
3.1. Sự thể hiện sâu đậm cái tôi tác giả ..................................................................... 64
3.1.1. Cái tôi hồi ức về tuổi thơ và những thiên hướng về nghề văn ............... 64
3.1.2. Cái tôi trưởng thành trong nghiệp chữ .................................................. 65
3.1.3. Những tâm sự, quan niệm về nghề và kinh nghiệm đúc rút trong
cuộc đời viết văn ....................................................................................................... 68
3.1.4. Nhu cầu dựng lại chân dung bạn bè, đồng nghiệp ................................ 73
3.2. Sáng tạo hình thức nghệ thuật phong phú đa dạng và hấp dẫn.......................... 82
3.2.1. Điểm nhìn trần thật độc đáo và đa dạng ............................................... 82
3.2.2. Kết cấu phi tuyến tính, phức hợp, lồng ghép linh hoạt .......................... 87
3.2.3. Ngôn ngữ kết hợp tả, bình luận, lôi cuốn ấn tượng ............................... 91
Tiểu kết Chƣơng 3 ...................................................................................................... 101
Chƣơng 4. MỘT SỐ CÂY BÚT HỒI KÝ TIÊU BIỂU:
NGUYÊN HỒNG, TÔ HOÀI, VŨ BẰNG, MA VĂN KHÁNG ............................ 102
4.1. Nguyên Hồng và thể tài hồi ký - tự truyện ........................................................ 102
4.1.1. Nguyên Hồng - Nhà văn của những người cùng khổ ............................ 102
4.1.2. Hồi ký Nguyên Hồng - Những cảm xúc cực điểm về cuộc đời và
trang viết ................................................................................................................. 104
4.2. Tô Hoài và thể tài hồi ký - chân dung.............................................................. 112
4.2.1. Tô Hoài - Nhà văn của những cảm hứng đời thường .......................... 112
4.2.2. Hồi ký Tô Hoài - Những trang viết phác thực, hóm hỉnh .................... 115
4.3. Vũ Bằng và thể tài hồi ký - tự truyện, hồi ký - chân dung .............................. 124
4.3.1. Vũ Bằng - Nhà văn của quê hương ...................................................... 124
4.3.2. Hồi ký Vũ Bằng - Nỗi nhớ da diết, ngọn bút tài hoa ............................ 126
4.4. Ma Văn Kháng và thể tài hồi ký văn chƣơng hỗn hợp .................................... 138
4.4.1. Ma Văn Kháng - Người khuấy động văn đàn Việt Nam hiện đại ........ 138
4.4.2. Hồi ký Ma Văn Kháng - Dòng hồi ức chân thực và giầu chất

triết luận, suy tư ...................................................................................................... 140
Tiểu kết Chƣơng 4 ...................................................................................................... 147
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ......................................................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 152

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồi ký là một thể tài thuộc thể ký. Nội dung của hồi ký tập trung vào hồi ức về số
phận, đời tƣ của cá nhân hoặc những câu chuyện, sự kiện đã qua của cuộc đời. Ngƣời
viết hồi ký thể hiện nhu cầu chiêm nghiệm, nhận thức, khám phá bản thân và cuộc
sống bằng những ghi chép dựa trên “ngƣời thật, việc thật” về chính tác giả hoặc về
những con ngƣời và sự việc xảy ra cùng thời với tác giả nhƣng đến thời điểm viết đã
lùi vào quá khứ. Qua hồi ức về cuộc đời mình, ngƣời viết hồi ký còn có khả năng xây
dựng đƣợc chân dung của nhiều nhân vật cùng thời và phác họa gƣơng mặt thời đại.
Hồi ký là một phƣơng tiện hữu hiệu để ngƣời viết đƣợc ngƣợc dòng thời gian,
trở về quá khứ, lắng lại tâm hồn, suy xét nhận thức, kiểm chứng về sự việc đẹp đẽ
hoặc đau buồn đã qua trong quá khứ nhƣng vẫn còn hiện hữu trong thế giới tinh thần,
ám ảnh tâm can ngƣời cầm bút, thôi thúc đƣợc giải tỏa trên trang viết. Viết hồi ký là
là con đƣờng, là sự lựa chọn đích đáng để ngƣời cầm bút giãi bày tâm sự, bày tỏ tình
cảm, bộc lộ suy ngẫm của mình. Xét từ phƣơng diện xã hội, lịch sử, hồi ký còn là nơi
để ngƣời viết thực hiện trên diễn đàn công khai sự minh định quá khứ cho chính bản
thân mình hoặc những ngƣời gần gũi, thân thiết hay ngƣời mà mình cảm phục. Bằng
thể loại hồi ký, nhiều tác giả đã thể hiện cái tôi với nhiều trải nghiệm trƣớc thăng
trầm của cuộc sống nhiều biểu hiện những góc cạnh của cuộc sống. Từ những tình
cảm, suy nghĩ, tâm sự riêng, tác giả bộc lộ những tình cảm, suy ngẫm liên quan đến

cuộc đời, lẽ sống và cả những vấn đề lớn về nhân dân, đất nƣớc, lịch sử và nhân loại.
Hồi ký góp phần xác minh, khôi phục sự thật lịch sử liên quan đến một cá nhân, một
nhóm ngƣời hoặc một cộng đồng, một thời đại. Và điều quan trọng là, từ những trang
viết có thông tin cá nhân và nội dung xã hội phong phú, tác phẩm hồi ký góp phần
soi sáng hiện tại, đáp ứng đƣợc nhu cầu nhận thức thực tại của ngƣời đọc. Khi phát
huy hết công năng thể loại, hồi ký có đóng góp lớn trong việc chiêm nghiệm quá
khứ, công bố sự thật, phán xét lại lịch sử, đạt đến chiều sâu triết lí nhân sinh. Tuy
hình thành và phát triển tƣơng đối muộn hơn một số thể loại văn học khác trong văn
học Việt Nam, nhƣng hồi ký đã nhanh chóng phát huy những đặc điểm ƣu trội của nó
để ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, khẳng định một vị trí quan trọng trong nền
văn học Việt Nam hiện đại; trong đó phải kể đến vị trí, vai trò của các tác phẩm hồi
ký văn học của các nhà văn.
1


Hồi ký văn học của các nhà văn không chỉ phản ánh nhu cầu tự biểu hiện cái tôi
cá nhân của nhà văn mà còn phản ánh diện mạo phong phú, mới mẻ của đời sống xã
hội, đời sống văn học nƣớc nhà qua các chặng đƣờng lịch sử, xã hội khác nhau.
Trong các tác phẩm Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Đặng Thai Mai hồi ký
(Đặng Thai Mai), Cát bụi chân ai, Chiều chiều (Tô Hoài),… những kỉ niệm chung riêng, xa - gần không rời rạc tản mát mà gắn kết thành những câu chuyện xúc động,
hấp dẫn về văn chƣơng, nghệ thuật, về đồng nghiệp gắn với cuộc đời riêng của tác
giả. Với tất cả những nỗ lực tìm tòi, khám phá, cách tân về tính năng thể loại, về
nghệ thuật biểu hiện và phong cách cá nhân của các tác giả, nhiều tác phẩm hồi ký
văn học của các nhà văn đã đạt đến độ chín của thể loại hồi ký trong văn học hiện đại
Việt Nam, có đóng góp tích cực đối với đời sống xã hội và đời sống văn học, góp
phần làm nên diện mạo đặc sắc của thể loại hồi ký trong nền văn học nƣớc nhà.
Tuy vậy, tìm hiểu các công trình nghiên cứu về hồi ký trong nền văn học Việt
Nam hiện đại, chúng tôi thấy còn ít công trình đi vào tập trung nghiên cứu chuyên
sâu về hồi ký văn học của các nhà văn. Chính vì thế tác giả luận án chọn đề tài “Hồi
ký văn học (của nhà văn) trong văn học Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể

loại” hy vọng sẽ có điều kiện tìm hiểu sâu và khám phá mới về thể loại văn học độc
đáo, hấp dẫn này.
2. Mục đích - Đối tƣợng nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài Hồi ký văn học (của các nhà văn) trong văn học Việt Nam hiện đại,
công việc nghiên cứu của luận án nhằm đạt đƣợc những mục tiêu cụ thể sau đây:
2.1.1. Xác lập một cách hợp lý, đầy đủ về khái niệm hồi ký văn học trên cơ sở
đó làm rõ loại hình và đặc trƣng thể loại của hồi ký văn học
2.1.2. Khái quát những chặng đƣờng phát triển và quy luật vận động của thể
loại hồi ký văn học (của nhà văn) trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay.
2.1.3. Khẳng định những đóng góp của thể loại hồi ký văn học, cả về nội dung
và nghệ thuật, làm phong phú thêm diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là những tác phẩm hồi ký của các nhà văn
Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay; bao gồm cả hồi ký tự truyện và hồi ký chân
dung văn học.
2


