Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc : Luận văn ThS. Kinh tế : 60 31 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 103 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ ........................................................................................................ 6
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN..................................................................................... 6
1.1.1. THUYẾT TỰ DO THƯƠNG MẠI ....................................................... 6
1.1.1.1. LÝ THUYẾT “BÀN TAY VÔ HÌNH” CỦA ADAM SMITH .... 6
1.1.1.2. LÝ THUYẾT “BÀN TAY HỮU HÌNH” CỦA JONH
MAYNARD KEYNES ..................................................................................... 8
1.1.1.3. LÝ THUYẾT “KINH TẾ HỖN HỢP” CỦA SAMUELSON ...... 9
1.1.2. LÝ THUYẾT VỀ LỢI THẾ SO SÁNH TRONG THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ ........................................................................................................ 11
1.1.2.1. CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG.............................................. 11
1.1.2.2. THUYẾT “LỢI ÍCH TUYỆT ĐỐI”CỦA ADAM SMITH (1723
– 1790)............................................................................................................. 12
1.1.2.3. TƯ TƯỞNG CỦA RICARDO (1772-1823) VỀ LỢI ÍCH SO
SÁNH .............................................................................................................. 12
1.1.2.4. ĐỊNH LÝ HECKSCHER - OHLIN ........................................... 13
1.1.3. LÝ THUYẾT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN
CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN ..................................... 15
1.1.4. QUAN ĐIỂM CỦA TRUNG QUỐC VỀ NGOẠI THƯƠNG
TRONG THỜI KỲ CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA ............................ 18
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN .............................................................................. 19
1.2.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI THÚC ĐẨY QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG QUỐC ........................... 19
1.2.1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ ........................................................................... 19
1.2.1.2. KHÍ HẬU .................................................................................... 20
1.2.1.3. TÀI NGUYÊN BIỂN .................................................................. 21


1.2.1.4. TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN ................................................. 21


1.2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN THÚC ĐẨY QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM - TRUNG QUỐC ............................................................................ 22
1.2.2.1. XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA, KHU VỰC HÓA KINH TẾ ...... 22
1.2.2.2. CHÍNH SÁCH MỞ CỬA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM ............................................................................................ 24
1.2.2.3. CHÍNH SÁCH MỞ CỬA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA TRUNG QUỐC ..................................................................................... 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC ............................................................................................. 30
2.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG
HÓA GIỮA HAI NƯỚC. ............................................................................. 30
2.1.1. GIAI ĐOẠN TỪ 1991 - 1995: THỜI KỲ KHỞI ĐỘNG ............. 30
2.1.2. GIAI ĐOẠN TỪ 1996 – 2000: THỜI KỲ PHÁT TRIỂN ỔN
ĐỊNH ......................................................................................... 33
2.1.3. GIAI ĐOẠN TỪ 2001 ĐẾN NAY: THỜI KỲ HỘI NHẬP VÀ PHÁT
TRIỂN MẠNH MẼ ............................................................................. 37
2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA GIỮA
HAI NƯỚC .................................................................................................... 40
2.2.1. KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA ..................... 40
2.2.2. CƠ CẤU MẶT HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU ............................. 42
2.2.3. CHỦ THỂ THAM GIA XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA ....... 50
2.2.4. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN .............................................. 52
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
HÀNG HÓA GIỮA HAI NƯỚC ......................................................... 52
2.3.1. NHỮNG THÀNH TỰU .............................................................. 53
2.3.2. NHỮNG HẠN CHẾ ................................................................... 56
2.2.3. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NHỮNG HẠN CHẾ..................... 60

1



CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ HƯƠNG MẠI
HÀNG HÓA VIỆT NAM – TRUNG QUỐC .............................................. 65
3.1. BỐI CẢNH MỚI TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC ............................................................................................. 65
3.1.1. TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM ĐỀU LÀ THÀNH VIÊN CỦA
WTO .......................................................................................... 65
3.1.2. TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM ĐỀU THAM GIA VÀO HỢP
TÁC KHU VỰC ......................................................................... 66
3.1.3. VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC THAM GIA HỢP TÁC KINH TẾ
VÙNG ........................................................................................ 68
3.2. MỘT SỐ ĐIỀU CHỈNH VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH CỦA HAI
NƯỚC SAU KHI HAI NƯỚC GIA NHẬP WTO693.2.1.

VỀ

PHÍA

TRUNG QUỐC ..................................................................................... 69
3.2.2. VỀ PHÍA VIỆT NAM ................................................................ 71
3.3. TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG
QUỐC ............................................................................................................. 73
3.3.1. NHỮNG NHÂN TỐ THUẬN LỢI THÚC ĐẨY QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI GIỮA HAI NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI... 73
3.3.2. TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG
QUỐC TRONG NHỮNG NĂM TỚI ................................................. 75
3.4. NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
HÀNG HÓA VIỆT NAM-TRUNG QUỐC ................................................ 79
3.4.1. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CHO
PHÙ HỢP VỚI THÔNG LỆ QUỐC TẾ, TẠO CƠ SỞ PHÁP LÝ

CHO VIỆC PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA HAI
NƯỚC ................................................................................................. 79
3.4.2. NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO ĐỊA PHƯƠNG CỦA HAI
NƯỚC ........................................................................................ 81

2


3.4.3. NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH
HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA GIỮA VIỆT
NAM VỚI TRUNG QUỐC. ............................................................... 82
3.4.4. THÚC ĐẨY TIẾN TRÌNH HỢP TÁC XÂY DỰNG “HAI HÀNH
LANG VÀ MỘT VÀNH ĐAI KINH TẾ”. ........................................ 86
3.4.5. TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG THƯƠNG MẠI
TẠI CÁC CỬA KHẨU VÀ TRÊN TOÀN TUYẾN BIÊN GIỚI PHÍA
BẮC ..................................................................................................... 88
3.4.6. TĂNG CƯỜNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CHỢ BIÊN GIỚI VÀ
QUẢN LÝ VIỆC MUA BÁN, TRAO ĐỔI HÀNG HOÁ TẠI CÁC
CHỢ BIÊN GIỚI................................................................................. 89
3.4.7. HOÀN THIỆN THỦ TỤC THANH TOÁN QUA NGÂN HÀNG Ở
KHU VỰC BIÊN GIỚI ............................................................... 90
3.4.8. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH CHỐNG BUÔN LẬU VÀ
GIAN LẬN THƯƠNG MẠI ........................................................................90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 94

