Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Pháp luật về hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần tại việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.72 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

LÂM KHUÊ TRÚC

PHÁP LUẬT VỀ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TẠI VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

LÂM KHUÊ TRÚC

PHÁP LUẬT VỀ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TẠI VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

CHUYÊN NGÀNH: Luật Kinh tế
MÃ SỐ: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HUỲNH THANH NGHỊ


TP. Hồ Chí Minh - Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tác phẩm, bài viết được trích dẫn trong Luận văn theo nguồn đã được
công bố đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của Luận văn là trung thực mà chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, năm 2017
Tác giả luận văn

Lâm Khuê Trúc


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN .............................. 6
1.1 Khái niệm chung về ngân hàng thương mại cổ phần và quản trị ngân hàng
thương mại cổ phần ..................................................................................... 6
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của Ngân hàng thương mại cổ phần ................. 6
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần .... 9
1.1.3 Vai trò và lợi ích của quản trị ngân hàng hiệu quả ............................... 11

1.2 Hội đồng quản trị ...................................................................................... 13
1.2.1 Lịch sử của Hội đồng quản trị ............................................................... 13
1.2.2 Đặc điểm của Hội đồng quản trị ........................................................... 15
1.2.3 Cơ cấu của Hội đồng quản trị ............................................................... 17
1.2.3.1 Số lượng của thành viên Hội đồng quản trị ........................................ 17
1.2.3.2 Điều kiện trở thành thành viên Hội đồng quản trị .............................. 18
1.2.3.3 Phẩm chất, năng lực của thành viên Hội đồng quản trị ...................... 22
1.2.3.4 Các dạng thành viên Hội đồng quản trị .............................................. 23
1.2.3.5 Chức năng của Hội đồng quản trị ....................................................... 27
1.2.3.6 Mô hình Hội đồng quản trị trong công ty của các nước trên thế giới và
Việt Nam .......................................................................................................... 29


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ HƯỚNG HOÀN
THIỆN ...................................................................................................................... 33

2.1 Thành viên Hội đồng quản trị không điều hành ....................................... 33
2.2 Thành viên Hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần là tổ chức 36
2.3 Thành viên Hội đồng quản trị độc lập ....................................................... 39
2.4 Quyền và nghĩa vụ của Hội đồng quản trị ................................................. 43
2.4.1 Quyền và trách nhiệm của Hội đồng quản trị ......................................... 43
2.4.2 Quyền giám sát hoạt động điều hành kinh doanh của Tổng giám
đốc/Giám đốc .......................................................................................... 46
2.5 Hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về Hội đồng quản trị ngân hàng
thương mại cổ phần .......................................................................................... 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BKS: Ban kiểm soát
BĐH: Ban điều hành
CTCP: Công ty cổ phần
ĐHĐCĐ: Đại hội đồng cổ đông
GĐ: Giám đốc
HĐQT: Hội đồng quản trị
IFC: Công ty tài chính quốc tế
KSV: Kiểm soát viên
LDN: Luật doanh nghiệp
LCTCTD: Luật các tổ chức tín dụng
NĐ: Nghị định
NĐT: Nhà đầu tư
NHTM: Ngân hàng thhương mại
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
TCTD: Tổ chức tín dụng
TGĐ: Tổng giám đốc
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TVĐL: Thành viên độc lập
WTO: Tổ chức thương mại thế giới


TÓM TẮT LUẬN VĂN

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về Hội đồng quản trị ngân hàng thương
mại cổ phần
Trong chương 1, Tác giả trình bày những vấn đề về Hội đồng quản trị ngân
hàng và đi sâu vào phân tích đặc điểm và cơ cấu của Hội đồng quản trị. Cụ thể,
phân tích và làm rõ khái niệm về quản trị, vai trò của quản trị ngân hàng hiệu quả,