3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của thể loại hồi ký và hồi ký văn học.
- Sƣu tầm, phân loại, xác định diện mạo và đóng góp của hồi ký văn học trong
văn học Việt Nam hiện đại.
- Làm rõ những đặc điểm nội dung và nghệ thuật thể hiện của hồi ký văn học, đi
sâu vào một số cây bút tiêu biểu của thể tài.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát các tác phẩm hồi ký văn học của các tác giả trong văn học Việt Nam
hiện đại; trong luận án này, chúng tôi chỉ nói tới hồi ký của những tác giả là hội viên
Hội nhà văn Việt Nam trong đó, tập trung vào một số cây bút tiêu biểu: Tô Hoài,
Nguyên Hồng, Vũ Bằng, Ma Văn Kháng.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài chúng tôi vận dụng tổng hợp
các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích- tổng hợp: Phƣơng pháp phân tích tổng hợp đƣợc xem
là phƣơng pháp chủ đạo đƣợc sử dụng trong xuyên suốt đề tài. Trên cơ sở sử dụng và
phân tích các tác phẩm hồi ký văn học tiêu biểu đƣợc chọn làm đối tƣợng nghiên
cứu, chúng tôi sẽ phân tích và tổng hợp nhằm tìm ra những đặc điểm riêng biệt của
hồi ký văn học của các nhà văn trong giai đoạn này.
- Phương pháp loại hình: Dựa vào đặc trƣng của thể loại để lựa chọn tác phẩm
khảo sát và định hƣớng khảo sát sao cho làm nổi bật những nét khu biệt của các dạng
thức hồi ký so với các thể loại khác.
- Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu hồi ký thì phƣơng pháp so
sánh là không thể thiếu. Nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp này nhằm tìm hiểu chung
về quá trình hoạt động và phát triển của hồi ký văn học qua các thời kỳ dựa trên cơ
sở so sánh, đối chiếu với các thể loại hồi ký khác, và với các thể loại khác. So sánh
bút pháp tự sự của các nhà văn khác nhau khi viết hồi ký.
- Phương pháp hệ thống: Đề tài sử dụng phƣơng pháp hệ thống nhằm xem xét
và đánh giá sự vận động của hồi ký văn học của các nhà văn Việt Nam trong sự vận
động chung của văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Bên cạnh đó vận dụng các đặc
điểm của quá trình vận động thể loại hồi ký nhằm để phân tích, cụ thể hóa những đặc
trƣng cơ bản của thể loại hồi ký văn học của các nhà văn.

3


- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu vấn đề trong bối cảnh lịch sử
- xã hội cùng thời để tiến hành khảo sát và đánh giá. Xem xét tiến trình vận động của
văn học với lịch sử văn hóa kết hợp với góc nhìn hiện đại khi lý giải các sự việc, hiện
tƣợng có liên quan về hồi ký văn học.
6. Những đóng góp của luận án

- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về hồi ký văn học xác
định rõ đặc điểm thể loại hồi ký văn học, tìm hiểu phân tích và đánh giá sự phát triển
của hồi ký văn học và những cây bút hồi ký văn học tiêu biểu, đáp ứng nhu cầu
nghiên cứu thƣởng thức hồi ký văn học khẳng định những đóng góp của hồi ký văn
học đối với đời sống xã hội và nhất là đóng góp về mặt phát triển thể loại.
- Sƣu tầm, phân loại hồi ký văn học của các nhà văn qua các thời kỳ.
- Luận án có những đóng góp về mặt tƣ liệu (sƣu tầm hơn 50 tác phẩm hồi ký
văn học) tham khảo thiết thực đối với việc nghiên cứu giảng dạy, học tập văn học
Việt Nam hiện đại.
7. Cấu trúc luận án
Phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
gồm bốn chƣơng:
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Chƣơng 2. THỂ LOẠI HỒI KÝ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
HỒI KÝ VĂN HỌC TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Chƣơng 3. HỒI KÝ VĂN HỌC CỦA CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
Chƣơng 4. MỘT SỐ CÂY BÚT HỒI KÝ TIÊU BIỂU: NGUYÊN HỒNG,
TÔ HOÀI, VŨ BẰNG, MA VĂN KHÁNG

4


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận hồi ký văn học ở Nga
Hồi ký là một thể loại nằm trong một bộ phận của ký văn học. Đáng chú ý là nó
có mối liên hệ đặc biệt với hồi ký ở Nga. Chính vì vậy, khi nhìn về lịch sử nghiên cứu
của hồi ký, chúng tôi có xem xét tình hình nghiên cứu hồi ký ở Nga, coi đó nhƣ là một
sự đối sánh cần thiết để tìm kiếm con đƣờng nghiên cứu hồi ký văn học ở Việt Nam.

Thuật ngữ hồi ký (tiếng Latinh: Memoria; tiếng Anh Memoir; tiếng Pháp
Mémoires) ra đời muộn nhƣng tiền thân của hồi ký vốn xuất hiện từ rất sớm. Qua
tiến trình lịch sử, đến nay hồi ký đã hiện diện với tính chất một thể tài có vị trí quan
trọng trong đời sống văn học. Hồi ký là thể tài phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà ở
nhiều nƣớc trên thế giới. Đã có nhiều ý kiến bàn về hồi ký về khái niệm và đặc trƣng
của thể loại này.
Mặc dù có những quan điểm không tách bạch trên phƣơng diện lý thuyết thể
loại giữa hồi ký và các thể tài khác trong ký, nhƣng dù muốn hay không hồi ký với tƣ
cách là một thể tài vẫn tồn tại nhƣ một thực tế đƣợc thừa nhận. Đáng chú ý là số
lƣợng hồi ký trên thế giới và ở Việt Nam vô cùng phong phú nhƣng lại không dễ đƣa
ra một định nghĩa thống nhất, cho phép khái quát hết các đặc điểm của thể loại.
Trong lịch sử văn học, khái niệm hồi ký và những vấn đề lý thuyết thể loại luôn là
vấn đề gây tranh cãi. Không những với ngƣời nghiên cứu mà với ngƣời sáng tác, các
ý kiến, định nghĩa hồi ký không chỉ thay đổi theo thời gian mà còn có nhiều điểm
khác biệt tùy vào quan điểm mỹ học của từng tác giả.
Từ những năm đầu thế kỷ XIX, lý thuyết hồi ký đã đƣợc nghiên cứu ở Nga. V.
Belinsky đã đƣa ra định nghĩa về hồi ký mà nhiều nhà nghiên cứu đƣơng đại vẫn
tham khảo vào đó: “…Hầu hết các cuốn hồi ký hoàn toàn xa lạ về ý nghĩa, chỉ có giá
trị về mức độ truyền đạt chính xác và đáng tin cậy các sự kiện thực tế, hầu hết các
cuốn hồi ký nếu đƣợc viết một cách điêu luyện thì sẽ tạo nên một mặt cuối cùng
trong lĩnh vực tiểu thuyết khi tự nó kết thúc”[163, tr.16]. Vì vậy, nhà phê bình đã coi
hồi ký là một phần cấu thành của thể loại văn học sử thi. Ông đã xem “các sự kiện
lịch sử có trong các nguồn không hơn những hòn đá hay những viên gạch: chỉ ngƣời
nghệ sĩ mới có thể dựng nên một tòa nhà sang trọng từ vật liệu này”. Belinsky cho
rằng quan trọng không phải đơn giản chỉ là việc liệt kê các sự kiện, mà là việc lựa
chọn chúng, việc tác giả biết xây dựng từ chúng một bức tranh biểu cảm. [163, tr.16]
Khi đề xuất hình mẫu của sự kiện đƣợc miêu tả với tƣ cách là dấu hiệu bắt buộc
của hồi ký, Belinsky vì thế đã công nhận hồi ký là một thể loại văn học có đầy đủ
5