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ACFTA

Khu mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

AFTA

Khu mậu dịch tự do Đông Nam Á

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương

ASEM

Diễn đàn hợp tác Á- Âu

ADB

Ngân hàng phát triển châu Á

C/O

Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá

EHP


Chương trình thu hoạch sớm

FTAs

Khu vực thương mại tự do

GMS

Hợp tác tiểu vùng sông Mê kông mở rộng

L/C

Thư tín dụng

RTAs

Các thoả thuận thương mại khu vực

XNK

Xuất nhập khẩu

VAT

Thuế giá trị gia tăng

WTO

Tổ chức thương mại thế giới



DANH MC CC BNG

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc
thời kỳ 1991-2007 .....................................................................................................41
Bảng 2.2: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung
Quốc giai đoạn 1991-1995 .....................................................................................44
Bảng 2.3 : Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung
Quốc giai đoạn 1996-2000 .....................................................................................45
Bảng 2.4 : Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung
Quốc giai đoạn 2001-2007 .....................................................................................47
Bảng 2.5: Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Trung
Quốc giai đoạn 1996-2000 .....................................................................................48
Bảng 2.6: Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Trung
Quốc giai đoạn 2001 - 2007 ...................................................................................49
Bảng 3.1: Dự báo kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai n-ớc giai đoạn 2007 - 2015 76


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc được bình thường hoá
(11/1991) đến nay, nhiều văn bản, hiệp định đã được ký kết giữa hai nước
như: Hiệp định thương mại (1991); Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật (1992);
Hiệp định về việc thành lập UỶ ban hợp tác kinh tế thương mại (1994); Hiệp
định mua bán hàng hoá tại vùng biên giới.v.v...đã tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy
quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển và đạt được một số thành tựu
quan trọng. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước ngày càng tăng. Năm
1991, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Trung Quốc đạt 37,7 triệu USD,
đến năm 2007 đạt 15.559 triệu USD, gấp 413 lần so năm 1991. Với nhịp độ

tăng kim ngạch xuất nhập khẩu nhanh chóng, Trung Quốc đang trở thành bạn
hàng lớn nhất của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với quá trình đẩy mạnh hợp tác song phương, việc tham gia vào
kinh tế toàn cầu và khu vực đã mở ra cho Việt nam và Trung Quốc nhiều cơ
hội, cụ thể là hệ thống pháp luật và chính sách thương mại ngày càng minh
bạch, thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng rào thuế quan đang dần được
dỡ bỏ giữa hai nước, hàng hoá trao đổi giữa hai nước ngày càng tăng về số
lượng và chất lượng, hệ thống cơ sở hạ tầng cũng đang được hai nước quan
tâm phát triển...Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế cũng đưa lại những
thách thức lớn trong quan hệ thương mại giữa hai nước, đó là cạnh tranh hàng
hoá của Việt nam với hàng hoá của các nước trong khu vực và hàng hoá của
Trung Quốc ngày càng diễn ra gay gắt. Chất lượng sản phẩm yêu cầu ngày
càng cao hơn...Bên cạnh đó, quan hệ thương mại giữa hai nước cũng còn
nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết như: Thâm hụt thương mại của Việt Nam
với Trung Quốc quá lớn, khối lượng hàng hoá trao đổi chưa tương xứng với
tiềm năng vốn có của hai nước, tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại tại
khu vực biên giới có dấu hiệu gia tăng, ô nhiễm môi trường ở khu vực cửa

1


khẩu biên giới đang trở thành hiện tượng phổ biến, các doanh nghiệp Việt
Nam còn thụ động trong kinh doanh, chạy theo lợi ích ngắn hạn, dễ bị phụ
thuộc vào phía Trung Quốc, thương mại dịch vụ còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước…
Nhìn chung, quan hệ thương mại Việt Nam -Trung Quốc những năm qua
đã có sự phát triển vượt bậc và có vai trò ngày càng quan trọng trong quan hệ
hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới,
quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc còn phải được tiếp tục phát triển
lên tầm cao mới đáp ứng đòi hỏi của sự hợp tác toàn diện đã được lãnh đạo

hai nước thoả thuận, đồng thời đáp ứng yêu cầu của tiến trình Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Đề tài “Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc” được lựa chọn
nghiên cứu góp phần đáp ứng yêu cầu trình bày ở trên, nhằm tìm ra các giải
pháp chủ yếu làm cho quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc không
ngừng mở rộng và phát triển bền vững trong những năm tới.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
* Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ở nước ngoài, đã có một số tài liệu nghiên cứu về các vấn đề có liên

quan đến quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc, cụ thể: Nhóm chuyên
gia về hợp tác kinh tế ASEAN-Trung Quốc (2001) đã nghiên cứu “tác động
của việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc đến lợi ích
thương mại của các nước tham gia” dựa trên mô hình phân tích thương mại
toàn cầu với giả định thuế suất giảm xuống bằng 0. Toh Mun Heng and
Vasudevan Gayathri (2004) đã nghiên cứu về “Tác động của tự do hoá
thương mại khu vực đối với các nền kinh tế mới nổi: trường hợp Việt Nam”
đăng tải trên Tạp chí ASEAN Economic Bulletin.
* Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở trong nước, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Trung Quốc và Việt

2


Nam dưới nhiều góc độ khác nhau như: Buôn bán qua biên giới Việt nam Trung quốc. Lịch sử -Hiện trạng - Triển vọng. TS. Nguyễn Minh Hằng Viện Nghiên cứu Trung Quốc; Một số vấn đề về phát triển thương mại quốc
tế vùng biên giới phía Bắc của TS. Nguyễn Công Hoàn - Trung tâm Khoa học
xã hội và nhân văn quốc gia; Các giải pháp để Việt Nam khai thác tối đa
những lợi ích thương mại từ chương trình thu hoạch sớm trong khu vực mậu
dịch tự do ASEAN- Trung Quốc của Ths. Trịnh Thị Thanh Thuỷ-Viện Nghiên
cứu Thương mại; Đổi mới quản lý Nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu

trên địa bàn các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc của TS. Lương Đăng
Ninh-Viện Nghiên cứu Thương mại; Tác động của việc Trung Quốc gia nhập
WTO đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam của Ths. Đỗ Kim Chi-Viện
Nghiên cứu Thương mại.
Cho đến nay, chưa có một nghiên cứu nào đánh giá một cách tổng quát
quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc từ 1991 đến nay, đồng thời đưa ra
các giải pháp nhằm phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc trong
những năm tới, nhất là trong bối cảnh mới Việt Nam và Trung Quốc đều là
thành viên của WTO, ACFTA, GMS...
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển quan hệ thương mại hai nước.
- Đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc từ
1991 đến nay và đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động thương mại hàng hóa giữa hai nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận cơ bản về thương mại quốc tế để làm rõ cơ sở khoa
học phát triển quan hệ thương mai hai nước.
- Nghiên cứu bối cảnh mới trong nước và quốc tế tác động tới quan hệ
thương mại hai nước.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng quan hệ thương mại hàng hóa Việt