các dạng thành viên Hội đồng quản trị và chức năng của Hội đồng quản trị.
Theo đó, khái niệm về quản trị ngân hàng được định nghĩa là các thoả thuận
về quyền hạn, nghĩa vụ, vai trò và trách nhiệm của các cơ quan khác nhau trong
doanh nghiệp bao gồm Hội đồng quản trị, Ban điều hành, các cổ đông lớn và cổ
đông thiểu số nếu xét về khía cạnh nội bộ. Ở khía cạnh bên ngoài, các thoả thuận
này bị chi phối bởi các quy tắc, luật lệ bên ngoài nhằm tạo ra một sân chơi bình
đẳng, minh bạch, công bằng bất kể là từ cổ đông hay Hội đồng quản trị.
Về đặc điểm và cơ cấu của Hội đồng quản trị, Tác giả muốn đi sâu phân tích
các loại thành viên Hội đồng quản trị trong đó vai trò của thành viên Hội đồng quản
trị không điều hành và thành viên Hội đồng quản trị độc lập đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong việc nâng cao chức năng giám sát của Hội đồng quản trị.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về Hội đồng quản trị ngân hàng
thương mại cổ phần và hướng hoàn thiện.
Trong chương 2, Tác giả sẽ phân tích thực trạng quy định pháp luật Việt Nam
về các vấn đề pháp lý về Hội đồng quản trị theo Luật Doanh nghiệp 2014, Luật các
tổ chức tín dụng 2010 và các văn bản có liên quan, đồng thời so sánh với quy định
pháp luật của các nước trên thế giới. Qua đó, Tác giả sẽ chọn lọc những quy định
tiến bộ từ các nước và phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam để đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về quản trị Hội đồng quản trị
tại ngân hàng thương mại cổ phần.


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và đặc biệt là kể từ khi


Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO vào đầu năm 2007, vấn đề
quản trị doanh nghiệp đã được đặt ra như là một yêu cầu cấp thiết và quan trọng
trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Quản trị doanh nghiệp tốt đồng nghĩa với
khả năng tiếp cận tài chính, đầu tư, nâng cao giá trị tăng trưởng...
Năm 2011 các ngân hàng thương mại nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh,
có kinh nghiệm quốc tế dày dặn đã được quyền bình đẳng trên mọi lĩnh vực với các
ngân hàng thương mại trong nước. Hoạt động tài chính ngân hàng tại Việt Nam
ngày càng trở nên đa dạng hơn. Việc giữ thị phần và phát triển kinh doanh trong
một môi trường cạnh tranh gay gắt ngày càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Để
có thể tự tin trụ vững và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt với các ngân
hàng ngoại, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần nâng cao công tác quản trị
ngân hàng và đáp ứng các tiêu chuẩn quản trị quốc tế.
Trong cơ cấu tổ chức quản lý của ngân hàng thương mại cổ phần, Hội đồng
quản trị là cơ quan quản trị, hoạch định những chiến lược, giám sát hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, cơ quan tuyển chọn bộ máy điều hành và là đại diện của chủ
sở hữu. Nếu Hội đồng quản trị hoạt động tốt thì ngân hàng phát triển tốt, các quyết
định và hành động của Ban điều hành thể hiện đúng ý chí và đảm bảo lợi ích của cổ
đông và những người có lợi ích liên quan nhằm vào sự phát triển dài hạn của ngân
hàng.
Thời gian qua, tại Việt Nam, khung pháp luật về quản trị ngân hàng thương
mại cổ phần đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Việc thay thế Luật
ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 bằng Luật
ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, cũng như
việc ban hành mới quy định về quản trị công ty đối với công ty đại chúng là những
điển hình thực tế nhất.


2

Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, pháp luật về Hội đồng quản trị ngân

hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam đã phát sinh những mâu thuẫn, bất cập, chưa
phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Xuất phát từ thực trạng trên, Tác giả đã quyết
định chọn đề tài “Pháp luật về Hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần
tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” để làm Luận văn thạc sĩ luật học cho mình.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tại Việt Nam từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, báo cáo

khoa học về vấn đề quản trị công ty như:
Luận văn thạc sĩ của học viên Trần Lương Đức tại Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2007, với đề tài “Chế độ pháp lý về quản trị công ty theo Luật doanh nghiệp”.
Đề tài tập trung phân tích các vấn đề đến việc quản trị nội bộ trong công ty cổ phần
theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, làm rõ mối quan hệ và sự tác động ảnh
hưởng lẫn nhau của các bộ phận cấu thành công ty trong đó đề cập đến việc: Quyền
và nghĩa vụ của cổ đông, đối xử công bằng với cổ đông, minh bạch hóa thông tin
trong công ty, Hội đồng quản trị, quản trị điều hành và cơ chế giám sát trong công
ty.
Bài báo “Quản trị công ty cổ phần của các công ty cổ phần ở Việt Nam” của
tác giả Trương Lê Quốc Công được đăng trên Tạp chí Chứng khoán ngày
26/10/2004 và “Một số giải pháp cơ bản quản trị công ty cổ phần” của tác giả
Nguyễn Đình Cung được đăng tải trên Tạp chí chứng khoán ngày 30/12/2005. Hai
bài báo này tác giả lấy Luật Doanh nghiệp 1999 để làm căn cứ pháp lý cho việc
nghiên cứu của mình. Những công trình này đã có những đóng góp to lớn về mặt
khoa học, tuy nhiên bài báo chỉ tập trung vào phân tích các vấn đề có tính nguyên
tắc về quản trị của công ty cổ phần nói chung.
Trên cơ sở tham khảo các đề tài trên, trong Luận văn của mình, Tác giả sẽ đi
sâu nghiên cứu phân tích Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần trên
cơ sở đánh giá những tồn tại, hạn chế của pháp luật hiện hành để từ đó đề xuất
hướng hoàn thiện cụ thể.