thẩm quyền mà trong đó có sự lựa chọn và tổ chức các sự kiện theo ý định của tác
giả, xây dựng hình mẫu nghệ thuật. Vì vậy, Belinsky đã áp dụng cho các cuốn hồi ký
chính những tiêu chí nghệ thuật nhƣ đã áp dụng với các tác phẩm văn học khác.
Khi xếp hồi ký vào các thể loại “biên giới” của văn học viễn tƣởng, Belinsky
đồng thời nhận thấy sự không đồng nhất về thể loại của chúng. Quả thực vào thời của
ông, các cuốn hồi ký không đƣợc trình bày nhƣ một hiện tƣợng thống nhất. Trong
một số tác phẩm, các tác giả kể lại các sự kiện, còn trong một số tác phẩm khác, họ
lại cố gắng tái dựng bức tranh tƣợng trƣng của quá khứ. Vì vậy Belinsky đã bổ sung
và làm rõ các tính chất mà ông đã phác thảo của hồi ký trong các đánh giá riêng và
các bài viết khái quát nhƣ “liệt kê” các dấu hiệu của chúng nhƣ một sự hình thành
thẩm mỹ riêng. Với tƣ cách là tài liệu chính, Belinsky đã lựa chọn chính các cuốn hồi
ký của các nhà văn chứ không phải những ngƣời đại diện của các ngành nghề khác.
Nhận xét của N. Chernyshevsky đối với các tác phẩm tự truyện của Derzhavin
và L. Tolstoy đã chỉ ra các đặc điểm tổ chức thẩm mỹ của các tác phẩm này. Nhà phê
bình cho rằng các tác phẩm hồi ký thƣờng dựa trên các sự kiện đã xảy ra vào thời
gian nào đó - “về các sự kiện này, hoặc là chúng đƣợc kể lại một cách không thỏa
đáng, hoặc chúng đƣợc tác giả lựa chọn một cách thiếu kinh nghiệm, dù sao bạn
cũng có thể biết đƣợc các tập tục của thế kỷ, với những gì đã xảy ra trong thế giới khi
đó” [164, tr.326].
Chernyshevsky cũng ghi nhận sự tồn tại của hình ảnh đƣợc điển hình hóa của
thực tế: “…Giống nhƣ sức mạnh của trí nhớ, nó không trong tình trạng giữ lại tất cả
các chi tiết, đặc biệt là các chi tiết không quan trọng đối với bản chất của vấn đề, mà
chỉ những chi tiết cần cho sự hoàn thiện về mặt nghệ thuật của câu chuyện và cần
đƣợc vay mƣợn từ các cảnh khác mới còn lại trong trí nhớ” [164, tr.326].
Nhƣ vậy, chính Belinsky và Chernyshevsky ngay trong thế kỷ XIX đã xác định
rằng các cuốn hồi ký của các nhà văn cũng có những chất lƣợng nhƣ các tác phẩm
văn học khác: trong đó có sự điển hình hóa thực tế, có quan điểm lịch sử đối với
những sự kiện đƣợc miêu tả và sự lựa chọn các sự kiện. Sự đặc biệt của chúng đƣợc
quy định bởi quan điểm cá nhân đối với những sự kiện đƣợc miêu tả, khả năng thể

hiện dƣới hình thức cá nhân những sự kiện đã trải qua và đã nhìn thấy.
Những ý kiến của các nhà phê bình đã xác định vị trí của các cuốn hồi ký trong
tiến trình văn học. Nhƣng chính mức độ phát triển của phê bình văn học, sự ƣu thế
của phƣơng pháp tiếp cận lịch sử đã dẫn đến việc trong hầu hết các công trình, các
vấn đề về phân loại các thể loại chƣa đƣợc xem xét một cách đầy đủ. Thƣờng thì
những ngƣời nhận xét đầu tiên không phải là những nhà phê bình và các nhà phê
6


bình văn học không chuyên mà là các nhà văn. Vì vậy, vào thế kỷ XIX, hoạt động
đánh giá tất cả các ấn phẩm quan trọng loại này còn chƣa có các thông tin phản hồi
và không mang tính chất hệ thống.
Cuối thế kỷ XIX, trong Bách khoa toàn thƣ của F. Brokhaus và I. Efron đã xuất
hiện mục từ vựng đầu tiên dành riêng cho các xu hƣớng phát triển của thể loại và
đƣợc đề xuất phân chia hồi ký thành chiến tranh, “hòa bình”, đời thƣờng, văn
chƣơng. Cần lƣu ý rằng, sự phân chia hồi ký theo dấu hiệu đề tài và nghề nghiệp
đƣợc đề xuất trong Bách khoa toàn thƣ đã đƣợc duy trì cả trong các tác phẩm tiểu sử
tiếp theo. Có thể đƣa ra làm mẫu công trình năm tập của S. Mintslov “Việc lựa chọn
các ghi chép, nhật ký, hồi ký, thƣ từ và những hành trình liên quan đến lịch sử nƣớc
Nga và đƣợc in bằng tiếng Nga” [165, tr.70-74].
Quan điểm của Ts. Volpe trong cuốn Nghệ thuật của sự khác biệt, đã xem thể
loại hồi ký nhƣ một hiện tƣợng văn học đƣợc hình thành và chỉ ra rằng hồi ký là một
thành phần có đầy đủ thẩm quyền trong tiến trình văn học. Volpe lần đầu tiên đặt câu
hỏi về vai trò của phƣơng pháp hồi ký trong sáng tác của các nhà văn các trào lƣu
khác nhau nhƣ B. Lifshits và A. Bely, M. Zoschenko và A. Grin [166]. Tuy nhiên, vì
những điều kiện khách quan (sự đàn áp của những năm ba mƣơi và các hiện tƣợng
chiến tranh) mà các kết luận của Volpe chỉ đƣợc sử dụng trong nghiên cứu văn học
vào những năm chín mƣơi.
Trong bách khoa toàn thƣ của thế kỷ XX viết “Văn học hồi ký” đã đƣợc xuất
hiện vào đầu những năm ba mƣơi. Một trong những tác giả của nó là N. Belchikov.

Trong phần bài viết của mình, ông đã theo lịch sử xuất hiện thể loại này, xác định
các đặc điểm thể loại hình thức của nó. Belchikov đã đƣa ra một trong những tiêu chí
phân loại đầu tiên khi phân chia các hình thức riêng, gọi tên trong số đó những cuốn
nhật ký, ghi chép, các tác phẩm tiểu sử và tự truyện và cuối cùng là hình thức tự thổ
lộ. Đồng thời nhà nghiên cứu đã giải nghĩa các đặc điểm chính của chúng.
Nhà nghiên cứu đã lựa chọn sự phát triển của các hình thức thể loại (từ đơn
giản hơn đến phức tạp) nhƣ là tiêu chí chính. Belchikov đã lƣu ý rằng các cuốn hồi
ký của các nhà văn đã lập nên một phần riêng trong sáng tác của họ nhờ có các đặc
điểm riêng. Quan điểm đƣợc hình thành truyền thống đối với chúng nhƣ một nguồn
lịch sử là không toàn diện. Các cuốn hồi ký không chỉ cho thấy giá trị lịch sử mà còn
có giá trị nghệ thuật, vì vậy chúng cần phải đƣợc nghiên cứu cùng với các tác phẩm
khác của các nhà văn. Về cơ bản trong bài viết này, lần đầu tiên đã hình thành
chƣơng trình nghiên cứu khoa học toàn vẹn đối với các cuốn hồi ký nhƣ một thể loại.
7


