Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới ,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.12 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*******

NGUYỄN QUỐC THẮNG
KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ
NĂNG KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT
NAM DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA THẾ GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*******

NGUYỄN QUỐC THẮNG
KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ
NĂNG KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA THẾ GIỚI
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH –NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ PHAN THỊ DIỆU THẢO

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013



i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự hỗ trợ từ
Giảng viên hướng dẫn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung
thực vả chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Quốc Thắng


ii

LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ từ rất nhiều
người.
Trước hết, tôi xin cảm ơn Giảng viên hướng dẫn của tôi, Phó Giáo Sư - Tiến
Sĩ Lê Phan Thị Diệu Thảo, đã hướng dẫn tận tình và cho tôi những nhận xét chân
thành, khuyến khích tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Bên cạnh đó là lời cám ơn chân thành đến Quý thầy, cô những người đã tận
tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt những năm cao học vừa qua. Và đặc biệt
là bạn Lương Duy Quang, Thạc sỹ chương trình Việt Nam-Hà Lan (VietnamNetherlands Program), đã hỗ trợ tích cực cho tôi những tài liệu rất hữu ích trong quá
trình hoàn thành luận văn.
Và cuối cùng tôi chân thành cám ơn Thầy Nguyễn Từ Hàn, Trưởng phòng
Tài chính – Kế toán, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, các anh chị tại
đơn vị, đã hỗ trợ và khuyến khích tôi trong quá trình học và hoàn thành luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2013
Tác giả


Nguyễn Quốc Thắng


iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHTG

Bảo hiểm tiền gửi

IADI (Internation Association of Deposit Insurance ) tổ chức nghiên
cứu về bảo hiểm tiền gửi quốc tế
IFS (international Financial Statistic)

Các chỉ số tài chính quốc tế

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

NH

Ngân hàng

NHNN

Ngân hàng nhà nước

KHNH


khủng hoảng ngân hàng

USD

Đồng đôla Mỹ

VND

Việt Nam đồng

WDI (World-development-indicators)

Các chỉ số thế giới

WB (World Bank)

Ngân hàng thế giới


iv

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Kết quả hồi quy các nhân tố tác động đến khủng hoảng ngân hàng tại các
nước đang phát triển, loại bỏ các quan sát ngay sau các năm kết thúc khủng hoảng
…………………………………………………………………………………….. 36
Bảng 2: Tỷ giá hối đoái bình quân năm (1996-1997) khu vực ĐNÁ …………….44
Bảng 3: Tình hình thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính khu vực
Đông Nam Á(01/04/1997-31/03/1998) ………………………..…………………..44
Bảng 4: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp năm 1997 tại khu vực ĐNÁ

…………………………………………………………………………………...…45
Bảng 5: Tổng hợp số liệu nghiên cứu trường hợp của Thái Lan và Uruguay (giai
đoạn 1996-2003) ………………………………………………………………… 48
Bảng 6: So sánh vốn điều lệ và Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng lớn tại Việt Nam
(tháng 05/2013) ……………………………………………………………..……..50
Bảng 7: Quy mô vốn của các NH hàng đầu khu vực ĐNÁ ………………………51
Bảng 8: Kết quả kiểm định các nhân tố tác động đến xác suất khủng hoảng ngân
hàng tại Việt Nam (giai đoạn 1996-2011) …………………………………………59


v

DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Đường cong Logit ……………………………………………………......23
Hình 2: Tính nghiêm trọng của khủng hoảng ngân hàng ……………………….. 56

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng tại Thái Lan và Uruguay giai
đoạn 1996-2003 ……………………………………………………………………47
Biểu đồ 2: Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng
tại Việt Nam ……………………………………………………………………….60


vi

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………….…….. 1
CHƢƠNG 1: LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG NGÂN
HÀNG TRÊN THẾ GIỚI
1.1 Lý thuyết tổng quan .................……………………………………….4

1.1.1

Từ khóa chính ……………………………..…………………….4

1.1.2

Lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng ….………………………. 6

1.2 Nghiên cứu thực nghiệm …………………………………...…….......13
1.3 Tóm tắt chƣơng 1 ………………………………………………..……18
CHƢƠNG 2: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ THU THẬP DỮ LIỆU
2.1 Lựa chọn mô hình nghiên cứu ……………………………………… 20
2.2 Lý thuyết mô hình và mô hình chi tiết ……………………………… 23
2.2.1

Lý thuyết mô hình ………………………….………..…………. 23

2.2.2

Mô hình chi tiết …………………….……………………….…...24

2.2.2.1

Biến Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (Growth) ………………….. .24

2.2.2.2

Biến lãi suất thực (real interest) …………………….……… 25

2.2.2.3


Biến tỷ giá hối đoái (exchange rate) ……………………..… 25

2.2.2.4

Biến lạm phát (inflation) ………………………….………....26

2.2.2.5

Biến tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (terms of trade) ……26

2.2.2.6

Biến tấn công tiền tệ (M2/Reserve) ……………………..….. 27

2.2.2.7

Biến bảo hiểm tiền gửi (deposit) …………………………… 27

2.2.2.8

Biến tự do hóa tài chính (credit) ……………………………. 28

2.3 Ƣớc lƣợng và kiểm định mô hình đề nghị ………………………….. 29
2.4 Nguồn dữ liệu và trích lọc dữ liệu….………………………………....31
2.5 Kết quả hồi quy và kiểm định các giả thuyết ……………………… 32
2.5.1

Xây dựng mô hình ……………………………..……….……… 32


2.5.2

Ý nghĩa của các biến giải thích …….………………………….. 39


vii

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM
KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
DỰA TRÊN KINH NGHIỆM THẾ GIỚI
3.1 Khủng hoảng Thái Lan ………………………………………………43
3.2 Khủng hoảng tại Uruguay …………………………………………..45
3.3 Áp dụng mô hình nghiên cứu trong các trƣờng hợp tại Thái Lan và
Uruguay ………………………………………………………………….. 46
3.4 Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng
tại Việt Nam ……………………………………………………………….49
3.4.1