3

3.

Câu hỏi nghiên cứu
Với những thực trạng về Hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần tại

Việt Nam trong tình hình hiện này, các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra cho Luận
văn này như sau:
-

Hội đồng quản trị tại các công ty cổ phần nói chung và ngân hàng thương mại

cổ phần nói riêng có những đặc thù gì mà các nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam đặc biệt quan tâm?
-

Vấn đề về tổ chức, quản trị của Hội đồng quản trị tại các công ty cổ phần nói

chung và ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng đang được pháp luật quy định
như thế nào? Các quy định này có phù hợp với thực tiễn hay không? Còn vướng
mắc, bất cập gì cần phải được tháo gỡ?
-

Với những khó khăn, hạn chế nêu trên thì cần phải có những giải pháp gì để

hoàn thiện các quy định về quản trị của Hội đồng quản trị tại các ngân hàng thương
mại cổ phần ở Việt Nam và làm cho các quy định này dễ dàng áp dụng trong thực

tiễn (trên cơ sở đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên
thế giới, các nguyên tắc quản trị của Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế)?
4.

Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm góp phần phân tích và khái quát

một số vấn đề cơ sở lý luận về Hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần.
Đồng thời phân tích thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về Hội đồng
quản trị ngân hàng thương mại cổ phần từ đó rút ra được những kết quả đã đạt được
cũng như nhìn nhận những bất cập, hạn chế về vấn đề này. Trên cơ sở đó Tác giả sẽ
đề xuất một số giải pháp, kiến nghị mang tính cụ thể, đồng bộ nhằm hoàn thiện các
quy định về Hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay ở nước ta.
Để đạt được mục đích nêu trên, Tác giả sẽ tập trung vào các mục tiêu như sau:
Thứ nhất, tìm hiểu về vấn đề cơ bản của Hội đồng quản trị.


4

Thứ hai, phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam điều
chỉnh về Hội đồng quản trị của công ty nói chung và ngân hàng thương mại cổ
phần nói riêng.
Thứ ba, phân tích thực trạng về quản trị của Hội đồng quản trị tại các ngân
hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam..
Thứ tư, phân tích và so sánh quy định của pháp luật của Việt Nam và một số
quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Anh,… về Hội đồng quản trị và đề ra một số
giải pháp góp phần hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành.
Hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần là một vấn đề khá rộng lớn
và nhiều vấn đề để nghiên cứu. Do đó, để đạt được mục đích nêu trên, đề tài sẽ tập
trung nghiên cứu các vấn đề sau:

-

Quy định pháp lý có liên quan đến Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương
mại cổ phần theo quy định tại Luật doanh nghiệp năm 2014, Luật các tổ chức
tín dụng, Nghị định 59/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của ngân hàng
thương mại, Thông tư 121/2012/TT-BTC về quản trị công ty đại chúng.

-

Phân tích một số vấn đề về Hội đồng quản trị theo pháp luật của một số quốc
gia khác cũng như so sánh với các nguyên tắc quản trị của Tổ chức phát triển
và hợp tác kinh tế (OECD), từ đó rút ra một số ưu điểm phù hợp với thực tiễn
tại Việt Nam cần áp dụng trong thực tế.

5.

Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp sau

đây:
-

Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này nhằm làm rõ quy

định của pháp luật về Hội đồng quản trị tại các ngân hàng thương mại cổ phần.
-

Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Phương pháp này được sử dụng

để tìm ra những bất cập trong quản trị, điều hành của Hội đồng quản trị tại các ngân

hàng thương mại cổ phần.
-

Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để đối chiếu các quy

định về Hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần theo quy định pháp luật


5

Việt Nam với thông lệ quốc tế và quy định pháp luật của một số quốc gia tiến bộ
trên thế giới để lý giải các vấn đề trong Luận văn và đề xuất các giải pháp hoàn
thiện.
6.