Vào năm 1948 chuỗi “Những cuốn hồi ký văn học” đã bắt đầu ra đời và đến
cuối những năm 50 lại xuất hiện cả những loạt hồi ký nhƣ:“Những cuốn hồi ký sân
khấu”, “Những cuốn hồi ký chiến tranh”, “Các nhà văn viết về chính mình”. Khối
lƣợng lớn các tác phẩm hồi ký xuất hiện trong thời gian này đã cho phép một số nhà
phê bình nói về sự bắt đầu giai đoạn hai của sự phát triển hồi ký thế kỷ XX.
Trong chuyên đề của V. Kardin Hôm nay nói về hôm qua (1961) trong tƣ liệu
thực tế lớn, tác giả chỉ ra rằng đã có những luật lệ áp dụng một tác phẩm văn học bất
kỳ cũng đƣợc áp dụng cho hồi ký. Ngoài ra, trong công trình này cũng tìm thấy
những ý kiến trái ngƣợc, một mặt Kardin yêu cầu hồi ký phải thóat khỏi những điều
nhỏ nhặt, mặt khác ông ủng hộ sự chính xác thực tế của những sự kiện đƣợc miêu tả.
Cần phải lƣu ý rằng khi công nhận giá trị của thành phần tài liệu, tác giả cho rằng đối
với các cuốn hồi ký văn chƣơng (mà ông gọi là hồi ký kinh điển) cần phải nói không
phải về độ chính xác thực tế mà là tính xác thực tâm lý. Kardin coi những cuốn hồi
ký mà trong đó tác giả thành công trong việc chỉ ra sự phản chiếu của lịch sử trong

số phận cá nhân của mình là những cuốn hồi ký nghệ thuật.
Gần nhƣ đồng thời với các công trình của Kardin đã xuất hiện những công trình
của M. Kuznetsov. Khi lƣu ý rằng văn xuôi hồi ký là một hiện tƣợng nghệ thuật toàn
vẹn, Kuznetsov chỉ ra rằng “các vấn đề đƣợc đặt ra trong đó nằm ở chính trung tâm
của những quyền lợi tinh thần của hiện tại” [170, tr.147].
Mặc dù tác giả không nói về các cuốn hồi ký nhƣ một thể loại nhƣng ông phân
ra các dạng riêng (truyện hồi ký, tiểu thuyết hồi ký, sử thi hồi ký). Ông cho rằng, nếu
chúng ta gọi tác phẩm Quá khứ và suy nghĩ của Gertsen (1852-68) là tiểu thuyết thì
có thể nói rằng Câu chuyện về cuộc đời (1945-63) của K. Paustovsky và Con người.
Năm tháng. Cuộc đời (1960-1965) của I. Erenburg cũng là những cuốn tiểu thuyết.
Trong công trình của M. Bilinkis, các cuốn hồi ký đƣợc nghiên cứu nhƣ một
không gian văn bản đặc biệt: “Văn học hồi ký là thể loại hồi ký riêng, khi đó giống
nhƣ văn bản hồi ký (thông báo về sự kiện mà theo sự công nhận của tác giả thì nó là
bằng chứng của sự kiện đó) có thể bao gồm trong các tác phẩm của các thể loại khác.
Các văn bản có thể giao nhau, có nghĩa là tồn tại trong một thể loại, các thể loại
không giao nhau trong môi trƣờng độc giả đồng nhất. Ví dụ, vào thế kỷ XVIII “Câu
chuyện về cuộc đời”,... của Avvakum đã đƣợc nhận thức bởi những ngƣời đƣơng
thời chỉ giống nhƣ một câu chuyện về cuộc đời, đặc biệt mục tiêu của nhận thức đó
đƣợc trình bày trong tên gọi của văn bản. Chỉ đến thế kỷ XX văn bản này mới có thể
đƣợc nhƣ một văn bản hồi ký hoặc tiểu thuyết” [171, tr.9].
8


Theo ý kiến của Levitsky, “ngƣời viết hồi ký khi tái dựng một phần thực tế
trong lĩnh vực tầm nhìn của mình, chủ yếu dựa trên các ấn tƣợng và hồi ức trực tiếp
của mình; thì ở khắp nơi hoặc chính ngƣời viết hoặc quan điểm của ngƣời đó đối với
sự kiện đƣợc miêu tả cần phải làm cho nổi bật. Sự không đầy đủ của sự kiện và tính
phiến diện của thông tin hầu nhƣ không thể tránh khỏi đƣợc đổi lại trong các cuốn
hồi ký bằng sự thể hiện một cách sống động và trực tiếp cá tính của tác giả, là “tài
liệu” có giá trị của thời gian” [172, tr.216].

Yu. Petlyakov lƣu ý rằng “khi thể hiện các cuốn hồi ký nhƣ “thể hồi ký-tự
truyện”, thông thƣờng các nhà nghiên cứu gắn kết khái niệm chung chung “hồi ký”
và cụ thể - “tự truyện”, thuật ngữ thể hiện trong một loạt các trƣờng hợp là một trong
những thể loại văn học hồi ký [167, tr.4]. Nhà nghiên cứu đề xuất tên gọi các cuốn
hồi ký (hồi ức) bằng thuật ngữ “văn học hồi ký” và bao hàm trong đó sự hình thành
thể loại hình thức nhƣ một loại hình.
Yu. Petlyakov cho rằng việc xác định ban đầu của các tác phẩm viết về quá
khứ, nơi quan điểm cá nhân đối với quá khứ chiếm ƣu thế, nhƣ các cuốn hồi ký, là
chính xác hơn. Vì vậy việc phân chia tiểu thuyết tự truyện và tiểu thuyết hồi ký tiểu
sử nhƣ các loại hình hồi ký của các nhà văn là hợp lý.
Những nghiên cứu này thực sự cần thiết không chỉ với ngƣời viết hồi ký mà cả
với tác giả luận án. Đây là những gợi mở để ngƣời viết phân tích những vấn đề kỹ
thuật viết hồi ký của nhà văn.
1.2. Tình hình nghiên cứu hồi ký, hồi ký văn học ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu lý thuyết thể loại
So với các thể loại khác, hồi ký xuất hiện muộn. Ở Việt Nam những năm 30, 40
của thế kỷ XX, hồi ký mới xuất hiện và mãi những thập niên cuối thế kỷ XX mới phát
triển và đạt đƣợc những thành tựu nhƣ một thể loại độc lập. Nên hầu hết các công trình
lý luận - phê bình, các công trình văn học sử, đều dành sự quan tâm nhiều hơn đến đặc
điểm và thành tựu của thể loại ký - một mảng văn xuôi quan trọng của mọi thời kỳ
phát triển của văn học viết. Hồi ký thƣờng chỉ đƣợc nhắc qua nhƣ một tiểu loại giàu
chất tự sự, và tất nhiên phải chịu sự chi phối từ những đặc điểm loại hình của ký. Là
một bộ phận của ký văn học, hồi ký văn học càng đƣợc thu hẹp trong một phạm vi tác
giả và tác phẩm. Mỗi tác giả lại chỉ có thể viết một số hồi ký với số lƣợng tối đa vài
cuốn. Một phần vì vậy nên chƣa có nhiều công trình chuyên về hồi ký.
Đã có một số công trình nghiên cứu hoặc tập hợp những bài nghiên cứu về hồi
ký với tƣ cách là một thể loại của ký trong đó có đề cập đến khái niệm thể loại. Đáng
chú ý là các công trình dịch từ giáo trình lƣu hành ở Nga Dẫn luận nghiên cứu văn
9



học hai tập do Pospelop chủ biên (Nxb Giáo dục 1985); tác giả Hà Minh Đức trong
cuốn Lý luận văn học (Nxb Giáo dục - 1995); tác giả Phƣơng Lựu trong cuốn Lý luận
văn học (Nxb Giáo dục - 2004); tác giả Trần Đình Sử trong cuốn Từ điển thuật ngữ
văn học (Nxb Giáo dục - 2007); tác giả Đức Dũng trong cuốn Ký văn học và ký báo
chí (Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội - 2003). Mặc dù chƣa có một định nghĩa nhất
quán nhƣng thuật ngữ hồi ký đã đƣợc nhiều tác giả công trình lý luận, từ điển và
ngƣời viết hồi ký định danh.
Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
đồng chủ biên), đã định nghĩa hồi ký là “một thể loại thuộc loại hình ký, kể lại
những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng
kiến” [51, tr.127].
Trong Từ điển văn học, tập 1 (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu
chủ biên nhấn mạnh “Hồi ký…nhằm ghi lại những sự việc thuộc quá khứ, qua sự
nhớ lại…ngƣời viết hồi ký lấy bản thân mình làm địa bàn chính để nhớ lại sự việc đã
qua” [54, tr.319]. Trong công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Phan Cự Đệ chủ
biên), thừa nhận “Ký bao gồm nhiều thể chủ yếu dưới dạng văn xuôi tự sự như bút
ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phóng sự, tùy bút…” [30, tr.428].
Trong cuốn Lý luận văn học (Nhà xuất bản Giáo dục) Phƣơng Lựu đã quan
niệm“ loại hồi ký với đặc điểm là chủ thể trần thuật phải là ngƣời trong cuộc kể lại
những sự việc trong quá khứ. Hồi ký có thể nặng về ngƣời hay việc, có thể kết cấu
theo dạng kết cấu - cốt truyện hoặc kết cấu - liên tƣởng [101, tr.436].
Bên cạnh đó là những phần nghiên cứu thuộc các công trình có tính lý luận
chung nhƣ Ký báo chí và ký văn học (Đức Dũng), Năm bài giảng về thể loại (Hoàng
Ngọc Hiến). Đức Dũng đặt ký văn học trong “các thể ký tự sự” cùng với ký sự,
phóng sự văn học, truyện ký và chân dung văn học. Ngƣời viết đã cung cấp cho
chúng ta những thông tin cần thiết về tiểu loại này. Ông đặt nó trong mối tƣơng quan
giữa cái tổng thể (hồi ký) với cái cá biệt (hồi ký văn học) để thấy điểm thống nhất
giữa chúng cũng nhƣ đánh giá cao hơn vai trò, vị trí của hồi ký văn học trong hồi ký
nói chung.