Thực trạng hệ thống ngân hàng tại Việt Nam ….……………….49

3.4.2

Những thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam……….52

3.4.3

Các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng của Ngân hàng nhà nước

trong thời gian qua ………………………………………………………… 54
3.4.4


Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân

hàng và sự cần thiết của việc xây dựng mô hình cảnh báo sớm ………..… 55
3.4.5

Xây dựng mô hình ……..………………………………………. 57

CHƢƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Kết luận ………………………………………………………………..61
4.2 Kiến nghị ………………………………………………………………63
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………….68
Phụ lục ……………………………………………………………………………..70


viii

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Đề tài: ”Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng
ngân hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới” sẽ gồm bốn chương:
Chương 1, trong chương này tôi ưu tiên tập trung làm rõ định nghĩa về khủng
hoảng ngân hàng. Kế đến là đề cập đến các khung lý thuyết khác nhau vể khủng
hoảng ngân hàng từ đó có được các giả thuyết về việc làm thế nào các yếu tố quyết
định ảnh hưởng đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng. Bên cạnh đó là xem
xét các nghiên cứu thực nghiệm về khủng hoảng ngân hàng của các nhà nghiên cứu
trước đây, nhằm giúp người đọc hiểu các nhà nghiên cứu khác đã tiếp cận vấn đề
nghiên cứu này như thế nào, những số liệu đã thu thập được cũng như các mô hình
và phương pháp thống kê mà họ đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
Chương 2, Kinh nghiệm xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân
hàng tại một số quốc gia trên thế giới. Các giả thuyết thể hiện mối liên hệ giữa

khủng hoảng ngân hàng và các yếu tố kinh tế vĩ mô được đề cập và thảo luận trong
lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng. Trong chương này, trên cơ sở xem xét lại các
nghiên cứu thực nghiệm về khủng hoảng ngân hàng trên thế giới, tiếp theo đề xuất
mô hình phù hợp, thu thập dữ liệu, phương pháp thống kê và các phần có liên quan
khác nhằm làm rõ các câu hỏi nghiên cứu. Chương này sẽ phác thảo và sắp xếp
thành 3 phần có liên quan: lựa chọn mô hình nghiên cứu, định rõ mô hình và nguồn
thu thập dữ liệu.
Chương 3, với mục tiêu xây dựng hệ thống cảnh báo sớm cho hệ thống ngân
hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của Thái Lan và Uruguay. Đề tài sử dụng
mô hình tối ưu trong nghiên cứu thực nghiệm khủng hoảng hệ thống ngân hàng tại
Thái Lan và Uruguay. Từ đó, bài viết rút ra một số kinh nghiệm trong việc xây dựng
mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng. Bài viết phân tích thực trạng của hệ thống
ngân hàng của Việt Nam cũng như sự cần thiết của việc xây dựng mô hình cảnh báo
sớm khủng hoảng ngân hàng.


ix

Chương 4, Kết luận và kiến nghị một số giải pháp trong việc xây dựng mô
hình cảnh báo sớm các tác nhân tác động đến hoạt động của hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục và phòng ngừa các tác động xấu
đến hệ thống ngân hàng Việt Nam


- 1-

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra ngày càng thường xuyên hơn với
hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn. Từ cuối những năm 1970 đến 2007 đã có 124

cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng. Trong giai đoạn này các cuộc khủng hoảng
ngân hàng vào những năm 1980 và 1990 được coi là trầm trọng nhất so với bất kỳ
giai đoạn nào trước đây. Theo thống kê của của tổ chức IMF, đã có khoảng 130
quốc gia trải qua khủng hoảng ngân hàng trong giai đoạn từ năm 1980-1996. Khủng
hoảng ngân hàng xảy ra có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống thanh toán, suy
giảm mạnh mẽ lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thu hẹp sản lượng
đầu ra của khu vực sản xuất, tạo sức ép nặng nề về mặt chính trị.
Theo sau các cuộc khủng hoảng gần đây, vấn đề những yếu tố nào quyết định
(ảnh hưởng) đến các cuộc khủng hoảng ngân hàng đã và đang là đề tài nóng bỏng
cho các nhà nghiên cứu kinh tế tại cả các nước đã và đang phát triển trên thế giới.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm ra giải pháp, qua đó giúp cho các
nhà hoạch định chính sách có thêm cơ sở trong việc ban hành chính sách, bên cạnh
đó họ có thể xây dựng hệ thống cảnh báo sớm cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, việc
nắm rõ các yếu tố quyết định của cuộc khủng hoảng ngân hàng là một việc không
thực sự đơn giản. Ngày nay, nền kinh tế của một quốc gia có sự ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau, do đó, sự lan truyền rộng của các cuộc khủng hoảng, đặc biệt ở lĩnh vực
ngân hàng, vừa rõ ràng vừa khó nắm bắt, chính vì vậy, mới thấy được vai trò quan
trò quan trọng của việc nghiên cứu về các yếu tố quyết định của các cuộc khủng
hoảng. Mặc dù đây không phải là một vấn đề mới, nhưng cũng là một đề tài xứng
đáng để quan tâm.
Trong bài nghiên cứu này, tôi sẽ tập trung nghiên cứu các nguyên nhân tác
động đến các cuộc khủng hoảng ngân hàng tại các nước đang phát triển. Xây dựng
mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng tại các nước đang phát triển, áp
dụng mô hình này vào nghiên cứu tại các quốc gia: Thái Lan và Uruguay trong giai


- 2-

đoạn từ 1996 đến 2003. Tiếp đó, “Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng
khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới”

2. Mục đích nghiên cứu, bài nghiên cứu nhằm
Xác định các yếu tố ảnh hưởng (tác động) đến các cuộc khủng hoảng

-

ngân hàng trên thế giới,
Kiểm định các nhân tố tác động đến xác suất xảy ra khủng hoảng ngân

-

hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Các đề xuất chính sách nhằm ngăn chặn các cuộc khủng hoảng ngân

-

hàng (có thể xảy ra) ở Việt Nam,
3. Câu hỏi nghiên cứu
-

Các yếu tố chính nào tác động đến các cuộc khủng hoảng ngân hàng?