Kết cấu của Luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn được chia thành 2 Chương :
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về Hội đồng quản trị ngân hàng thương
mại cổ phần
Chương 2. Thực trạng quy định của pháp luật về Hội đồng quản trị ngân hàng
thương mại cổ phần và hướng hoàn thiện.


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

1.1. Khái niệm chung về ngân hàng thương mại cổ phần và quản trị ngân
hàng thương mại cổ phần.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Ngân hàng thương mại cổ phần
Quá trình hình thành và hoàn thiện hệ thống ngân hàng đã tạo ra các NHTM
mà được biết đến với chức năng kinh doanh tiền tệ. Không giống như các tổ chức
tài chính khác, NHTM luôn được coi là bách hoá tài chính, cung ứng rất nhiều các
sản phẩm, dịch vụ về tài chính. “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là cấp tín dụng, gửi tiết
kiệm và dịch vụ thanh toán – và cũng thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”1. Để xây dựng khái niệm
NHTM, có thể dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài
chính, hoặc kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Theo pháp luật của nước Mỹ: “Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền
gửi 1 Ngân hàng Trung ương Thụy Điển – Bank of Sweden thành lập vào năm 1669
được coi là ngân hàng trung ương đầu tiên trên thế giới, tiếp đến là Ngân hàng
Trung ương Anh – Bank of England, 1694, Ngân hàng Trung ương Mỹ – US
Federal Reserve, 1912 cho phép Khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách
viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay
cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng”.
Theo Luật Ngân hàng Pháp năm 1941 thì những xí nghiệp hay cơ sở hành
nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác
các số tiền mà họ dùng vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay tài chính thì
được coi là ngân hàng.
1

Peter S. Rose (2002), Commercial Bank Managament, Richard D. Irwin, Inc.


7


Luật Ngân hàng Ấn Độ năm 1950 (bổ sung năm 1959) quy định: Ngân hàng
là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư.
Khái niệm ngân hàng thương mại tại Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930
dựa trên sự kết hợp với đối tượng hoạt động: “Những ngân hàng thiết yếu gồm các
nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá
trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển
ngân, bảo hiểm,…”.
Pháp luật Việt Nam cũng đưa ra khái niệm về ngân hàng khá thống nhất với
các quốc gia khác trên thế giới, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 xác định:2
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân
hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác
xã.
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số các nghiệp vụ sau :
- Nhận tiền gửi;
- Cấp tín dụng;
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
LCTCTD 2010 không trực tiếp đưa ra khái niệm NHTM và NHTMCP mà chỉ
định nghĩa thông qua khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân hàng. Khái niệm
NHTM và NHTMCP được NĐ 59/2009/NĐ-CP định nghĩa như sau: “Ngân hàng
thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật
các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.
Ngân hàng thương mại cổ phần là ngân hàng thương mại được tổ chức dưới
hình thức công ty cổ phần”3.

2
3


Điều 4 LCTCTD 2010.
Khoản 1 và Khoản 3 Điều 5 Nghị định 59/2009/NĐ-CP


8

Theo đó, các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng không được phép sử dụng
thuật ngữ “ngân hàng” trong tên của tổ chức, trong các phần phụ thêm của tên, văn
bản, thông báo hoặc quảng cáo của mình mà thuật ngữ đó có thể gây nhầm lẫn cho
công chúng về việc tổ chức của mình là một ngân hàng.4
Từ các khái niệm trên có rút ra một số đặc điểm cơ bản của NHTMCP như
sau5:
Một là, NHTM là một doanh nghiệp đặc thù kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ
- tín dụng. Các hoạt động của NHTM nhằm thúc đẩy và lưu chuyển các dòng tiền tệ
phục vụ cho việc giao dịch, thanh toán phát sinh hàng ngày trong nền kinh tế, đồng
thời thông qua các hoạt động huy động vốn và cho vay các NHTM có khả năng tạo
tiền từ các nghiệp vụ kinh doanh của mình thông qua các công cụ lãi suất, tỷ giá. Vì
vậy, NHTM còn là một mắt xích góp phần ổn định chính sách tiền tệ quốc gia, đặc
biệt là các quốc gia đang chuyển đổi nền kinh tế để tham gia hội nhập khu vực và
quốc tế như nước ta.
Hai là, sản phẩm hàng hóa mà ngân hàng kinh doanh và làm dịch vụ là tiền
và các chứng từ có giá như cổ phiếu, thương phiếu, hối phiếu, trái phiếu, tín phiếu...
Đó là sản phẩm cao cấp của nền kinh tế thị trường vì vậy nó vận động theo một quy
trình và phải được điều hành bởi nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn nhất định,
dựa trên những cơ sở do luật pháp quy định.
Ba là, trong quá trình hoạt động, NHTM không tạo ra sản phẩm dở dang, tồn
kho mà tạo ra sản phẩm hàng hóa trực tiếp cung ứng cho người tiêu dùng khi có
nhu cầu, bởi lẽ đó hoạt động của ngân hàng dựa vào thương hiệu, uy tín tạo ra đối
với khách hàng vì vậy các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng, dịch
vụ cung cấp và không ngừng quảng bá tiếp thị hình ảnh của mình đối với khách