Hà Minh Đức trong cuốn Lý luận văn học đã tiếp tục giới thuyết về hồi ký. Hà
Minh Đức định nghĩa: “Hồi ký là một thể văn quan trọng”; “đối tƣợng miêu tả của
hồi ký thƣờng là những nhân vật xuất sắc trong lịch sử nhƣ cuộc đời của những nhà
hoạt động chính trị, các anh hùng chiến sĩ nhiều kì công, kì tích, trong nhiều vấn đề
không chỉ giới hạn ở phạm vi trên mà thực ra cuộc đời của mỗi con ngƣời đều có thể
ghi lại thành hồi ký với điều kiện là những trang viết đó có ý nghĩa xã hội quan trọng
10


gợi lên đƣợc những nhận thức chung có ích cho mọi ngƣời‟ [38, tr.230]. Trong tài
liệu này, hồi ký của các nhà văn đƣợc đánh giá là những những tác phẩm có sức hấp
dẫn. Các tác giả đã gợi ra một vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, đó là hồi ký văn
học của các nhà văn.
Trƣớc đó, các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn từ trƣớc tới nay cũng đã
đƣa ra những cách hiểu của mình về hồi ký. Trong bài “Viết hồi ký về đề tài lực
lƣợng vũ trang cách mạng”, (năm 1961) Minh Xuân đã định nghĩa về hồi ký: “Hồi
ký nằm trong thể chung của bút ký nhằm ghi chép lại những sự việc đã xảy ra trong
quá khứ” [41, tr.11]. Tác giả nêu rõ những đặc điểm mang tính lý luận của thể loại
hồi ký: “hồi ký có tính chất lịch sử và tính chất văn học” [40, tr.12-16]; yêu cầu
ngƣời viết hồi ký phải “chọn đƣợc chủ đề và xác định tƣ tƣởng chủ đề”, phải biết
“biểu hiện nhân vật và hoàn cảnh” [41, tr.20]. Nhƣ vậy, “hồi ký cũng là một thể loại
văn học. Trong hồi ký không yêu cầu tập trung xây dựng nhân vật điển hình kiểu
nhân vật hƣ cấu trong tiểu thuyết nhƣng khi theo dõi câu chuyện ngƣời đọc vẫn cố
gắng tìm trên trang sách bóng dáng con ngƣời thật. Trong một hồi ký không nên chỉ
kể toàn sự việc mà phải biết đƣa ra những điều ngƣời đã chứng kiến hay làm sự việc
ấy cảm gì, nghĩ gì có nhƣ thế hồi ký mới có sức truyền cảm ngƣời đọc” [41, tr.21]. Lí
thuyết về hồi ký của tác giả Minh Xuân có ý nghĩa đánh dấu khởi điểm quá trình
nghiên cứu lí thuyết hồi ký trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Trong bài viết “Bàn thêm về viết hồi ký” Xuân Thiêm đã đi sâu vào vấn đề
quan trọng của lí luận hồi ký là “cái tôi” của ngƣời viết. Theo tác giả: “khi viết hồi

ký về cá nhân mình thì cứ kể một cách thoải mái miễn là kể sao cho trung thực, có
sao viết nấy” [41]. Xuân Thiêm rất lƣu ý việc biểu hiện cái tôi tác giả nhƣ thế nào
cho đúng. Tác giả hồi ký viết những chuyện mình đã sống thật cho nên nhân vật
trung tâm thƣờng là ngôi thứ nhất, là chính tác giả hoặc những ngƣời có liên quan
chặt chẽ đến “cái tôi” đó. Vấn đề lí luận về nhân vật và chi tiết sự kiện cũng đƣợc
Xuân Thiêm đề cập rõ: “Hồi ký đòi hỏi ngƣời viết phải bám vào ngƣời thật việc thật
một cách nghiêm túc chặt chẽ” [41, tr.20].
Từ vị trí của ngƣời sáng tác, nhà văn Tô Hoài - nhà văn rất thành công trong
thể loại hồi ký cũng đƣa ra nhận định riêng của mình về thể loại này: “Ký là một thể
loại mang tính cách riêng, tính cách của một lối viết ra những cảm xúc trƣớc sự việc
mắt thấy, tai nghe. Ký có lối xây dựng chủ đề, nhân vật, kết cấu, tình tiết, ngôn
ngữ… riêng biệt” [61]. Chính từ quan niệm đó mà hồi ký của Tô Hoài có những đặc
điểm riêng. Một mặt nó tuân theo những yêu cầu riêng của hồi ký, một mặt nó in
11


đậm cá tính sáng tạo của nhà văn. Những cuốn hồi ký nhƣ Cát bụi chân ai, Chiều
chiều, Cỏ dại. . . là những tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho điều này.
Tác giả Hoàng Nhƣ Mai trong bài viết “Vấn đề giảng dạy văn học theo loại
thể”, đã trình bày đặc điểm nội dung của hồi ký: “Hồi ký ghi lại những sự việc đã
qua nhưng những sự việc ấy không phải thuộc vào một thời lịch sử xa xôi mà phải
gần gũi, có liên quan khá mật thiết đến hiện tại. Hồi ký do những người đang còn
sống kể lại” [102, tr.66]. Tác giả nhấn mạnh vào giá trị lịch sử của hồi ký: “Hồi ký
chỉ có giá trị khi nào những sự việc đƣợc ghi lại, những con ngƣời đƣợc nói đến có
một tầm quan trọng trọng lịch sử đáng chú ý” [102, tr.66]. Nhà nghiên cứu đƣa ra
tiêu chí phân biệt giữa hồi ký và tự truyện: “Những điểm khác nhau cơ bản giữa hồi
ký và tự truyện là ở chỗ tự truyện thiên về kể lại những chuyện thân mật bình thƣờng
nhiều hơn mà hồi ký thì thiên về những sự kiện có tính lịch sử” [102, tr.66]. Theo
chúng tôi, bƣớc phát triển có ý nghĩa lí luận trong tài liệu nghiên cứu và giảng dạy về
hồi ký của tác giả Hoàng Nhƣ Mai là sự phân biệt giữa hồi ký và tự truyện.

Tác giả Hà Minh Đức trong công trình Ký viết về chiến tranh cách mạng và
xây dựng chủ nghĩa xã hội (năm 1980), đã phân biệt ký báo chí và ký văn học. Đặc
trƣng cơ bản của ký báo chí vẫn là báo chí, tôn trọng tính xác thực và tính thời sự.
Còn ký văn học đặc trƣng cơ bản của nó là văn học, tức phản ánh đời sống bằng hình
tƣợng thông qua những cảm xúc của ngƣời viết. Trong ký văn học ngƣời viết có thể
hƣ cấu trong chừng mực không phá vỡ khuôn khổ của ngƣời thật việc thật. Về các
thể ký văn học ông phân chia bảy thể tài thuộc ký văn học là: ký sự, phóng sự, truyện
ký, hồi ký, bút ký chính luận, nhật ký và tùy bút. Trong hồi ký chia các thể ký văn
học ông lƣu ý đến hai thể tài đặc biệt là hồi ký cách mạng có giá trị văn học và hồi
ký của các nhà văn, nhƣng ông chƣa gọi hồi ký của các nhà văn là hồi ký văn học.
Công trình Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của tác
giả Hà Minh Đức vừa có giá trị thực tiễn, khẳng định vị trí, vai trò và sự đóng góp
của thể ký nói chung đối với sự nghiệp chiến đấu và xây dựng chủ nghĩa xã hội của
đất nƣớc trong một thời kì lịch sử quan trọng; vừa có ý nghĩa đóng góp về phƣơng
diện lí luận văn học, làm rõ thêm những đặc điểm thể loại của ký văn học, đặc biệt là
quan niệm về giá trị văn học của hồi ký và sự phân loại ký văn học. Đây là những
tiêu chí mà ngƣời nghiên cứu hồi ký rất cần quan tâm.
Nguyễn Văn Dân có bài viết trên Vietnam. net: “Hồi ký văn học - tiềm năng và
hạn chế” trình bày một số phƣơng diện về hồi ký. Theo ông thông thƣờng hồi ký có
hai loại: “(1) Loại hồi ký do những ngƣời nổi tiếng và những nhân vật quan trọng
12