-

Các nhân tố nào có thể sẽ là nhân tố chính “góp phần” gây ra khủng

hoảng ngân hàng tại Việt Nam (nếu có)?
-

Xác suất hệ thống ngân hàng Việt Nam rơi vào khủng hoảng vào năm


2008 là cao hay thấp ?
-

Ảnh hưởng của các yếu tố đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân

hàng tại Việt Nam như thế nào ?
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài có kế thừa và sử dụng kết quả nghiên cứu của các đề tài về mô hình
cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng nước ngoài để làm cơ sở lý luận và tham
khảo
Do khủng hoảng ngân hàng chịu tác động của nhiều yếu tố tổng hợp bên
trong và bên ngoài hệ thống ngân hàng, phương pháp phân tích được sử dụng, đồng
thời kết hợp thu thập dữ liệu, phân tích tình huống để so sánh, đánh giá hiệu quả
mô hình nghiên cứu.
Bài viết sử dụng mô hình logit và phần mềm Eviews trong việc phân tích các
số liệu cũng như xem xét các nhân tố chính tác động đến khả năng xảy ra khủng


- 3-

hoảng ngân hàng tại các quốc gia đang phát triển và trong các trường hợp cụ thể của
Thái Lan, Uruguay và Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành Tài Chính, tập trung chuyên sâu vào
những vấn đề về khủng hoảng ngân hàng, đề tài chủ yếu nghiên cứu hệ thống ngân
hàng tại Thái Lan, Uruguay, Việt Nam. Do giới hạn dữ liệu, phạm vi nghiên cứu
được thu hẹp ở các nước đang phát triển trong giai đoạn 1974-2010.
6. Cấu trúc bài nghiên cứu, bài viết bao gồm
Chƣơng 1: Lý thuyết tổng quan về khủng hoảng ngân hàng và xây dựng
mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng trên thế giới.

Chƣơng 2: Mô hình nghiên cứu và thu thập dữ liệu
Chƣơng 3: Giải pháp xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng
ngân hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia là Thái Lan và
Uruguay
Chƣơng 4: Kết luận và đề xuất kiến nghị
7. Ý nghĩa công trình nghiên cứu
Đề tài này giúp cho chúng ta có một cái nhìn sâu hơn về khủng hoảng ngân
hàng tại các nước đang phát triển thông qua các lý thuyết về khủng hoảng ngân
hàng. Về mặt lý luận, đề tài này tập trung nghiên cứu các nguyên nhân chính có khả
năng tác động đến “sự an toàn” của hệ thống ngân hàng của một số quốc gia đang
phát triển trên thế giới. Về mặt thực tiễn, đề tài này hy vọng sẽ đóng góp một công
cụ cảnh báo sớm khủng hoảng hệ thống ngân hàng cho Việt Nam (mặc dù rất may
mắn là điều này được các chuyên gia đánh giá là chưa từng xảy ra đối với Việt
Nam), giúp cho các nhà điều hành chính sách vĩ mô có một cái nhìn rõ hơn về khả
năng dễ tổn thương của các bộ phận trong thị trường tài chính để từ đó có các giải
pháp điều chỉnh chính sách thích hợp giúp cho nền kinh tế phát triển tốt. Cuối cùng,
tôi cũng đề xuất những chính sách cho hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển ổn
định và bền vững trong cả ngắn hạn và dài hạn


- 4-

CHƢƠNG 1: LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG
NGÂN HÀNG TRÊN THẾ GIỚI
Trong chương này tôi ưu tiên tập trung làm rõ định nghĩa về khủng hoảng
ngân hàng. Kế đến là đề cập đến các khung lý thuyết khác nhau về khủng hoảng
ngân hàng, từ đó có được các giả thuyết về việc làm thế nào các yếu tố quyết định
ảnh hưởng đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng. Bên cạnh đó, chương này
xem xét các nghiên cứu thực nghiệm về khủng hoảng ngân hàng của các nhà nghiên
cứu trước đây, nhằm giúp người đọc hiểu các nhà nghiên cứu khác đã tiếp cận vấn

đề nghiên cứu này như thế nào, những số liệu đã thu thập được cũng như các mô
hình và phương pháp thống kê mà họ đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
1.1 Lý thuyết tổng quan
1.1.1 Khái niệm: Khủng hoảng ngân hàng
Tác động tiêu cực của các cuộc khủng hoảng ngân hàng đến sự phát triển
kinh tế của một quốc gia là rất lớn và chính phủ các nước tiêu tốn rất nhiều chi phí
cho việc phục hồi nền kinh tế. Mặc dù các nền kinh tế có thể có các kinh nghiệm
khác nhau trong việc ứng phó đối với khủng hoảng, nhưng có một quy luật chung là
khi các tác động xấu ảnh hưởng đến thị trường tài chính, có khả năng làm sụp đổ
nền kinh tế, chính phủ buộc phải nỗ lực can thiệp. Vài thập kỷ trước, các nhà kinh tế
học theo trường phái trọng tiền, khởi xướng là Friedman và Schwartz (1963), đã
gắn các cuộc khủng hoảng tài chính với khủng hoảng ngân hàng. Họ đã khai thác một
khái niệm hẹp về khủng hoảng tài chính và cho rằng một cuộc khủng hoảng tài chính
thường gắn liền với một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Khi sự ổn định của hệ thống
ngân hàng bị đe dọa, hệ thống tài chính đó có thể bị sụp đổ nếu thiếu sự can thiệp của
ngân hàng trung ương. Sự đổ vỡ của một tập đoàn tài chính lớn thường là yếu tố thúc
đẩy hiện tượng rút tiền hàng loạt tại các ngân hàng. Người gửi tiền thường hoảng loạn
vì không phân biệt được ngân hàng đang hoạt động tốt và ngân hàng có vấn đề, vì vậy
họ đổ xô rút hết tiền gửi của mình tại các ngân hàng. Khoản dự trữ tiền mặt của các
ngân hàng vốn đã chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản càng trở nên “muối bỏ biển”