3


Nam-Trung Quốc.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại hàng hóa
Việt Nam-Trung Quốc.
- Đưa ra triển vọng phát triển quan hệ thương mại hàng hóa Việt NamTrung Quốc trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc dưới góc độ
kinh tế chính trị.
- Nghiên cứu các giải pháp khắc phục những tồn tại trong quan hệ
thương mại giữa hai nước hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một trong bốn lĩnh vực
chính chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại là thương mại hàng hoá (xuất
nhập khẩu hàng hoá). Các lĩnh vực khác như: Thương mại dịch vụ, đầu tư, sở
hữu trí tuệ chỉ đề cập đến dưới góc độ có liên quan và hỗ trợ cho hoạt động
thương mại hàng hoá.
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ thương mại hàng
hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 1991 đến nay và triển vọng của nó.
- Về không gian: Hoạt động XNK hàng hoá giữa các doanh nghiệp
Việt Nam và doanh nghiệp Trung Quốc.
5. Phương pháp nghiên cứu:
* Chọn cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu: Đứng từ góc độ Việt Nam đánh
giá thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc qua từng giai
đoạn lịch sử chịu ảnh hưởng của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội...trên
quốc tế và mỗi nước.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài sử dụng các phương pháp cơ bản được áp dụng trong nghiên cứu
kinh tế là phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng.
- Kết hợp nghiên cứu lý thuyết với thực tiễn ở Trung Quốc.

4


- Sử dụng phương pháp thống kê.
- Kết hợp mô hình phân tích, so sánh và dự báo kinh tế.

6. Những đóng góp mới của luận văn:
* Đóng góp mới trong khoa học: Đề tài chỉ ra những lợi ích mà các nước
thu được khi tham gia vào thương mại quốc tế, những ưu thế nổi trội của quan
hệ hợp tác khu vực hiện nay, là cơ sở cho việc tăng cường quan hệ thương
mại Việt Nam-Trung Quốc hiện nay và trong thời gian tới.
* Đóng góp mới trong thực tiễn: Trên cơ sở phân tích quan hệ thương
mại Việt Nam - Trung Quốc hiện nay. Đề tài đưa ra một số vấn đề gợi mở cho
Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước.
7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thương mại quốc tế
Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc từ
1991 đến nay
Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt NamTrung Quốc

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.1. Thuyết tự do thương mại
Ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII, thuyết Tự do thương mại phát
triển thịnh hành vào thế kỷ XIX trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất tại Tây Âu và Bắc Mỹ. Đây là thời kỳ chủ nghĩa tư bản bắt đầu
bành trướng kinh tế ra bên ngoài, tăng cường khai thác thuộc địa và trao đổi
thương mại giữa các nước tư bản với nhau. Vào cuối thế kỷ XVIII, nhờ cuộc
cách mạng công nghiệp và kết quả tích lũy tư bản ở giai đoạn trước qua chính

sách Trọng thương, nước Anh đã xây dựng được một nền công nghiệp có khả
năng cạnh tranh cao hơn so với hai đối thủ chính là Pháp và Phổ. Thị trường
Anh và các nước thuộc địa không đủ sức tiêu thụ hàng hóa của Anh đang trên
đà cất cánh và cũng không đáp ứng được nhu cầu về nguyên, nhiên liệu và
lương thực cần thiết, do đó Anh phải ra sức tìm kiếm thị trường mới. Sự ra
đời của thuyết Tự do thương mại đã hỗ trợ cho việc mở rộng thị trường quốc
tế của Anh. Bắt đầu từ Anh, chủ nghĩa Tự do thương mại dần dần lan sang
các nước Tây Âu như Hà Lan, Pháp, Đức. Tuy nhiên, mức độ áp dụng những
quan điểm này ở các nước, ở các thời kỳ lịch sử có khác nhau và đưa lại các
kết quả cũng khác nhau. Trong đó có học thuyết của Adam Smith với lý
thuyết về “Bàn tay vô hình”; học thuyết của Keynes với lý thuyết “Bàn tay
hữu hình” và học thuyết của trường phái chính hiện đại “Kinh tế hỗn hợp” của
Samuelson.
1.1.1.1. Lý thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam Smith
Lý thuyết về “Bàn tay vô hình” của Adam Smith có ảnh hưởng rất sâu
rộng và khá bền vững đến đời sống lý luận và chính sách kinh tế ở nhiều nước
trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phương Tây vào cuối thế kỷ XVII đến đầu
những năm 30 của thế kỷ XX. Smith đưa ra lý thuyết này trong tác phẩm lớn