hàng.
Bốn là, hoạt động ngân hàng là cầu nối giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp,
cá nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các cá nhân có nhu
cầu vay vốn vì vậy các ngân hàng góp phần không nhỏ vào việc giải quyết nạn thất
4
5

Điều 3 Nghị định 59/2009/NĐ-CP.
Phan Thị Cúc (2008), Giáo trình tín dụng ngân hàng, NXB Thống Kê, trang 12 – 13.


9

nghiệp, nâng cao nhu cầu và mức sống của dân cư, góp phần ổn định trật tự xã hội
cũng như góp phần đảm bảo vốn đối với các ngành kinh tế nhằm phát triển ngành
nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần
Các NHTMCP – bản thân chúng cũng là doanh nghiệp, song đó là các doanh
nghiệp đặc biệt. Do đó, quản trị NHTMCP cũng giống như quản trị một doanh
nghiệp hoặc một công ty.
Thuật ngữ Corporate Governance tạm dịch là quản trị doanh nghiệp đã được
thừa nhận rộng rãi và được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển (OECD): “Quản trị công ty là hệ thống
các cơ chế, các hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các quyền và
nghĩa vụ giữa cổ đông, Hội đồng quản trị, các chức năng quản lý và những người
có lợi ích liên quan, quy định trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng
cách này, công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương diện
thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó”6.
Theo Ngân hàng thế giới (WB): Quản trị là một hệ thống các yếu tố pháp luật,
thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho phép công ty có thể thu hút

được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả và nhờ đó tạo ra các
giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi vẫn tôn trọng quyền lợi của những
người có lợi ích liên quan và của xã hội. Đặc điểm cơ bản nhất của một hệ thống
quản trị công ty là7:
i.

Tính minh bạch của các thông tin tài chính, kinh doanh và quá trình giám sát
nội bộ đối với hoạt động quản lý;

ii. Bảo đảm thực thi các quyền của cổ đông;
iii. Các thành viên trong HĐQT có thể hoàn toàn độc lập trong việc thông qua
các quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh doanh, tuyển dụng người quản lý
6

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) (2004), Các nguyên tắc quản trị công ty.
Cao Đình Lành (2/2008), Tiếp cận quản trị Công ty cổ phần trên phương diện kết hợp hài hoà lợi ích của
các bên, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật

7


10

trong việc giám sát tính trung thực và hiệu quả của hoạt động quản lý và trong
việc miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết.
Các định nghĩa trên cho thấy, quản trị công ty trước hết bao gồm các thiết chế
điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ sở hữu với nhau và giữa họ với bộ máy
điều hành trong những doanh nghiệp qui mô lớn mà sở hữu và điều hành đã bắt đầu
tách rời.8 Quản trị công ty nhằm bảo vệ lợi ích của các bên liên quan trong chính
các doanh nghiệp kinh doanh.