- 5-

khi xuất hiện đột biến rút tiền gửi. Nếu không có sự can thiệp của ngân hàng trung
ương, thường thông qua hoạt động hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng có khả năng
thanh toán nhưng mất khả năng thanh khoản, thì ngay cả những ngân hàng đang hoạt
động tốt cũng có thể đổ vỡ.
Đổi mới tài chính và gia tăng hội nhập thị trường tài chính toàn cầu đã làm
xuất hiện một số yếu tố mới và những quan ngại mới. Do vậy, mặc dù có vài điểm

tương đồng, những cuộc khủng hoảng trong những năm gần đây đã khác so với các
cuộc khủng hoảng trước đây trên nhiều phương diện. Đặc biệt, hệ lụy và sự lan
truyền rộng của các cuộc khủng hoảng dường như đã trở nên vừa rõ ràng vừa khó
nắm bắt. Chính vì vậy, ngày nay, khủng hoảng ngân hàng chỉ còn được đề cập đến
như một dạng của khủng hoảng tài chính, có thể xảy ra đơn lẻ hoặc xảy ra đồng thời
cùng với khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng nợ.
Theo Ergungor và Thomson (2005), cho rằng nếu vốn của hệ thống ngân
hàng trong một nước bị xói mòn và chi phí chống khủng hoảng quá cao thì xác suất
xảy ra khủng hoảng ngân hàng là rất cao. Khi một cú sốc trong hệ thống tài chính có
thể lan truyền thành vấn đề trong cả hệ thống kinh tế, đồng thời các nhà hoạch định
chính sách tiền tệ bắt đầu có những hành động ứng phó, hệ thống ngân hàng có thể
xem như là khủng hoảng. Hay nói cách khác, khủng hoảng ngân hàng có thể được
xác định thông qua việc xem xét các hoạt động của ngân hàng nhà nước. Kaminsky
và Reinhart (1996) chia sẻ quan điểm này trong nghiên cứu của mình thông qua việc
quan sát các chính sách của ngân hàng trung ương trong thời kỳ khủng hoảng. Theo
quan điểm của hai tác giả này, khủng hoảng ngân hàng liên quan mật thiết đến các
hoạt động của ngân hàng nhà nước như: việc người gửi rút tiền gửi tăng đột biến, có
thể xuất hiện các hoạt động: đóng cửa, sáp nhập, mua lại, hoặc trợ giúp của chính
phủ đối với một hoặc nhiều tổ chức tài chính (như trường hợp của Venezuela năm
1993), còn nếu không có việc rút tiền gửi đột biến, nhưng hành động đóng cửa, sáp
nhập, mua lại, hoặc trợ giúp của chính phủ với quy mô lớn đối với một tổ chức tài
chính quan trọng (hoặc một nhóm các tổ chức), cũng là sự đánh dấu khởi đầu của
một chuỗi các kết quả tương tự đối với các tổ chức tài chính khác.


- 6-

Trong bài nghiên cứu vào năm 1998 của 2 tác giả Demirguc-Kunt và
Detragrache (1998) họ đã đề xuất rằng một giai đoạn được coi là khủng hoảng
ngân hàng khi: Các khoản nợ xấu chiếm ít nhất 10% tổng tài sản của toàn hệ thống

ngân hàng, qua đó chi phí để giải cứu các ngân hàng lớn hơn 2% GDP và đi kèm
theo đó là nhiều vấn đề khó khăn của hệ thống ngân hàng dẫn đến cần được quốc
hữu hóa trên diện rộng. Bài viết sử dụng định nghĩa về khủng hoảng ngân hàng của
2 tác giả Ergungor và Thomson (2005)
1.1.2 Lý thuyết khủng hoảng ngân hàng
Rất nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề này trên thế giới đã cung cấp
cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc cũng như qua đó giải thích hợp lý các vấn đề bên
trong của lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, điều thú vị là rất khó hy vọng có thể tìm
được lý thuyết nghiên cứu nào đủ sức giải thích đầy đủ các vấn đề này. Vì lý do đó,
để có thể nắm bắt toàn cảnh của các cuộc khủng hoảng ngân hàng, cần phải xem xét
các nghiên cứu thực nghiệm khác nhau. Trong bài viết này, tôi sẽ giới thiệu các
khung lý thuyết chính về khủng hoảng ngân hàng qua các bài nghiên cứu của
Ergungor và Thomson (2005) và Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) bởi đây là
các bài nghiên cứu cập nhật và dễ hiểu. Tôi bắt đầu bằng việc xem xét khung lý
thuyết của các tác giả thuộc trường phái cổ điển, kế tiếp theo là quan điểm của
Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a), và cuối cùng là quan điểm của Ergungor
và Thomson (2005)
Theo quan điểm cổ điển, khủng hoảng hệ thống ngân hàng là kết quả của
một chuỗi các sự kiện bất ổn của tình hình kinh tế vĩ mô. Theo quan điểm này, tình
trạng mất khả năng chi trả tại một ngân hàng có thể là nguyên nhân khiến người gửi
đồng loạt rút tiền tại các ngân hàng khác trong hệ thống tài chính. Một lý giải khác
cho hiện tượng này cho rằng nguyên nhân do kết quả của sự kích động tâm lý của
đám đông (Kindleberger - 1978, Diamond, Dybvid - 1983). Các lý thuyết này cho
rằng tính không thanh khoản của tài sản do ngân hàng nắm giữ sẽ gây nên khả năng
hệ thống ngân hàng dễ bị tổn thương bởi việc khách hàng rút tiền đồng loạt. Lý