6


nhất của mình “Nguồn gốc của cải của các dân tộc hay gọi là sự giàu có của
các dân tộc”, công bố đầu tiên vào năm 1776.
Với tư tưởng tự do kinh tế, Adam Smith cho rằng, xã hội là sự liên minh
những quan hệ trao đổi. Chỉ có trao đổi và thông qua việc thực hiện những
quan hệ trao đổi thì nhu cầu của con người mới được thỏa mãn. “Hãy đưa cho
tôi cái mà tôi cần, tôi sẽ đưa cho anh cái mà anh cần”[21, tr.38]. Khi tiến hành
trao đổi sản phẩm lao động của nhau cho nhau thì con người bị chi phối bởi
lợi ích cá nhân của mình. Mỗi người chỉ biết tư lợi và chạy theo tư lợi. Nhưng

khi chạy theo tư lợi thì con người tham gia vào hoạt động kinh tế còn chịu sự
tác động của “bàn tay vô hình”. Với sự tác động này, con người tham gia vào
hoạt động kinh tế vừa chạy theo tư lợi lại vừa đồng thời thực hiện một nhiệm
vụ không nằm trong dự kiến đó là đáp ứng lợi ích chung của xã hội. [21,
tr.39]
Theo A. Smith, “Bàn tay vô hình” đó là sự hoạt động của các quy luật
kinh tế khách quan hay là một “trật tự tự nhiên”. Để có sự hoạt động của trật
tự tự nhiên này thì cần phải có sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hóa
và trao đổi hàng hóa. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế,
tự do sản xuất, tự do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch. Trên cơ sở đó hình
thành mối quan hệ giữa người với người là phụ thuộc vào nhau. Trong xã hội
với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa, người ta luôn luôn có
quan hệ kinh tế với nhau.
A. Smith đề cao vai trò của “bàn tay vô hình” và cho rằng, hoạt động
sản xuất và lưu thông hàng hóa được phát triển theo sự điều tiết của bàn tay
vô hình. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế mà chỉ có thể thực hiện
những chức năng kinh tế khi mà chức năng đó vượt quá khả năng của các
đơn vị kinh doanh đơn lẻ. Ví dụ: xây dựng các công trình lớn, làm đường,
thủy lợi...Còn trong điều kiện bình thường, nhiệm vụ của nhà nước là duy
trì trật tự trị an, bảo vệ tổ quốc...để tạo ra một sự ổn định, để các tư nhân
hoạt động kinh tế.
7


1.1.1.2. Lý thuyết “Bàn tay hữu hình” của Jonh Maynard Keynes
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản lâm vào khủng
hoảng kinh tế nghiêm trọng, thất nghiệp diễn ra thường xuyên. Điển hình là
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 hay còn gọi khủng hoảng thừa.
Để giúp cho hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa lấy lại trạng thái cân bằng, đi
ra khỏi tình trạng khủng hoảng, suy thoái và tiếp tục phát triển. Học thuyết

kinh tế “Chủ nghĩa tư bản được điều tiết” xuất hiện. Người sáng lập ra nó là
Jonh Maynard Keynes, nhà kinh tế người Anh, ông sinh năm 1884 và mất
năm 1946.
Khi nghiên cứu về tự do thương mại, Keynes cho rằng, nếu một nước
dựa vào lí luận truyền thống mà tiến hành tự do thương mại, thì có thể giành
được lợi ích trong việc thực hiện sản xuất chuyên môn hóa các ngành tương
đối ưu thế, nhưng nếu bỏ mất hoặc thu hẹp sản xuất các ngành tương đối ưu
thế, thì sẽ dẫn đến vấn đề thất nghiệp ngày càng trầm trọng. Ông còn cho
rằng, gia tăng xuất siêu là biện pháp trực tiếp duy nhất mà chính phủ có thể
gia tăng đầu tư nước ngoài. Đồng thời, nếu xuất siêu kim loại quý sẽ chảy về
trong nước, đó là biện pháp gián tiếp duy nhất để chính phủ có thể giảm lãi
suất trong nước, tăng thêm động cơ đầu tư trong nước. Mở rộng xuất khẩu tức
là gia tăng nhu cầu của nước ngoài đối với trong nước, có tác dụng “rót vào”
giống như tăng thêm đầu tư và sẽ thúc đẩy tổng thu nhập quốc dân tăng lên
gấp bội thông qua hiệu ứng thừa số đầu tư. Việc mở rộng nhập khẩu có nghĩa
là gia tăng dùng hàng nhập ngoại, điều đó có tác dụng “chảy ra”, giống như
tăng thêm để dành, làm yếu đi tác dụng của thừa số đầu tư, làm giảm thu nhập
quốc dân. Dựa vào lí do trên, Keynes ra sức tán thành xuất siêu, phản đối
nhập siêu. Ông chủ trương mở rộng xuất khẩu bằng mọi cách, đồng thời nhờ
sự giúp đỡ của việc bảo vệ thuế quan và khuyến khích “mua hàng của Anh”
để hạn chế nhập siêu [16, tr.1338 -1339]. Keynes cho rằng, để đảm bảo sự cân
bằng của nền kinh tế thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự phát mà phải
bằng sự can thiệp của nhà nước, từ đó Keynes đã đưa ra lý thuyết về bàn tay

8


hữu hình. Theo thuyết đó, thông qua những hỗ trợ của nhà nước như là những
biện pháp để duy trì cầu đầu tư, thông qua hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ từ ngân sách
nhà nước, thông qua hệ thống các đơn đặt hàng của nhà nước, hệ thống thu

mua của nhà nước... để tạo ra sự ổn định về môi trường kinh doanh, ổn định
thị trường, ổn định về lợi nhuận cho các công ty.
Lý thuyết của Keynes đã được nhiều nước áp dụng, đặc biệt từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai đến thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Nhưng đến đầu những
năm 70, nền kinh tế phương Tây liên tục xuất hiện tình trạng lạm phát,
nguyên nhân chính là do chính phủ các nước phương Tây đã quá chú trọng,
đề cao vai trò của nhà nước trong nền kinh tế.
1.1.1.3. Lý thuyết “Kinh tế hỗn hợp” của Samuelson
Samuelson là nhà kinh tế Mỹ, năm 1948, ông đã cho xuất bản bộ giáo
trình Kinh tế học. Trong bộ giáo trình này, Samuelson đã đề cập đến lý thuyết
“Kinh tế hỗn hợp”. Nếu các nhà kinh tế học phái cổ điển và cổ điển mới say
sưa với “bàn tay vô hình” và “thăng bằng tổng quát”, trường phải Keynes và
Keynes mới say sưa với “bàn tay hữu hình”, thì Samuelson chủ trương phát
triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay” là cơ chế thị trường và nhà nước.
Khi bàn về cơ chế thị trường, Samuelson cho rằng, cơ chế thị trường là
hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh
doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm: Sản
xuất cái gì? Sản xuất thế nào? Và sản xuất cho ai [21, tr.166].
Cơ chế thị trường mang nặng yếu tố tự phát, nhưng không phải là một sự
hỗn độn, mà là trật tự kinh tế có tính quy luật. Trật tự này có nhiệm vụ kết nối
các kết giao kinh tế của hàng triệu cá nhân với nhau. Để thực hiện được
nhiệm vụ này, ông cho đó là sức mạnh của thị trường.
Thị trường là một quá trình mà trong đó người mua và người bán một
thứ hàng hóa tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và sản lượng hàng
hóa.
Thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường mà các nhà kinh doanh