Tương tự, quản trị ngân hàng cũng được thiết lập dựa trên những cốt lõi này.
Trong NHTMCP, việc quản trị sẽ là một cơ chế nhằm điều khiển và kiểm soát hoạt
động của ngân hàng. Nói đến quản trị, các nhà kinh tế học và các chuyên gia ngân
hàng sẽ hình dung không những là việc quản trị, thực hiện quyết định và tổ chức
nội bộ của các ngân hàng mà còn là việc quản trị thanh khoản (khả năng thanh toán
và quy mô của ngân hàng), quản trị tài sản có, tài sản nợ, quản trị vốn, quản trị tín
dụng9.
Như vậy, có thể thấy hoạt động quản trị ngân hàng thương mại cổ phần sẽ có các
đặc điểm sau:
Một là, hoạt động ngân hàng chịu sự tác động mạnh mẽ từ các thông tin về tài
chính được đưa ra từ nhiều nguồn khác nhau và khó nhận định đánh giá. Cùng với
đó là sự đa dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý, nhiều khoản nợ ngắn
hạn dẫn đến độ rủi ro hoạt động là rất cao và rất dễ dẫn đến phá sản, chịu sự quản
lý chặt chẽ với nhiều quy định khắt khe và chi tiết do tầm quan trọng trong hệ
thống, nếu đổ vỡ có thể gây ra tổn thất lớn và trên phạm vi rộng.
Hai là, quản trị điều hành được đặt trên cơ sở của sự tách bạch giữa quản lý và
sở hữu. NHTMCP do các cổ đông là chủ sở hữu, nhưng để công ty tồn tại và phát
triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của BĐH, sự giám sát của BKS
và sự đóng góp của người lao động, những người này không phải lúc nào cũng có
chung ý chí và quyền lợi. Điều này dẫn đến cần phải có một cơ chế để nhà đầu tư

8
9

Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo về Luật kinh tế, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
Lê Văn Tề, Nguyễn Thị Xuân Liễu (2003), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê, Hà Nội


11


cũng như cổ đông có thể hướng hoạt động của ngân hàng phát triển, đem lại hiệu
quả cao nhất.
Cuối cùng, quản trị NHTMCP xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các
nhóm lợi ích, các thành viên khác nhau trong ngân hàng, bao gồm các cổ đông,
HĐQT, BĐH, BKS. Đồng thời, quản trị ngân hàng cũng lập ra các quy tắc, quy
trình, thủ tục ra các quyết định trong ngân hàng, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng
quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ
các giao dịch với các bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc
không có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin
và không minh bạch.
1.1.3. Vai trò và lợi ích của quản trị ngân hàng hiệu quả
Quản trị NHTM là một vấn đề rất quan trọng vì nhiều lý do:
Thứ nhất, NHTM chiếm vị trí chủ đạo trong hệ thống tài chính của các nền
kinh tế đang phát triển và là công cụ cực kỳ quan trọng của tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, do thị trường tài chính tại các nền kinh tế đang phát triển thường phát
triển chậm, NHTM thường được coi là nguồn cung cấp tài chính quan trọng nhất
đối với phần lớn các doanh nghiệp.
Thứ ba, ngoài việc cung cấp phương tiện thanh toán, NHTM ở các nước đang
phát triển còn là kênh nhận tiền gửi tiết kiệm chính của nền kinh tế.
Có thể thấy NHTM là trung gian tài chính quan trọng của nền kinh tế, do đó,
công chúng và thị trường có sự nhảy cảm rất lớn đối với bất kỳ khó khăn nào nảy
sinh từ những hạn chế rất nhỏ trong ngân hàng. Quản trị công ty yếu kém có thể
dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng, gây nên những tổn thất kinh tế và xã hội cực
kỳ nghiêm trọng do những ảnh hưởng tiêu cực lên hệ thống bảo hiểm tiền gửi, cũng
như gây tác động lớn về kinh tế vĩ mô, ví dụ như rủi ro dây chuyền, làm ảnh hưởng
xấu đến các hệ thống thanh toán. Điều này đã được minh chứng qua cuộc khủng
hoảng tài chính bắt đầu giữa năm 2007. Ngoài ra, quản trị công ty yếu kém có thể
khiến thị trường mất niềm tin vào khả năng quản lý hiệu quả tài sản và nợ phải trả