- 7-

thuyết này cũng giải thích hiện tượng rút tiền đồng loạt xuất phát từ yếu tố tâm lý

bầy đàn, các cá nhân và tổ chức tham gia thị trường hành động theo xu hướng chung
của thị trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống tài chính, thậm chí tác động
đến cả các ngân hàng đang hoạt động tốt. Nếu không có được sự bảo lãnh hoặc đảm
bảo từ các nhà hoạch định chính sách tiền tệ, việc mất khả năng thanh toán của một
ngân hàng sẽ lan rộng ra toàn hệ thống ngân hàng và dưới áp lực thanh khoản có thể
dẫn đến sự sụp đỗ của cả hệ thống ngân hàng. Cuộc tháo chạy rút vốn khỏi hệ thống
ngân hàng của những người gửi tiền được thể hiện theo các dấu hiệu sau: đầu tiên là
việc không có đầy đủ các thông tin (thông tin bất cân xứng) của những người gửi
tiền làm cho họ không thể phân biệt các ngân hàng đang hoạt động tốt, do đó, một
cuộc rút vốn tại các ngân hàng đang hoạt động kém qua đó có thể ảnh hưởng dây
chuyền đến các ngân hàng khác đang hoạt động bình thường, tiếp theo là việc đồng
loạt rút vốn của khách hàng buộc ngân hàng phải chi trả cho tới khi buộc phải tuyên
bố phá sản. Điều kiện sau nữa là do các nhà quản trị ngân hàng thiếu các kế hoạch
để phòng ngừa trong việc cung cấp thanh khoản khi ngân hàng đối mặt với việc rút
vốn hàng loạt. Theo quan điểm này, khủng hoảng hệ thống ngân hàng xuất phát từ
phản ứng của khách hàng trong trường hợp có những thông tin xấu, tác động đến
tâm lý của người gửi. Hai tác giả Ergungor và Thomson (2005) cũng đồng ý với các
quan điểm này và cho rằng quan điểm cổ điển giải thích tương đối hợp lý các vấn đề
bên trong của cuộc khủng hoảng, nhưng lý thuyết này chưa thể giải thích được
nguồn gốc của các cuộc khủng hoảng ngân hàng trong thời gian 20 năm trở lại đây.
Đồng thời tại các nước đang phát triển, những cú sốc do lãi suất, tỷ giá
hối đoái và giá cổ phiếu hoặc tăng trưởng chậm và suy thoái cũng có thể góp phần
tạo ra khủng hoảng của cho hệ thống ngân hàng. Sự sụp đổ của một ngân hàng có
thể gây nên những hạn chế về thanh khoản trong cả hệ thống ngân hàng, từ đó có
thể gây nên những hạn chế trong việc thanh toán cho khách hàng của các ngân hàng
khác, qua đó dẫn đến sự suy sụp của cả hệ thống ngân hàng.
Các yếu tố vi mô cũng có thể trở thành những yếu tố quan trọng gây nên
sự suy sụp của hệ thống ngân hàng, cụ thể là chất lượng của toàn bộ khuôn khổ thể



- 8-

chế của đất nước. Qui chế thị trường yếu kém do những yếu tố về hành vi, công bố
thông tin hạn chế, quản trị công ty yếu kém, bảo hiểm tiền gửi quan mức hoặc hệ
thống giám sát yếu kém có thể quyết định tới mức độ lệch lạc của thông tin, chất
lượng quản lý ngân hàng và tạo ra những yếu tố dễ bị tổn thương và cuối cùng là
gây nên khủng hoảng hệ thống ngân hàng.
Lý thuyết chỉ ra rằng ngân hàng với vai trò trung gian thanh toán và quản
lý các phương tiện thanh toán, tập trung và cung cấp vốn cho nền kinh tế, giữ vai trò
là trung gian tài chính là các tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng truyền thống thường dựa vào sự chênh
lệch giữa các kỳ hạn, có nghĩa là, ngân hàng huy động tiền gửi ngắn hạn và cho vay
dài hạn. Phần lớn lượng tiền gửi huy động sẽ được đem đi cho vay đầu tư lấy lãi vào
những dự án dài hạn, với khả năng thanh khoản thấp [Heffernan, 2005, tr.105].
Trong trạng thái kinh doanh thông thường, khi người gửi tiền tin tưởng vào hệ thống
ngân hàng, khủng hoảng ngân hàng sẽ không xuất hiện. Nhưng khi niềm tin bị “lung
lay”, ví dụ khi một hoặc nhiều ngân hàng gặp khó khăn về vấn đề thanh toán do các
khoản nợ xấu gia tăng, đột biến rút tiền gửi có thể xảy ra. Khủng hoảng thanh khoản
có thể bùng nổ và làm cho hiệu quả của hệ thống ngân hàng giảm. Tuy nhiên, vấn
đề không chỉ dừng lại ở đây. Việc bán gấp tài sản để đối phó với việc rút tiền gửi
của những ngân hàng hoạt động tốt khi nhu cầu rút tiền gửi tăng đã làm giảm giá tài
sản, nghĩa là giảm giá trị của tài sản ngân hàng. Hậu quả, vốn cơ sở của ngân hàng
giảm và dẫn tới những vấn đề về thanh toán. Vấn đề thanh toán của những ngân
hàng này xảy ra tới cao trào có thể thổi bùng thành một cuộc khủng hoảng thanh
khoản mới, cuối cùng sẽ là khủng hoảng ngân hàng. Theo lý thuyết đã được học thì
các ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro tín dụng bằng nhiều cách bao gồm cả đa
dạng hóa danh mục đầu tư, họ có thể cho vay đối với các lĩnh vực rủi ro khác nhau,
hoặc đòi hỏi tài sản thế chấp vay nhưng trên thực tế, đa dạng hóa danh mục đầu tư

cho vay là không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng cho các ngân hàng, hơn nữa