9



tự định hướng cho mình trong việc giải quyết các vấn đề sản xuất cái gì? như
thế nào? cho ai? Người tiêu dùng cũng thông qua sự vận động của giá cả mà
đưa ra những quyết định lựa chọn.
Theo quan điểm của Samuelson, nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường sẽ cho nó đạt được những thành tựu to lớn về tăng trưởng và phát
triển, thỏa mãn nhu cầu. Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng có những khuyết
tật, đó là khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, phân hóa giàu nghèo, độc quyền
trong kinh doanh, sử dụng tài nguyên một cách bừa bãi...
Khi nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường,
Samuelson cho rằng, nhà nước nên tập trung vào 4 chức năng sau: (1) Thiết
lập khuôn khổ pháp luật, yêu cầu cả Chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu
dùng phải tuân theo. (2) Sửa chữa những thất bại của thị trường, đó là bảo vệ
cạnh tranh và chống độc quyền. Hạn chế và ngăn ngừa những ảnh hưởng bên
ngoài dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt động kinh tế thị trường. Sản xuất
và kinh doanh hàng hóa công cộng. Đánh thuế thu nhập cá nhân và thu nhập
doanh nghiệp. (3) Ổn định kinh tế vĩ mô bằng cách Chính phủ phải ban hành
những chính sách kinh tế thích ứng với từng giai đoạn của chu kì thông qua
những quyền lực về tài chính, tiền tệ của nhà nước. (4) Đảm bảo sự công bằng
xã hội thông qua các khoản hỗ trợ của nhà nước, thông qua các quỹ bảo hiểm,
phúc lợi. Theo Samuelson, việc đưa ra những chính sách và phương án lựa
chọn của nhà nước không phải lúc nào cũng đúng. Vì vậy, vai trò của nhà
nước trong nền kinh tế thị trường cũng có những giới hạn.
Để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường và khắc
phục những giới hạn trong vai trò của nhà nước, theo Samuelson phải kết
hợp cả cơ chế thị trường và vai trò nhà nước trong điều hành nền kinh tế
hiện đại, hình thành nên một nền kinh tế hỗn hợp, trong đó có cả cơ chế thị
trường và nhà nước.
Mô hình “Kinh tế hỗn hợp” đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống lý

10



luận và đời sống kinh tế của hầu hết các nước TBCN. Ảnh hưởng của lý
thuyết này cho đến nay còn được lan rộng đến các nhóm nước đang phát triển
trong quá trình điều chỉnh mô hình phát triển sang quĩ đạo kinh tế thị trường.
1.1.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế
1.1.2.1. Chủ nghĩa Trọng thương
Chủ nghĩa Trọng thương là trường phái kinh tế lớn đầu tiên của lịch sử
nhân loại, nó ra đời ở giữa thế kỷ XV, khi đó phương thức sản xuất phong
kiến tan rã, phương thức sản xuất TBCN ra đời. Tư tưởng chính của chủ
nghĩa Trọng thương là:
- Một quốc gia muốn phát triển kinh tế thịnh vượng phải gia tăng khối
lượng tiền tệ. Theo họ, tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải, hàng hóa chỉ
là phương tiện làm tăng khối lượng tiền tệ [21, tr.15]
- Muốn gia tăng khối lượng tiền tệ phải phát triển ngoại thương và trong
hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu, tăng xuất khẩu,
hạn chế nhập khẩu.
- Theo chủ nghĩa Trọng thương, lợi nhuận đạt được trong buôn bán là kết
quả của trao đổi không ngang giá và lường gạt. Trong trao đổi phải có một
bên thua và một bên được và trong thương mại quốc tế thì “dân tộc này làm
giàu bằng cách hi sinh lợi ích của dân tộc kia” [21, tr.16]
Những người theo học thuyết Trọng thương kêu gọi nhà nước phải can
thiệp sâu vào hoạt động kinh tế như: Lập hàng rào thuế quan để bảo hộ mậu
dịch; miễn thuế nhập khẩu cho các loại nguyên liệu phục vụ cho sản xuất;
cấm xuất khẩu tài nguyên thô (sắt, thép, sợi, lông cừu…), nâng đỡ hoạt động
xuất khẩu như thực hiện tài trợ xuất khẩu, duy trì quota và đánh thuế suất
nhập khẩu cao đối với nhập khẩu hàng tiêu dùng để duy trì hiện tượng xuất
siêu trong hoạt động thương mại quốc tế.
Có thể nói, chủ nghĩa Trọng thương là những học thuyết kinh tế đầu tiên
mở đường cho việc nghiên cứu hiện tượng và lợi ích của thương mại quốc tế.


11


1.1.2.2. Thuyết “lợi ích tuyệt đối”của Adam Smith (1723 – 1790)
Trong tác phẩm “Sự giàu có của các dân tộc”, năm 1776, A. Smith đã
đưa ra thuyết “lợi ích tuyệt đối”. Học thuyết này đã lấy sự khác biệt tuyệt đối
của giá thành sản xuất các nước là cơ sở tiến hành phân công chuyên môn hóa
quốc tế, đồng thời thông qua mậu dịch tự do để thu được lợi ích kinh tế.
Adam Smith cho rằng: một nước phải sản xuất những sản phẩm sở trường
nhất của nước mình, tức là những sản phẩm mà giá thành sản xuất tuyệt đối
rẻ, rồi dùng những sản phẩm này trao đổi với các nước khác, đem về những
sản phẩm không phải sở trường sản xuất của mình nhất, tức là những sản
phẩm mà giá thành sản xuất cao. Kiểu phân công quốc tế này sẽ làm hai nước
tiết kiệm được nhiều lao động, nâng cao hiệu suất bố trí sắp xếp tài nguyên
sản xuất, từ đó thu được một số lượng hàng hóa nhiều hơn là trong điều kiện
đóng cửa giữ mình, tức là thu được lợi ích tuyệt đối của mậu dịch [16,
tr.1318].
Như vậy, thuyết “lợi ích tuyệt đối” của Adam Smith lấy thuyết giá trị lao
động làm cơ sở, có quan điểm khác với chủ nghĩa trọng thương về mậu dịch
quốc tế chỉ có thể làm một bên nào đó có được lợi ích mậu dịch. Tuy nhiên,
hạn chế của thuyết này chưa giải thích được hiện tượng: Một nước có mọi lợi
thế hơn hẳn các nước khác hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả
thì chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế là ở đâu? Thương mại quốc tế
có xảy ra ở những nước này không và xảy ra như thế nào [14, tr.10].
1.1.2.3. Tư tưởng của Ricardo (1772-1823) về lợi ích so sánh
David Ricardo là nhà kinh tế duy vật người Anh gốc Do Thái, năm 1817
Ricardo cho xuất bản tác phẩm với nhan đề “Những nguyên lý kinh tế chính
trị và thuế”, trong đó ông đưa ra quan điểm mậu dịch quốc tế trên cơ sở thuyết
lợi ích tuyệt đối của Adam Smith, dựa theo sự khác biệt tương đối của giá