viết về những sự kiện trong cuộc đời của họ hoặc về những sự kiện đƣợc họ chứng
kiến, nhất là những sự kiện quan trọng. (2) Loại hồi ký do những ngƣời bình thƣờng
viết về những nhân vật và sự kiện quan trọng”[20]. Về ƣu thế của hồi ký văn học, tác
giả khẳng định: “Thế mạnh của hồi ký văn học là nó cung cấp các tƣ liệu về ngƣời
thật việc thật dƣới hình thức nghệ thuật văn chƣơng nhƣng không hƣ cấu” [21, tr.41].
Bài viết này đã “chạm” tới vấn đề cốt lõi về lí thuyết thể loại của hồi ký văn học, đó
là sự kết hợp giữa “tƣ liệu về ngƣời thật việc thật” và “hình thức nghệ thuật văn

chƣơng”; giữa giá trị tƣ liệu chân thực “không hƣ cấu” của hồi ký và giá trị thẩm mĩ
của một tác phẩm văn học. Ngƣời viết hồi ký văn học phải giải quyết tốt mối quan hệ
này mới tạo đƣợc tác phẩm có giá trị.
Tìm hiểu các công trình nghiên cứu và tài liệu viết về hồi ký, chúng tôi nhận
thấy, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về lí thuyết thể loại của hồi ký có số lƣợng
còn ít so với các công trình nghiên cứu lí thuyết thể loại thơ, tiểu thuyết, truyện
ngắn,...; những vấn đề lí luận chung về hồi ký đƣợc trình bày với mức độ khác nhau,
có công trình đi sâu vào lí thuyết về hồi ký, có công trình chỉ đề cập lí thuyết chung về
hồi ký làm cơ sở để phân tích thành tựu của hồi ký trong đời sống văn học; tuy nhiên
tất cả các chuyên luận, các bài viết trên đều có giá trị kiến tạo và bồi đắp lí thuyết thể
loại hồi ký, giúp ích cho việc nhận dạng, phân biệt, tạo lập và tiếp nhận tác phẩm.
Về phƣơng diện lí luận, kết quả của các công trình nghiên cứu về hồi ký đã
đạt đƣợc:
1. Đƣa ra những định nghĩa và cắt nghĩa khái niệm hồi ký.
2. Phân tích, khẳng định vai trò của hồi ký trong đời sống xã hội và đời sống
văn học.
3. Xác định những đặc điểm cơ bản về nội dung và yêu cầu về giá trị văn học
của hồi ký.
4. Xác định tiêu chí phân loại hồi ký.
5. Phát hiện và bƣớc đầu nhận dạng hồi ký văn học của các nhà văn.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về hồi ký nêu trên mới tập trung giải
quyết những vấn đề cơ bản về lí thuyết thể loại của hồi ký nói chung chứ chƣa đi sâu
nghiên cứu lí thuyết thể loại của hồi ký văn học. Những vấn đề lí thuyết thể loại của
hồi ký văn học còn mờ nhạt; khái niệm, đặc điểm thể loại của hồi ký văn học chƣa
đƣợc giới thuyết cụ thể. Giới hạn này đặt ra những nhiệm vụ cần tiếp tục giải quyết
trong luận án này.
13


1.2.2. Nghiên cứu quá trình phát triển

Trƣớc khi hồi ký xuất hiện, trong văn học Việt Nam thời kỳ trung đại đã tồn tại
một số tác phẩm có phƣơng thức sáng tác là ghi chép về những điều mắt thấy, tai
nghe, bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc trong những chuyến công cán. Qua sƣu tầm và khảo
sát, chúng tôi nhận thấy từ “ký sự”, “tùy bút” xuất hiện đầu tiên vào cuối thế kỷ
XVIII trong tác phẩm Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Vũ trung tùy bút của
Phạm Đình Hổ. Có ý kiến cho rằng những tác phẩm này đã đánh dấu sự xuất hiện
của thể văn hồi ký trong nền văn học Việt Nam. Đến đầu thế kỷ XX mở đầu cho thể
loại hồi ký là tác phẩm Ngục Kontum của Lê Văn Hiến (1938) và Những ngày thơ ấu
của Nguyên Hồng (1938). Vào những năm 40 của thế kỷ trƣớc, trong cuốn Nhà văn
hiện đại của Vũ Ngọc Phan thể loại này bắt đầu đƣợc nhắc đến. Tuy nhiên công trình
này chƣa đề cập đến khái niệm thể loại. Cũng từ những thập niên 30 của thế kỷ XX
trở lại đây cùng với sự xuất hiện những ngƣời viết hồi ký với sự khác biệt trong lối
viết đã có những công trình lựa chọn hồi ký văn học làm đối tƣợng nghiên cứu. Khảo
sát hồi ký văn học, các nhà nghiên cứu, phê bình đã tiếp cận với nhiều phƣơng diện
của thể loại. Nhiều cuộc tranh luận xung quanh các vấn đề của hồi ký, các tác phẩm
cụ thể đã diễn ra tạo nên một đời sống văn học sôi động. Các công trình nghiên cứu
về sự vận động của hồi ký văn học đã giúp ngƣời đọc thấy đƣợc những bƣớc đi của
thể loại trong tiến trình văn học dân tộc.
Ngoài các công trình chuyên biệt về thể loại hồi ký nhƣ luận án tiến sĩ của Ngô
Thị Ngọc Diệp hoàn thành năm 2013 Hồi ký trong văn học Việt Nam từ sau cách
mạng tháng 8 - 1945 đến nay [22]; các công trình, chuyên luận nhƣ Ký viết về chiến
tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội (Hà Minh Đức), Văn học Việt Nam
thế kỷ XX (Phan Cự Đệ chủ biên), giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (Nguyễn
Văn Long chủ biên), Văn chương và thời cuộc (Hà Minh Đức), Đồng cảm và sáng
tạo (Lý Hoài Thu), đã có nhiều bài viết quan tâm nghiên cứu nhiều vấn đề của hồi
ký. Các công trình, bài viết ở nhiều góc độ đã đề cập đến thành tựu của hồi ký văn
học, những đóng góp và thách thức của thể loại trong đời sống văn học đƣơng đại.
Tìm hiểu sự vận động của hồi ký trong dòng chảy của văn học những thập niên cuối
thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI nhiều ngƣời có đồng quan điểm với Bích Thu trong việc
ghi nhận vị trí quan trọng của hồi ký đối với quá trình phát triển thể loại. Tác giả này

khẳng định sự bùng nổ và ƣu thế của hồi ký vào những thập niên cuối thế kỉ XX.
Theo bà, sự xuất hiện của những hồi ký “mang đậm dấu ấn cái tôi của nhà văn, thuật
lại lai lịch, đời tƣ, đời viết, quan hệ chủ thể sáng tạo với đồng nghiệp, bạn văn, ngƣời
thân và bạn đọc… thu hút sự chú ý của ngƣời đọc đã chứng tỏ cái thế mạnh riêng của
tác phẩm ký” [30, tr.411].
14