- 9-

việc quản lý tài sản thế chấp khi cho vay là không hiệu quả do việc khó khăn trong
đánh giá giá trị thực của nó và tốn kém nguồn lực để theo dõi và thường phải chịu
sự biến động. Vì vậy, rủi ro tín dụng luôn luôn tồn tại bất chấp nỗ lực quản lý của
ngân hàng. Lý thuyết này nêu ra bất kỳ cú sốc bất lợi nào ảnh hưởng đến người đi
vay đều có mối quan hệ với khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng.
Yếu tố khác dẫn đến việc làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng đó
là tỷ suất lợi nhuận không phù hợp với chi phí huy động vốn. Phần lớn các ngân
hàng huy động tiền gửi ngắn hạn và cho vay dài hạn. Lượng lớn tiền gửi huy động
sẽ được đem đi cho vay đầu tư lấy lãi vào những dự án dài hạn, với khả năng thanh
khoản thấp. Các ngân hàng này thường kết hợp hoạt động của ngân hàng truyền
thống và ngân hàng đầu tư và bị lôi cuốn hoàn toàn vào hoạt động của thị trường tài
chính. Họ thường thu hút hầu hết số vốn của họ bằng cách bán những chứng khoán
nợ ngắn hạn có giá trị cố định (các khoản tiền gửi). Trong số đó rất nhiều khoản tiền
gửi bao gồm quyền đòi hoàn trả của người gửi tiền theo nguyên tắc ngang giá vào
bất kỳ thời điểm nào (có tính thanh khoản cao). Ngân hàng lại đầu tư số vốn họ huy
động được vào các loại chứng khoán, thường không có giá trị cố định và không bao
gồm các quyền đòi hoàn trả của ngân hàng theo nguyên tắc ngang giá vào bất kỳ
thời điểm nào (tính thanh khoản của các khoản đầu tư này không cao). Như vậy,
ngân hàng phải gánh chịu rủi ro khi giá trị thị trường của các tài sản của họ có thể
giảm xuống bằng hoặc thấp hơn giá trị các khoản nợ tiền gửi của ngân hàng đối với
người gửi tiền do những thay đổi không mong đợi từ tỉ lệ lãi suất, vỡ nợ, tỉ giá hối
đoái, thay đổi về quy chế, những sai phạm …Do hầu hết là các khoản đầu tư dài
hạn, nên khi có sự gia tăng của lãi suất tiền gửi, ngân hàng buộc phải tăng chi phí sử
dụng vốn, trong khi các khoản cho vay từ các hợp đồng dài hạn thường cố định và
rất khó thay đổi. Và khi ngân hàng yêu cầu tỷ lệ tiền vay cao hơn sẽ tác động tiêu

cực đến khách hàng, lúc này khách hàng khó tiếp cận nguồn vốn vay, đồng thời các
khoản nợ xấu gia tăng. Việc gia tăng lãi suất trong ngắn hạn có thể xuất phát từ việc
các nhà hoạch định chính sách tiền tệ trong nỗ lực nhằm thắc chặt tiền tệ, hay chống


- 10-

lại các hoạt động đầu cơ hay từ các hoạt động nhằm đẩy mạnh tự do tài chính của
chính phủ.
Ngoài ra tính an toàn của hệ thống ngân hàng còn phụ thuộc vào các nguy
cơ tiềm ẩn từ tiền gửi nước ngoài, yếu tố này cũng có các tác động tiêu cực đến các
hoạt động của ngân hàng. Tự do hóa tài chính mang lại không ít lợi ích, xét về
phương diện dài hạn, đối với những nước đang phát triển. Nhưng những cuộc cải
cách như vậy cũng sẽ đưa đến những rủi ro mới cho hệ thống ngân hàng – có thể
tăng nguy cơ của khủng hoảng ngân hàng. Trong khi ngân hàng vay ngoại tệ cho
các khoản vay trong nước, đồng thời NHNN thực hiện việc phá giá mạnh tỷ giá hối
đoái cũng có thể làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Trong trường hợp này các ngân
hàng chỉ có thể loại bỏ rủi ro tỷ giá bằng việc chủ yếu huy động tiền gửi tiết kiệm
trong nước. Tuy nhiên không có hy vọng rằng nguy cơ này biến mất hoàn toàn, do
trong nền kinh tế mở, rủi ro tỷ giá có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động
của ngân hàng. Vấn đề là các nhà quản trị ngân hàng phải kịp thời nắm bắt, phân
tích nguyên nhân biến động tỷ giá, làm tốt công tác dự báo tỷ giá, trên cơ sở đó lựa
chọn các giải pháp quản lý rủi ro tỷ giá phù hợp, hạn chế đến mức thấp nhất tác
động từ biến động tỷ giá, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng ổn định, bền vững của
mình, qua đó cũng tránh làm gia tăng các khoản nợ xấu cho ngân hàng.
Một cuộc rút vốn hàng loạt, đột ngột của những người gửi tiền nước ngoài
sau một thời gian dài đầu tư được xem như nguồn vốn đầu tư vào trong nước cũng
được xem như là nguồn gốc của những bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng(theo
Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a)), cho rằng dòng vốn chảy vào trong nước
tăng cao là nhờ sự tác động kết hợp của hai hoạt động đó là tự do hóa tài chính và

lãi suất đồng nội tệ cao. Khi các nhà đầu tư nước ngoài mất lòng tin hoặc lãi suất
ngoại tệ tăng cao, lúc đó họ sẽ đồng loạt rút các khoản tiền gửi của mình, điều đó
làm cho các ngân hàng trong nước trở nên kém thanh khoản.
Ở các nước, khi mà các nhà đầu tư tài chính trong nước lẫn trốn đồng tiền
nội địa như một kỳ vọng vào sự mất giá của đồng nội tệ sẽ sớm xảy ra, hành động
này cũng góp phần nguy cơ xảy ra khủng hoảng. Quan điểm này lần đầu tiên được