thành sản xuất mà thực hiện phân công chuyên môn hóa quốc tế. Ricardo cho
rằng: nếu trình độ sức sản xuất của hai nước không bằng nhau thì giá thành
lao động của bất kì loại sản phẩm nào mà nước A sản xuất đều thấp hơn nước
12


B, nước A ở vào ưu thế tuyệt đối, còn nước B ở vào thế kém tuyệt đối, giữa
hai nước vẫn còn tồn tại khả năng phân công quốc tế và buôn bán cùng có lợi.
Vì khoảng cách về năng suất lao động của hai nước không phải bằng nhau
trong bất cứ hàng hóa nào. Nước A ở vào ưu thế tuyệt đối không nhất thiết
phải sản xuất tất cả mọi hàng hóa, mà chỉ phải sản xuất hàng hóa có ưu thế
lớn nhất. Trái lại, nước B ở vào thế kém tuyệt đối cũng không nhất thiết phải
ngừng sản xuất tất cả những hàng hóa này, mà chỉ phải ngừng sản xuất những
hàng hoá kém thế nhất. Như vậy, hai nước A và B mỗi nước tự sản xuất hàng
hóa mà giá thành so sánh tương đối có lợi, thông qua mậu dịch quốc tế, trao
đổi với nhau, hai nước đều tiết kiệm được lao động và cùng có lợi.
Thuyết “lợi ích so sánh” của Ricardo là sự phát triển và bổ sung lí luận
mậu dịch quốc tế của Adam Smith. Với thuyết lợi ích so sánh, Ricardo chủ
yếu dựa vào lý luận giá trị lao động, với giả định lao động là yếu tố đầu vào
duy nhất để sản xuất ra sản phẩm. Nhưng trong thực tế, để sản xuất ra sản
phẩm ngoài yếu tố lao động còn có các yếu tố khác như: vốn, kỹ thuật, đất đai
.v.v... Do vậy, lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo chưa giải quyết
được một cách rõ ràng nguồn gốc của thương mại quốc tế trong nền kinh tế
hiện đại.
1.1.2.4. Định lý Heckscher - Ohlin
Định lý Heckscher – Ohlin là do nhà kinh tế học Thuỵ Điển E.Heckscher
(1897-1952) và B.Ohlin (1899 – 1979) nêu ra đầu tiên, định lý này còn gọi là
lí luận nguồn tài nguyên sẵn có hoặc thuyết yếu tố có sẵn. Lí luận này lấy sự
khác biệt quốc tế của yếu tố sản xuất có sẵn để giải thích nguyên nhân phân
công quốc tế và bố cục mậu dịch quốc tế. Để giải thích vấn đề khác biệt của

giá thành so sánh giữa hai nước trong học thuyết của Ricardo, Heckscher chỉ
ra rằng: nếu cả hai nước đều có yếu tố sản xuất (đất đai, vốn, lao động) và
lượng phân bổ giống nhau, trình độ kỹ thuật của các ngành sản xuất như nhau,
khi không xem xét đến giá thành vận chuyển, thì mậu dịch quốc tế sẽ vừa
không mang lại lợi ích cho một nước nào trong đó, vừa không mang lại tổn

13


thất cho một nước nào khác. Vì vậy, điều kiện tiền đề của việc tồn tại khác
nhau về giá thành so sánh và dẫn đến mậu dịch quốc tế là: 1) Hai nước tồn tại
số lượng và lượng phân bổ yếu tố sản xuất khác nhau. 2) Tỉ lệ yếu tố sản xuất
mà hai nước sử dụng để sản xuất cùng một loại hàng hóa cũng không giống
nhau. Ohlin kế thừa truyền thống phân tích cân bằng thông thường của trường
phái Thụy Điển, tiếp thu luận điển của Heckscher và đã nghiên cứu một cách
sáng tạo trong “Mậu dịch khu vực và quốc tế” (1993), trình bày rõ tài nguyên
sẵn có của các nước khác nhau tức tình hình cung cấp yếu tố sản xuất khác
nhau là nguyên nhân cơ bản sản sinh mậu dịch quốc tế. Do lí luận mậu dịch
quốc tế của ông kế thừa của Heckscher nên được giới mậu dịch quốc tế gọi là
“định lý Heckscher và Ohlin” [16. tr.1322].
Định lý Heckcher-Ohlin cho rằng: sự phát triển của mậu dịch quốc tế lấy
sự khác nhau về sự sẵn có tương đối của yếu tố sản xuất các nước làm cơ sở,
một nước có loại yếu tố sản xuất tương đối dồi dào nào đó, trong trường hợp
nhu cầu giả định không thay đổi, giá cả của yếu tố này tất nhiên là tương đối
rẻ, nước đó sẽ có thể sản xuất những sản phẩm đòi hỏi sử dụng một số lượng
lớn yếu tố giá rẻ loại này, từ đó có ưu thế giá thành so sánh về mặt sản xuất
sản phẩm đó. Vì vậy, một nước phải xuất khẩu những sản phẩm trong sản
xuất tập trung sử dụng những yếu tố sản xuất tương đối phong phú của mình,
nhập khẩu những sản phẩm trong sản xuất tập trung sử dụng những yếu tố sản
xuất tương đối khan hiếm thiếu của mình. Các nước dựa vào yếu tố sản xuất

phong phú và hiếm thiếu để tiến hành phân công quốc tế, làm cho yếu tố sản
xuất được sử dụng hữu hiệu nhất.
Định lý Heckscher – Ohlin là một trong những lí luận cơ sở quan trọng
nhất trong lý luận mậu dịch quốc tế hiện đại, nó là cơ sở khoa học để mỗi
quốc gia lựa chọn và xác định các sản phẩm xuất khẩu phù hợp dựa trên cơ sở
phân tích các lợi thế so sánh về nguồn lực sản xuất, từ đó tích cực tham gia
vào phân công lao động và hợp tác quốc tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và toàn thế giới.