Hà Minh Đức với bài viết “Về khả năng phản ánh hiện thực của hồi ký, nhân
đọc Sống như Anh”, đăng tại Tạp chí Văn học số 4/1965, đã có một cách nhìn sơ
lƣợc về hồi ký. Ông đánh giá rất cao thế hệ tác giả trong giai đoạn này đã để lại
nhiều tác phẩm hồi ký có chất lƣợng [35, tr.81]. Trong công trình Ký viết về chiến
tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội (năm 1980), ông đã khẳng định vai
trò của hồi ký trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc: “Hồi ký viết về chiến tranh
cách mạng của ta có một vị trí hết sức quan trọng trong việc phản ánh lịch sử đấu
tranh cách mạng của dân tộc…giá trị của hồi ký không chỉ xác định ở trong phạm vi
văn học mà đƣợc khẳng định ở nhiều mặt: chính trị, quân sự, sử học, xã hội học. Các
tác phẩm này đƣợc viết ra trên cơ sở của ký ức chọn lọc chính xác và có trách nhiệm.
Sự thật của đời sống đƣợc tôn trọng ở mức cao nhất” [36, tr.85-86]. Trong đó cuốn
Văn chương và thời cuộc Nxb Khoa học Xã hội (năm 2009), ông cũng nhận định:
“Trong tƣơng lai sẽ có rất nhiều hồi ký, nhật ký xuất hiện khi ngƣời ta quan tâm đến
cuộc đời riêng của nhiều loại ngƣời vốn có đóng góp hoặc nổi danh ở một lĩnh vực
nào đó” [36].
Theo dõi tình hình nghiên cứu hồi ký thời ký đổi mới, có thể thấy, đa phần các
ý kiến đều thống nhất cho rằng: “hồi ký Việt Nam đang có những chuyển đổi mạnh
mẽ, đang đƣợc mùa, “thăng hoa” và đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn
học đƣơng đại. Qua việc khảo sát lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy
cùng với sự vận động của thể loại, hồi ký thời kỳ đổi mới (từ những hiện tƣợng đến
những vấn đề đặt ra trong từng tác giả, tác phẩm cụ thể) đã dành đƣợc sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình. Nguyễn Phƣợng có bài viết “Văn học và nền

kinh tế thị trƣờng trong mƣời năm cuối thế kỉ” khẳng định sự phát triển nổi trội của
thể hồi ký, tự truyện trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng: “Không ngẫu nhiên, thể
loại hồi ký, tự truyện và tiểu thuyết tự truyện lại gần nhƣ chiếm thế thƣợng phong
trong giai đoạn này. Công chúng dành sự quan tâm khá đặc biệt với một số tiểu
thuyết tự truyện và hồi ký nhƣ Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) của Tô
Hoài,…”. Sự quan tâm đó theo ông là do “xu hƣớng giải thiêng, giải ảo”, “sự thay
đổi nhận thức và quan niệm về các hệ giá trị” và “cái nhìn tỉnh táo, duy thực đầy can
đảm” của nhà văn trong việc “diễn đạt những sự thật từng bị che khuất bởi những chi
phối của lịch sử và thời cuộc” [125].
Trong cuốn Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại của trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội có đoạn: “Trong văn xuôi những năm 90 và vài năm gần đây, thấy nổi lên hai
mảng đáng chú ý: hồi ký - tự truyện và tiểu thuyết lịch sử. Một loạt hồi ký của các
15


nhà văn, nhà thơ, cả những nhà hoạt động xã hội đã đem lại cho ngƣời đọc những
hiểu biết cụ thể, sinh động và xác thực về xã hội, lịch sử, về đời sống văn học và
gƣơng mặt một số nhà văn ở những thời kì đã qua” [98, tr.183].
Bên cạnh đó Lý Hoài Thu trong công trình Đồng cảm và sáng tạo (năm 2006),
lí giải sự phát triển và ghi nhận những đóng góp của hồi ký cho đời sống văn học:
“Những năm cuối cùng khép lại thế kỉ XX, sự ra đời của các tác phẩm hồi ký nhằm
đáp ứng lại nhu cầu nhìn nhận và suy ngẫm về quá khứ. Những vấn đề của văn
chƣơng một thuở, những số phận đã thành dĩ vãng giờ đƣợc tái dựng theo một tinh
thần mới, giả thiết mới đã gây không ít những cuộc tranh cãi mà nhờ đó, đời sống
văn học trở nên có khí sắc hơn” [150, tr.133]. Bà tỏ ra tin tƣởng vào sự phát triển của
thể loại này: “Với tất cả những nỗ lực tìm tòi, khám phá, cách tân về nội dung ý
nghĩa cũng nhƣ nghệ thuật biểu hiện và quan trọng nhất là với sự tự khẳng định
không ngừng phong cách cá nhân của các tác giả hồi ký, bút ký thời kỳ đổi mới,
chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định sự thành công và chín muồi của thể loại ký ở
giai đoạn hiện nay” [150]. Tiếp đến năm 2008, Lý Hoài Thu tiếp tục với bài viết

“Hồi ký và bút ký thời kỳ đổi mới” trong Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 10. Trong
nghiên cứu của mình, tác giả đã đƣa ra các nhận định và đánh giá về thể loại bút ký
cũng nhƣ hồi ký và quá trình phát triển của nó trong thời kỳ đổi mới. Bên cạnh đó tác
giả còn khẳng định “trong văn xuôi thời kỳ Đổi mới, ngoài phóng sự và hồi ký, bút
ký, các thể ký khác xuất hiện với tần số khá ít ỏi. Điều đó có thể đƣợc cắt nghĩa bởi
ký sự chỉ thích ứng với bối cảnh chiến tranh” [151, tr.33]. Tác giả đã khẳng định:
“Dù viết về quá khứ, tái dựng “ký ức thời gian đã mất”, song giá trị và khả năng cảm
hóa của các tác phẩm hồi ký lại đƣợc xác lập bởi góc nhìn hiện tại, đáp ứng nhu cầu
nhận thức thực tại của nhà văn. Về phƣơng diện nội dung, Lý Hoài Thu chỉ ra: Bên
cạnh việc khai thác những chủ đề - đề tài mang tầm “vĩ mô”, tầm đất nƣớc, dân tộc
(hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc), các tác phẩm hồi ký thời kỳ đổi mới luôn bám sát cuộc sống “vĩ mô” với bao
ngổn ngang, bề bộn của “muôn mặt đời thƣờng”, của nhân tình thế thái. Song song
với dòng chảy lịch sử là dòng chảy văn chƣơng, là công cuộc “nhận đƣờng” và “lên
đƣờng” đầy khó khăn, thử thách; là những “nghi án” văn chƣơng, là chân dung văn
nghệ sĩ; là những số phận văn chƣơng trong quá khứ cũng nhƣ trong hiện tại hiện lên
rõ nét, trần trụi cùng với những trải nghiệm thấm thía, những suy tƣ sâu lắng về
nghiệp, về nghề. Tất cả đều có trong hồi ký thời kỳ đổi mới.
16


Năm 2006, trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 11, tác giả Đỗ Hải Ninh trong
bài “Ký trên hành trình đổi mới”, mục “Sự nở rộ của hồi ký” đã đi tìm căn nguyên để
lý giải hiện tƣợng thú vị trên. Tác giả chỉ ra nguyên nhân khách quan và chủ quan,
điều kiện lịch sử, xã hội và quá trình vận động nội tại của nền văn học dẫn đến sự nở
rộ của hồi ký Thời kì đổi mới. Văn học thời kì này tìm đến thể hồi ký là tìm một cách
tiếp cận hiện thực đáp ứng nhu cầu giãi bày của ngƣời viết, nhu cầu đƣợc hiểu, đƣợc
chiêm nghiệm quá khứ, đánh giá lại lịch sử. Lúc này, hiện thực đƣợc phản ánh không
chỉ là hiện thực bề mặt, mà còn là hiện thực chiều sâu, đầy tính phức tạp, bí ẩn của
con ngƣời. Tiếp đó, Đỗ Hải Ninh chỉ ra một số đặc điểm của hồi ký văn học Việt

Nam thời kỳ đổi mới ở cả phƣơng diện nội dung và nghệ thuật. Về phƣơng diện nội
dung, tác giả nhấn mạnh: hồi ký thời kì đổi mới quan tâm hơn tới sự chiêm nghiệm
lịch sử và số phận cá nhân trong lịch sử; đồng thời qua những trang viết các nhà văn
đã làm sống lại ký ức về thời đại của họ, những bức chân dung về bạn bè, đồng
nghiệp và cả bức chân dung tự hoạ về chính bản thân ngƣời viết. Về phƣơng diện
nghệ thuật, Đỗ Hải Ninh nhấn mạnh đến chất giễu nhại, giọng tự thú, tự vấn - một
trong những đặc trƣng riêng biệt - một thể nghiệm thành công của hồi ký thời kỳ đổi
mới [120, tr.14].
Năm 2008 Đỗ Hải Ninh trong bài viết “Những bƣớc chuyển của hồi ký thời kì
đổi mới” cũng có nhận định gần gũi với Lý Hoài Thu, tác giả đã chỉ ra những ƣu
điểm và sự thay đổi của hồi ký trong giai đoạn này. Cùng với đó, tác giả đã chỉ ra
một số nguyên nhân giúp hồi ký trong giai đoạn này có đƣợc bƣớc phát triển rực rỡ.
Ngoài ra, tác giả còn nhận định “Sự phát triển mạnh mẽ của hồi ký từ sau Đổi mới
xuất phát từ nhu cầu tự thân của nền văn học và đáp ứng những đòi hỏi của con
ngƣời trong xã hội hiện đại luôn mong muốn đƣợc tiếp cận sự thật, nhận thức quá
khứ, chiêm nghiệm cuộc sống. Những phƣơng thức tự sự khác nhau của ngƣời viết
hồi ký không chỉ làm phong phú cho thể loại mà còn vƣơn tới những kết tinh giàu
giá trị nghệ thuật của hồi ký giai đoạn này”[121, tr.79]. Về cơ bản, Đỗ Hải Ninh và
Lý Hoài Thu cùng tiếng nói chung khi chỉ ra sự đa dạng trong nội dung phản ánh của
hồi ký văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Riêng ở phƣơng diện nghệ thuật, mỗi tác
giả có những phát hiện khá thú vị. Nếu Đỗ Hải Ninh nhấn mạnh đến chất giễu nhại,
giọng tự thú, tự vấn trong hồi ký thời kỳ này thì Lý Hoài Thu chỉ ra sự đa dạng trong
giọng điệu trần thuật, dẫn đến sự “đa dạng hóa” trong kết cấu hồi ức tạo nên những
phong cách nghệ thuật không thể trộn lẫn [121]. Có thể nói, hai bài viết của hai tác
giả nữ Đỗ Hải Ninh và Lý Hoài Thu là những nhận xét xác đáng về thể hồi ký văn
học Việt Nam.
17