12

của ngân hàng, kể cả tài sản tiền gửi. Điều này có thể châm ngòi cho việc rút tiền
gửi đột biến và dẫn đến khủng hoảng khả năng thanh toán của ngân hàng. Thực tế,
ngoài trách nhiệm với cổ đông, các ngân hàng còn có trách nhiệm với các khách
hàng gửi tiền của mình và với các bên có quyền lợi liên quan khác. Bởi vậy, hoạt
động của NHTM luôn chịu sự điều chỉnh của hệ thống luật định chặt chẽ và sự
giám sát thường xuyên. Trong đó có nhiều hướng dẫn và khuyến nghị về quản trị
NHTM đã được ban hành.
Quản trị ngân hàng hiệu quả là điều kiện cần thiết để xây dựng và duy trì sự
tín nhiệm và lòng tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng giúp ngân hàng
có thể minh bạch hơn, giá trị cao hơn và tạo điều kiện giám sát tốt hơn. Đây chính
là những yếu tố cốt yếu cho sự vận hành lành mạnh của ngành ngân hàng cũng như
toàn bộ nền kinh tế. Những ngân hàng thực hiện tốt việc quản trị thường có khả
năng tiếp cận dễ dàng hơn tới các nguồn vốn giá rẻ, và thường đạt được hiệu quả
hoạt động cao hơn so với các ngân hàng khác. Những ngân hàng kiên trì theo đuổi
các tiêu chuẩn cao trong quản trị ngân hàng sẽ giảm thiểu nhiều rủi ro liên quan tới
các khoản đầu tư trong ngân hàng. Đối với những ngân hàng tích cực thực hiện các
biện pháp quản trị lành mạnh cần phải có một đội ngũ nhân viên chủ chốt nhiệt tình
và có đủ năng lực để xây dựng và thực thi các chính sách quản trị ngân hàng hiệu
quả. Những ngân hàng này thường đánh giá cao công sức của những nhân viên đó
và bù đắp xứng đáng cho họ, trái với nhiều ngân hàng khác thường không nhận
thức rõ hoặc phớt lờ lợi ích của các chính sách và những biện pháp quản trị. Đồng
thời, các ngân hàng thực hiện những biện pháp quản trị hiệu quả như vậy thường
hấp dẫn hơn trong con mắt của các NĐT, những người sẵn sàng cung cấp vốn cho
ngân hàng với chi phí thấp hơn.
Nhìn chung, các NHTMCP nói riêng và CTCP nói chung thực hiện tốt việc
quản trị sẽ đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế quốc dân và cho xã hội. Những
ngân hàng này thường là những ngân hàng vững mạnh có thể tạo ra của cải vật chất
và giá trị khác cho các cổ đông, người lao động, cộng đồng và quốc gia; trái lại,

những ngân hàng có hệ thống quản trị yếu kém sẽ dẫn đến việc người lao động bị


13

mất công ăn việc làm, mất tiền trợ cấp và thậm chí có thể còn làm giảm niềm tin
trên thị trường chứng khoán.
1.2. Hội đồng quản trị
HĐQT là một thiết chế quan trọng, từng được ví là “khối óc” của doanh
nghiệp. HĐQT chịu trách nhiệm chỉ đạo và xây dựng chiến lược, giám sát kết quả
quản trị, đảm bảo sự trung thực của báo cáo tài chính, có kế hoạch đào tạo nhân sự
kế nhiệm cho các vị trí quản lý cấp cao. HĐQT hoạt động vì lợi ích của ngân hàng,
bảo vệ quyền lợi của tất cả các cổ đông, do đó, một HĐQT độc lập, chuyên nghiệp
và hiệu quả đóng vai trò thiết yếu trong việc thực thi những biện pháp quản trị ngân
hàng hiệu quả.
1.2.1. Lịch sử của Hội đồng quản trị
Trong xã hội công nghiệp hoá, toàn cầu hoá hiện nay, các loại hình công ty là
các thành tố cơ bản của nền kinh tế thị trường. Trong tất cả các loại công ty, CTCP
nói chung và NHTMCP nói riêng là loại hình tiêu biểu của công ty hiện đại, nhiều
NHTMCP trên thế giới có quy mô lớn với cơ cấu tổ chức phức tạp, có ảnh hưởng
sâu sắc đến xã hội. Thậm chí, thực sự về các mặt, NHTMCP hiện đại đã rất giống
như một quốc gia thu nhỏ. Xuất phát từ tầm quan trọng của NHTMCP và đi theo sự
trưởng thành và phát triển của nó, vấn đề quản trị công ty trở thành sự quan tâm
nghiên cứu rộng rãi của các quốc gia trên thế giới.
Sự tách biệt quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh là một đặc trưng
mang tính bản chất của NHTMCP so với các loại hình doanh nghiệp khác. Từ đặc
điểm này đã đưa ra một vấn đề mang tính trọng yếu và then chốt đó chính là cơ cấu
tổ chức quản lý ngân hàng cổ phần. Cơ cấu tổ chức của một NHTMCP là một tổ
chức bị ảnh hưởng lớn đến tư tưởng “phân quyền và chế ước” của lý luận chính trị
dân chủ phương tây để xây dựng nền dân chủ pháp quyền. NHTMCP của các nước

tuy có thể có bộ máy quản lý khác nhau nhưng tư tưởng lập pháp cũng như các điều
luật lại có điểm giống nhau là xét ở góc độ pháp lý. Điểm nổi bật là ba cơ quan
quyền lực và chức năng (ĐHĐCĐ, HĐQT và TGĐ, BKS) phân chia các quyền