- 11-

đề cập đến trong nghiên cứu của Krugman về mô hình khủng hoảng cán cân thanh
toán. Theo quan điểm của mình, ông cho rằng các nhà đầu tư để tránh việc tổn thất
trong đầu tư tài chính, họ thường có khuynh hướng sử dụng đồng nội tệ để mua các
đồng ngoại tệ của các nước có nền kinh tế phát triển. Theo Sach et al (1996), vấn đề
của các ngân hàng trong trường hợp này là khách hàng sẽ giảm bớt các khoản tiền
gửi tại các ngân hàng, và khi đó hệ thống ngân hàng sẽ gặp vấn đề về thanh khoản
khi hiện tượng rút vốn đồng loạt diễn ra.
Ngoài ra nguyên nhân có thể xuất phát tử quá trình thực hiện chính sách
tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng, các nhà hoạch định chính sách thông thường
thực hiện các biện pháp tự do hóa tài chính, đây lại được xem là một trong những
nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng (Ergungor và Thomson (2005). Việc hệ
thống tài chính ngày càng được quốc tế hóa, bên cạnh những mặt thuận lợi còn là
những thách thức không nhỏ dành cho hệ thống ngân hàng. Giannetti (2006) đã
nhận xét, nhờ việc tự do hóa trong lĩnh vực tài chính, các công ty mà trước đây phụ
thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng, có thể dễ dàng tiếp cận thị trường tài chính
thông qua các công cụ là trái phiếu doanh nghiệp hoặc thương phiếu. Xét về mặt
cung, các nhà đầu tư quốc tế sẵn lòng cung cấp một lượng vốn lớn với một chi phí
thấp hơn. Dưới áp lực cạnh tranh cao hơn, thị trường tiền gửi bị nhỏ lại, buộc các
ngân hàng phải trả thêm tiền để thu hút người gửi tiền từ các đối thủ cạnh tranh. Do
đó, lợi nhuận ngân hàng sẽ giảm, chi phí tăng, các tổ chức ngân hàng yếu kém sẽ rơi

vào thua lỗ và đối mặt với viễn cảnh phải sụp đỗ hoặc sát nhập.
Một yếu tố khác liên quan đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng là
việc áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng với lãi suất thấp trong thời gian dài. Việc
tăng trưởng tiền tệ quá mức thường dẫn đến việc gia tăng trong giá trị tài sản: bất
động sản, cổ phiếu và các khoản vay tiêu dùng. Các ngân hàng ứng phó với những
thay đổi này bằng việc gia tăng thị phần của họ trên thị trường do việc tăng giá của
tài sản là tín hiệu tốt cho thấy việc đầu tư trên thị trường đang tăng trong khi rủi ro
đang ở mức thấp. Xu hướng này cứ tiếp tục như thế do những người tham gia trên
thị trường đều tin tưởng rằng giá trị các tài sản sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.


- 12-

Tuy nhiên, ngay cả khi các ngân hàng nhận ra rằng xu hướng này là thực sự không
bền vững, họ vẫn có thể tiếp tục phải cho vay với hy vọng họ có thể tự tháo gỡ khỏi
các khoản nợ và đầu tư xấu trước khi thị trường sụp đỗ (đây là cách nghĩ quá tự
tin).Trong bài nghiên cứu “Bubbles in Real Estate Markets” (Bong bóng trên các thị
trường Bất động sản), Herring và Wachter (2002), chỉ ra rằng động cơ để cho vay và
đầu tư vào các lĩnh vực nhiều rủi ro làm giá của thị trường bất động sản tăng nhanh
là bởi các cú sốc lớn ảnh hưởng đến nền kinh tế không thường xuyên xảy ra, do đó
các ngân hàng thường không ước đoán được khả năng tác động. Dù là cách nghĩ quá
tự tin hoặc đánh giá thấp các cú sốc không dự đoán thì những điều này cũng đóng
vai trò quan trọng trong khả năng xảy ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng. Dù là lý
do nào đi nữa thì kết quả cuối cùng thường là như nhau.
Ngoài ra, nền kinh tế với mức lạm phát cao do sự tác động từ việc gia tăng
giá tài sản và sự bùng nổ tín dụng trong thời gian dài, buộc chính phủ phải có những
chính sách can thiệp mạnh mẽ (Ergungor và Thomson (2005), cũng được xem như
một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng ngân hàng. Trong trường hợp
này, chính phủ ban hành các chính sách quy định lãi suất và hạn chế các khoản vay
là một trong các biện pháp chính phủ có thể áp dụng để làm nguội nền kinh tế. Kết

quả của việc này có thể làm tăng trưởng kinh tế chậm lại, kéo theo sự suy giảm giá
trị của tài sản cũng nhưng giảm khả năng trả nợ của người đi vay, lợi nhuận của
ngân hàng giảm xuống và các khoản nợ xấu gia tăng làm xói mòn nguồn vốn của
họ, tác động xấu đến hệ thống ngân hàng.
Công tác quản lý, quản trị tốt trong hệ thống ngân hàng được xem là một
trong những yếu tố quyết định quan trong việc làm giảm các thiệt hại từ cuộc khủng
hoảng, vai trò của người quản trị trong ngân hàng là phải giám sát và duy trì hệ
thống ngân hàng trong môi trường lành mạnh, nhưng đôi khi mục tiêu đó không
được thực hiện đầy đủ. Trong một vài trường hợp, hạn chế về ngân sách và trình độ
đội ngũ quản lý là những rào cản, hạn chế khả năng kiểm soát của họ. Một khả năng
khác cũng thường được đề cập như là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng
đến khả năng kiểm soát của các ngân hàng đó là áp lực tăng trưởng, đặc biệt là trong