Năm 2013 trong công trình nghiên cứu Hồi ký trong văn học Việt Nam từ cách

mạng tháng 8 - 1945 đến nay của Ngô Thị Ngọc Diệp đã cho thấy vai trò của thể loại
hồi ký, sự vận động của hồi ký từ 1945 đến nay và những đóng góp của hồi ký vào
nền văn học dân tộc. Đặc biệt, tác giả cho rằng hồi ký giai đoạn này có xu hƣớng đan
xen, dung hợp thể loại khó phân định rạch ròi bản chất của thể loại.
1.2.3. Nghiên cứu tác giả, tác phẩm
Cụm bài này rất nhiều đƣợc đăng tải trên các báo và tạp chí cũng nhƣ trong các
công trình nghiên cứu, phổ biến nhất là trên báo Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, tạp chí Văn
nghệ quân đội, tạp chí Văn học, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, tạp chí Sông Hương,
… Các bài nghiên cứu, phê bình thƣờng tập trung vào một số tác giả đã thành danh,
tiêu biểu về hồi ký nhƣ Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Vũ Bằng, Ma Văn
Kháng, Anh Thơ, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Đặng Thị Hạnh, Bùi Ngọc Tấn… Những
bài viết này thƣờng xuất hiện cập nhật với tình hình sáng tác: từ những bài giới thiệu
tác phẩm đến những bài viết nhận diện sáng tác của từng tác giả, từng chặng đƣờng
sáng tác khẳng định những tìm tòi, đóng góp của ngƣời viết trên tiến trình đổi mới
văn học. Ngoài ra còn có nhiều luận văn, luận án lựa chọn một tác giả hồi ký làm đối
tƣợng nghiên cứu. Các tác giả công trình thƣờng triển khai luận án dƣới góc độ
nghiên cứu của tự sự học, thi pháp học, theo đó thƣờng đi vào các phƣơng diện nhƣ
đặc điểm thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu, điểm nhìn trần thuật- những phƣơng diện
chính yếu trong lý thuyết trần thuật, đặc điểm nghệ thuật của thể loại.
 Nguyên Hồng
Nghiên cứu về thể hồi ký và cách viết hồi ký của ông tác giả Nguyễn Đăng
Điệp, có bài viết “Đặc sắc hồi ký Nguyên Hồng”. Tác giả nhận thấy “Nguyên Hồng
có cách viết hồi ký của riêng ông. Nhà văn không hề tái hiện sự kiện theo kiểu biên
niên khô cứng mà trên cái nền sự kiện, biến cố, ông tập trung vào những điểm chính
yếu, sinh động nhất để dựng lại linh khí thời quá vãng. Cái mà Nguyên Hồng quan
tâm hơn cả là làm sao để thể hiện một cách thật chính xác tâm trạng mình trong
những thời khắc khó quên ấy. Hồi ký của ông, vì thế, có thể coi là hồi ký tâm trạng”
[32, tr.231]. Nghiên cứu về tác phẩm Những ngày thơ ấu, có những nhận xét của Vũ
Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại, Phan Cự Đệ trong giới thiệu Tuyển tập
Nguyên Hồng, Hà Minh Đức trong bài Nguyên Hồng - Nhà văn của những khát vọng

(Tạp chí Văn học số 9/2001)… Các nhà nghiên cứu nói trên đã có sự thống nhất
trong những nhận định cơ bản về đặc điểm nội dung và nghệ thuật của cuốn hồi ký
Những ngày thơ ấu. Bên cạnh đó, ra đời những luận văn cao học, luận án tiến sĩ ngữ
18


văn nghiên cứu về Nguyên Hồng cũng đã đề cập đến cuốn hồi ký Những ngày thơ ấu
ở những mức độ khác nhau. Trần Thị Sâm chú ý bút pháp thể hiện: “ảo hóa và siêu
thực” vừa mang màu sắc lãng mạn, vừa nhƣ có một hình ảnh của thế giới quan tôn
giáo” [130, tr.56].
 Tô Hoài
Tô Hoài là một gƣơng mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông là
nhà văn lớn, có đóng góp về nhiều thể loại văn học khác nhau trong đó đặc sắc nhất
phải kể đến thể loại hồi ký. Từ khi xuất hiện, các tác phẩm hồi ký của ông đã thu hút
giới nghiên cứu tìm hiểu và quan tâm. Chúng tôi đã tập hợp đƣợc một số lƣợng
không nhỏ những bài chuyên luận, phê bình ở những mức độ khác nhau về phong
cách nghệ thuật, tác phẩm, con ngƣời tác giả. Những nhà phê bình cảm mến văn
chƣơng Tô Hoài nhƣ: Trần Hữu Tá, Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà
Minh Đức, Vân Thanh, Vƣơng Trí Nhàn, Nguyễn Đăng Điệp… đã có những đánh
giá tinh tế, khách quan về hồi ký của ông.
Theo Trần Hữu Tá, trong cuốn sách Tô Hoài một đời văn phong phú và độc
đáo, đánh giá nét đặc biệt ở tài năng của Tô Hoài là ông viết hồi ký khi còn rất trẻ và
khẳng định đƣợc sự thành công ở lĩnh vực này: “Về mặt thể loại, Cỏ dại có hai điều
đáng để suy nghĩ. Một là trong văn chƣơng, vô số nhà viết hồi ký, nhƣng ở tuổi hai
mƣơi ít ai đã thành công nhƣ Tô Hoài… Hai là chùm tác phẩm Cỏ dại, Cát bụi chân
ai, Chiều chiều đã khẳng định ông là cây bút hồi ký có hạng” [133, tr.72]. Hà Minh
Đức trong “Lời giới thiệu” Tuyển tập Tô Hoài đã chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ
thuật viết tự truyện, hồi ký của Tô Hoài là nghệ thuật thể hiện cái tôi - tác giả: “Hồi
ký và tự truyện của ông kết hợp đƣợc giọng kể tự nhiên, xác thực với ý thức phân
tích tỉnh táo các hiện tƣợng và phần tâm sự của tác giả” [39]. Phong Lê trong công

trình Tô Hoài, sáu mươi năm viết, đã cho rằng đặc sắc của thể loại hồi ký, tự truyện
Tô Hoài chính là nghệ thuật theo dòng hồi ức: “Tô Hoài không chỉ là ngƣời có sức
nhớ kỹ, nhớ dai mà hơn thế, những cái sống, cái nhớ của ông luôn dƣ đầy, là luôn
luôn có mặt trong hiện tại. Một quá khứ luôn luôn đƣợc dồn về hiện tại, đƣợc hiện tại
hóa - nhƣng vẫn trong trang phục của quá khứ [93, tr.43]. Chính sự gắn bó, trân
trọng đối với con ngƣời và những sự kiện đã trải qua tạo nên sức mạnh hiện tại hóa
quá khứ nhƣ vậy.
Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Chân dung và phong cách, có những ý kiến
đánh giá rất sắc sảo, sát hợp về văn chƣơng Tô Hoài, đặc biệt mảng Tự truyện, hồi
ký. Ông khẳng định “Hồi ký, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trƣờng nhất của Tô
19


×