14


1.1.3. Lý thuyết thương mại quốc tế trong điều kiện các quốc gia đang
phát triển
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế thế giới chia thành 2
nhóm nước: Thứ nhất là nhóm các nước phát triển, đây là những nước đã
hoàn thành cách mạng công nghiệp, chuyển từ một nước nông nghiệp truyền
thống sang một nước công nghiệp hiện đại; Thứ hai là nhóm các nước đang
phát triển, đây là các nước mới giành được độc lập, còn lạc hậu về kinh tế- xã
hội, các nước này đều đang nỗ lực công nghiệp hóa để thoát ra khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế.
Việc lựa chọn và thực hiện lý thuyết thương mại, mô hình kinh tế và
chiến lược phát triển kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt đối với quá trình phát
triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các nước đang phát triển
là một tập hợp các quốc gia không thuần nhất về khuynh hướng phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội, có trình độ phát triển kinh tế rất khác nhau, vì vậy
việc áp dụng lý thuyết thương mại và mô hình kinh tế vào các nước đang phát
triển là hết sức phức tạp và thật sự là một thách thức lớn đối với các chính
phủ. Bởi vì:
Thứ nhất, một số quan điểm trong lý thuyết thương mại quốc tế của

trường phái Cổ điển và Tân cổ điển chưa phù hợp với các hoạt động ngoại
thương đã và đang được thực hiện bởi nhiều quốc gia đang phát triển.
Thứ hai, ở các nước đang phát triển, cơ cấu cứng nhắc và sự không hoàn
hảo của thị trường khiến cho cơ chế giá cả được đưa ra trong lý thuyết Tân cổ
điển không thể phát huy tác dụng đúng như mô hình lý thuyết của nó.
Thứ ba, nhiều nhà kinh tế cho rằng, tự do thương mại không phải lúc nào
cũng làm tăng phúc lợi kinh tế, trái lại trong một số hoàn cảnh có thể tạo ra
tình trạng bần cùng hóa. Từ đó các nhà kinh tế đề nghị nên có sự can thiệp
nhất định của nhà nước [29, tr.19].
Thứ tư, những người theo chủ nghĩa cấp tiến hay còn là các nhà mác –
xít mới (như Baran, 1957; Leys, 1975; Cardoso và Faletto, 1979; Do santot,
15


1973) cho rằng buôn bán giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển
đã được sử dụng như một công cụ để chuyển giá trị thặng dư từ các nước
đang phát triển sang các nước phát triển. Trong lịch sử, các nước đang phát
triển đã xuất khẩu nhiều nguyên, nhiên, vật liệu thô sang các nước phát triển,
đồng thời nhập khẩu các sản phẩm chế tạo. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng phụ thuộc của các nước thuộc địa vào các nước chính quốc. Những
người theo chủ nghĩa cấp tiến như Colman, Nixon (1986) và Palma (1978)
chứng minh rằng: Tình trạng phụ thuộc này đã làm chậm tốc độ tăng trưởng
kinh tế ở các nước đang phát triển.
Để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế, các nước đang
phát triển đã trải qua một trong những chiến lược phát triển kinh tế sau:
- Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, nội dung của chiến
lược này là sử dụng thuế và các hạn ngạch nhập khẩu nhằm bảo hộ các ngành
công nghiệp trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài. Với
chiến lược này, trong hai thập niên 50 và 60, nhiều nước đã khai thác, phát
huy được tiềm năng, thế mạnh về lao động, tài nguyên để phát triển mạnh mẽ

sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu. Nhờ vậy đã đạt được tốc độ cao về
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đến cuối những năm 1960, chiến
lược này nảy sinh một số bất cập như: hệ thống quản lý quan liêu, tham
nhũng, tình trạng sản xuất kém hiệu quả, lạm phát và thâm hụt ngày càng tăng
trong cán cân thanh toán, việc bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ đã khiến
nhiều quốc gia hoàn toàn không có khả năng đối mặt với sự cạnh tranh trên
thế giới.
- Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế: Thực chất đây là chiến
lược công nghiệp hóa hướng ngoại nhưng ở trình độ thấp. Trước những năm
50, chiến lược này đã mang lại sự tăng trưởng cho một số quốc gia phát triển
như Mỹ, Canada, Cộng hòa Liên bang Đức nhờ có lợi thế so sánh về xuất
khẩu lương thực, thực phẩm và một số khoáng sản thô khác. Cũng với chiến
lược này, một số nước như Côlômbia, Mêhicô, Malaysia, Philippin...đã có
những bước phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa, nhờ có lợi thế so

16


sánh về một số sản phẩm xuất khẩu như cao su, cà phê, dầu dừa, dầu cọ,
quặng kim loại...Tuy nhiên, việc thực hiện chiến lược này đã gặp phải những
trở ngại như: Hiệu quả kinh tế không cao, thường bị thua thiệt do giá cả thấp,
gây hậu quả xấu về môi trường sinh thái.
- Chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu: Trước những hạn chế
của chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu vào cuối những năm
1960, các nhà kinh tế học Tân cổ điển đã nhắc lại đề nghị của họ về chính
sách tự do hóa thương mại. Trên thực tế, các nước công nghiệp mới như
Braxin, Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan...đã theo đuổi chiến
lược phát triển hướng ngoại. Mục đích của chiến lược này là khuyến khích
việc sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa các nước đang phát triển có lợi
thế so sánh. Vì lao động dư thừa trong hầu hết các nước đang phát triển, nên