- 13-

giai đoạn phát triển nóng của nền kinh tế. Ví dụ: trong giai đoạn chính phủ thực hiện
chính sách tự do hóa tài chính kết hợp với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhà
quản lý ngân hàng không hoàn toàn dễ dàng đóng cửa các ngân hàng mất khả năng
thanh toán và điều chỉnh các mục tiêu đầu tư của ngân hàng để họ không quá lao
vào các dự án có mức độ rủi ro cao, mặc dù điều này có thể đem lại cho ngân hàng
lợi nhuận cao hơn. Các lý do kể trên làm cho công tác quản trị tại các ngân hàng trở
nên tệ hơn và khởi đầu cho khủng hoảng ngân hàng. Trong bài nghiên cứu về lý
thuyết khủng hoảng ngân hàng, Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) cũng tán
đồng quan điểm này, tại các quốc gia mà lĩnh vực tài chính ngân hàng, hệ thống
pháp luật còn thiếu và yếu kém và chất lượng kiểm soát hoạt động ở mức thấp là
những điều kiện tốt cho khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Trong điều kiện đó, các nhà
quản lý ngân hàng có thể đầu tư vào các dự án đẩy rủi ro, cũng như họ có thể sử
dụng tiền vào các mục đích cá nhân, gây tổn thất cho ngân hàng, làm gia tăng khả
năng xảy ra khủng hoảng

1.2

Nghiên cứu thực nghiệm

Trong một nghiên cứu về các mô hình khủng hoảng kinh tế và tài chính,
Roberto et al (2005) đã chỉ ra rằng một trong những các tiếp cận trong việc dự đoán
khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng là việc sử dụng mô hình logic hay mô hình
probit để xem xét các chỉ số cảnh báo. Mô hình này đòi hỏi phải có một biến khủng
hoảng giả có vai trò như một biến phụ thuộc và xây dựng các biến giải thích là các
biến liên quan đến lĩnh vực tài chính, kinh tế vĩ mô. Theo Roberto et al (2005)
phương pháp này được sử dụng rộng rãi hơn các phương pháp khác do có lợi thế
hiệu quả hơn và còn có lợi thế trong việc ước lượng thống kê tác động của các biến
giải thích khác nhau lên biến phụ thuộc. Hơn nữa, phương pháp này còn có thể dùng
trong việc dự đoán khả năng xảy ra khủng hoảng trong tương lai.
Trong nghiên cứu về các yếu tố tác động đến các cuộc khủng hoảng ngân
hàng, Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) đã xây dựng lý thuyết về khủng
hoảng ngân hàng bằng việc tập trung nghiên cứu về vai trò của hệ thống ngân hàng


- 14-

trong nền kinh tế cũng như tập trung xem xét các vấn đề tài chính các ngân hàng.
Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) đã sử dụng phương pháp này trong bài
nghiên cứu về các nhân tố quan trọng tác động đến khủng hoảng ngân hàng của họ.
Cách tiếp cận bằng mô hình logit cho phép các tác giả nối kết các biến giải thích để
làm rõ có hay không khả năng xảy ra khủng hoảng. Biến giả (biến khủng hoảng
ngân hàng) nhận các giá trị 1 (tương ứng với khủng hoảng xảy ra), 0 (không có
khủng hoảng). Các tham số khác của hàm logit thu được bằng phương pháp ước
lượng hợp lý cực đại.
Giống như quan điểm của trường phái cổ điển đã được đề cập ở trên,

Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) cũng đồng ý là nguyên nhân khủng hoảng
là sự phản ứng lại các thông tin bất đối xứng giữa người gửi tiền và ngân hàng.
Trong trạng thái kinh doanh thông thường, khi người gửi tiền tin tưởng vào hệ thống
ngân hàng, khủng hoảng ngân hàng sẽ không xuất hiện. Nhưng khi niềm tin bị “lung
lay”, ví dụ khi một hoặc nhiều ngân hàng gặp khó khăn về vấn đề thanh toán do các
khoản nợ xấu, đột biến rút tiền gửi có thể xảy ra. Khủng hoảng thanh khoản có thể
bùng nổ và làm cho hiệu quả của hệ thống ngân hàng giảm. Việc đồng loạt rút vốn
khỏi một ngân hàng có thể chưa dẫn đến khủng hoảng ngân hàng, nhưng trong điều
kiện nhất định, người gửi tiền không phân biệt ngân hàng nào đang hoạt động tốt,
lúc này sẽ dẫn đến việc rút vốn dây chuyền, gây khó khăn cho cả hệ thống ngân
hàng. Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) cho rằng thiết lập cơ chế bảo hiểm
tiền gửi giảm nguy cơ gây hoảng loạn ngân hàng, Hoạt động bảo hiểm tiền gửi góp
phần củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, có thể ngăn
ngừa và hạn chế được các cuộc rút tiền ồ ạt gây nên hậu quả rất nghiêm trọng đối
với bản thân các ngân hàng xảy ra đột biến rút tiền gửi nói riêng và cả hệ thống nói
chung. Hoạt động bảo hiểm tiền gửi cũng giúp các ngân hàng hoạt động yếu kém,
không thể tiếp tục duy trì hoạt động có thể rút khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng
một cách có trật tự, không ảnh hưởng đến các ngân hàng khác và toàn hệ thống. Tuy
nhiên việc này có khi lại đem đến tác động ngược, khi tiền gửi được bảo hiểm thì
người gửi tiền sẽ không mặn mà với việc giám sát hoạt động của các ngân hàng,


×