chiến lược khuyến khích xuất khẩu có khả năng tạo thêm số lượng lớn các sản
phẩm công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, chiến lược này cũng có
những hạn chế: Thứ nhất, các nước đang phát triển khó đẩy mạnh việc xuất
khẩu các sản phẩm thô sang các nước phát triển, bởi sự phát triển mạnh mẽ
của các vật liệu thay thế các sản phẩm tự nhiên và việc sử dụng nhiều biện
pháp nhằm hạn chế nông sản nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Thứ hai,
tiến trình mở rộng xuất khẩu các sản phẩm chế tạo tuy đạt được một số thành
công, nhưng cũng gặp nhiều trở ngại do các nước phát triển chủ yếu sử dụng
hàng rào phi thuế quan để hạn chế các sản phẩm chế tạo nhập khẩu từ các
nước đang phát triển. Thứ ba, chính sách khuyến khích xuất khẩu chưa tỏ ra
thuyết phục.
- Chiến lược phát triển hỗn hợp: là sự kết hợp hai hay ba loại chiến lược
nói trên. Mặc dù cho đến nay chưa có sự tổng kết đầy đủ về những nước đã áp
dụng chiến lược này, song tấm gương của Nhật Bản và một số quốc gia như
Hàn Quốc, Đài Loan...đã thành công lớn trong việc phát triển kinh tế nhờ kết
hợp cả hai chiến lược hướng nội, hướng ngoại, trong đó ưu tiên phát triển mạnh
hướng ngoại. Một số quốc gia có dân số đông, diện tích lãnh thổ lớn như Ấn
Độ, Inđônêxia, Trung Quốc...điển hình là Trung Quốc từ những năm 1980 trở
17


lại đây cũng đã gặt hái được nhiều thành công nhờ việc thực hiện chiến lược
phát triển hỗn hợp. Chiến lược này đang trong xu thế phát triển đầy hứa hẹn,
hiện đang được thế giới (đặc biệt là các nước đang phát triển) quan tâm.
1.1.4. Quan điểm của Trung Quốc về ngoại thương trong thời kỳ cải cách
và mở cửa
Cho đến nay, Trung Quốc đã có một nền kinh tế phát triển mạnh. Để có
được thành công này, Trung Quốc đã tiến hành thực hiện chính sách cải cách,
mở cửa nền kinh tế, đồng thời loại bỏ những tư duy kinh tế cũ, đưa ra hàng
loạt các ý tưởng mới, trong đó những quan điểm mới về ngoại thương đã

đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế của Trung Quốc những năm
qua. Cụ thể:
- Xóa bỏ tư tưởng tự cấp tự túc trong nền kinh tế kế hoạch tập trung và
tư tưởng cho rằng ngoại thương chỉ là phương tiện điều tiết tình trạng thừa
thiếu của nền kinh tế, đồng thời khẳng định lợi ích của nền kinh tế khi tham
gia phân công lao động và cạnh tranh quốc tế.
- Thừa nhận lý thuyết về lợi thế so sánh trong buôn bán quốc tế, đồng
thời khẳng định rằng: để mở rộng xuất khẩu, Trung Quốc cần tận dụng đầy đủ
các lợi thế của mình, đặc biệt là lợi thế về lao động rẻ.
- Khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa ngoại thương và tăng trưởng
kinh tế, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện cơ cấu hàng
xuất khẩu.
- Khẳng định việc quản lý xuất nhập khẩu theo nguyên tắc kế hoạch tập
trung đã ngăn cản sự phát triển ngoại thương. Vì vậy, cần phi tập trung hóa
việc quản lý ngoại thương.
- Khẳng định hệ thống giá cả và tỉ giá hối đoái cần phải hợp lý, cụ thể
giá cả hàng hóa về cơ bản do cung cầu thị trường quyết định, đồng thời chấm
dứt các chính sách phân biệt đối xử với hàng xuất khẩu.
- Khẳng định nền kinh tế thị trường phải hướng tới 3 điều có lợi: (1) Có
lợi cho sự phát triển của sức sản xuất XHCN; (2) Có lợi cho việc tăng cường
18


sức mạnh tổng hợp của nhà nước XHCN; (3) Có lợi cho việc nâng cao mức
sống của nhân dân. Đây được coi là lý thuyết 3 có lợi [11, tr.84].
- Phát triển kinh tế nhiều loại sở hữu, coi kinh tế công hữu là chủ thể,
kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển.
- Mở rộng phạm vi và qui mô của thị trường, trong đó khuyến khích phát
triển tối đa thị trường hàng hóa tiêu dùng, tạo điều kiện phát triển các yếu tố
sản xuất khác như: thị trường đất đai, lao động, vốn, công nghệ...

- Khẳng định tư tưởng lấy thị trường làm phương hướng, xây dựng một
hệ thống thị trường thống nhất, mở cửa, cạnh tranh và có trật tự.
- Vai trò và cách thức quản lý kinh tế của Nhà nước đã có sự thay đổi
căn bản. Đặc biệt trong việc điều tiết vĩ mô, Chính phủ Trung Quốc đã thay
đổi hẳn về mặt phương thức, trong đó họ lấy thị trường làm căn cứ, làm cơ sở.
Hiện nay, Chính phủ Trung Quốc về cơ bản chỉ tập trung vào những vấn đề
then chốt sau: 1) Đảm bảo sự cân bằng tổng lượng kinh tế. 2) Khống chế và
kiểm soát lạm phát. 3) Thúc đẩy tối ưu hóa cơ cấu kinh tế ở bình diện lớn. 4)
Thực hiện tăng trưởng kinh tế ổn định. 5) Bảo đảm điều hòa giữa sự phát triển
kinh tế và các vấn đề xã hội.
Trung Quốc đã có một cuộc giải phóng tư tưởng mạnh mẽ và một loạt
quan điểm mới của Trung Quốc về vai trò của ngoại thương đối với phát triển
kinh tế. Những quan điểm trên tuy chưa đủ hình thành nên một hệ thống lý
thuyết rõ ràng về ngoại thương, nhưng đã góp phần quan trọng vào việc hình
thành các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Trung Quốc về phát
triển ngoại thương.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.2.1. Những điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam –
Trung Quốc
1.2.1.1. Vị trí địa lý
Việt Nam và Trung Quốc có chung đường biên giới dài khoảng 1353 km
[19, tr. 234], bao gồm 7 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam tiếp giáp với hai
19


×