14

năng quyết định, quản lý điều hành và kiểm soát mà ẩn sau nó chính là nguyên tắc
mỗi bên có quyền, trách nhiệm rõ ràng, chế ước lẫn nhau. Phân quyền và chế ước là
vấn đề trọng tâm, then chốt của mỗi ngân hàng nói chung, trong đó mạnh mẽ nhất,
nổi bậc nhất là NHTMCP – loại hình công ty đối vốn triệt để.
Trong NHTMCP, HĐQT là một trong ba cơ quan trong tổ chức của
NHTMCP. Đây là cơ quan đại diện cho chủ sở hữu thực hiện quyền quản lý ngân
hàng. Điều này có nghĩa là quyền lực của đông người (ngân hàng có số lượng cổ
đông lên tới hàng triệu người) nay tập trung cho một số người. Số người này tập
hợp thành một cơ quan, gọi là HĐQT. Đi theo sự phát triển của NHTMCP, quyền
lực của ngân hàng ngày càng tập trung vào cơ quan quản lý của ngân hàng là
HĐQT. Điều này về khía cạnh lập pháp chính là tư tưởng HĐQT nằm ở vị trí trung
tâm của ngân hàng – có vai trò trọng yếu và quyền lực to lớn. HĐQT là cơ quan
điều hành, liên quan đến sự thắng bại, suy thịnh của ngân hàng. Nói một cách khác,
HĐQT là cơ quan then chốt của cơ cấu quản lý ngân hàng. Xét về vị trí này, người
ta phát hiện quyền lực của ngân hàng cội nguồn từ quyền lực HĐQT. Rồi sau đó,
một phần quyền lực sẽ được chuyển giao cho TGĐ.
Phần lớn pháp luật điều chỉnh quản trị NHTMCP liên quan đến HĐQT, với
nhiều quy định cụ thể được xây dựng nhằm củng cố lòng tin của NĐT, của người
gửi tiền rằng các thành viên HĐQT sẽ làm những điều đúng đắn. HĐQT chịu trách
nhiệm quản lý hoặc định hướng cho các hoạt động của ngân hàng. Điều minh
chứng cho vị trí trung tâm của HĐQT, ngay từ đầu thế kỷ XX, Luật Công ty cổ
phần Đức (1937) đã quy định: HĐQT chỉ đạo công ty (Điều 76), đại diện công ty
trong hoạt động tố tụng và ngoài tố tụng (Điều 78). Còn ĐHĐCĐ chỉ quyết định

những vấn đề đặc thù mà phát luật và điều lệ công ty đã quy định. Đối với các vấn
đề thuộc về phạm vi nghiệp vụ kinh doanh, ĐHĐCĐ có quyền quyết định khi
HĐQT yêu cầu (Điều 119). Điều 80 Luật Công ty Anh có quy định: nghiệp vụ công
ty do HĐQT điều hành. HĐQT có thể thực hiện tất cả các quyền mà pháp luật công
ty và điều lệ công ty không quy định là thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ, chỉ cần
HĐQT tuân thủ các quy định của luật công ty và các quy chế do ĐHĐCĐ ban hành.


15

Việc xác lập HĐQT nằm ở vị trí trung tâm của quyền lực ngân hàng là một
kết quả tất yếu trong sự phát triển của nền kinh tế, cũng như NHTMCP. Tuy nhiên,
các nhà làm luật đã thấy yếu tố bất cập khi quyền lực của HĐQT ngày càng bành
trướng, trong một khả năng có thể, nó tiềm ẩn nguy cơ phá hoại cơ chế phân quyền
và chế ước quyền lực của công ty. Trước nguy cơ này, các nhà làm luật đã nổ lực
tìm giải pháp hạn chế quyền lực của HĐQT như tăng cường giám sát hoạt động của
HĐQT, hay bổ sung thành viên HĐQT độc lập hay quy định thành viên HĐQT hạn
chế một số việc nhất định…
1.2.2. Đặc điểm của Hội đồng quản trị
HĐQT là cầu nối giữa chủ sở hữu và các nhà quản trị, nhiệm vụ của họ là bảo
vệ lợi ích của cổ đông, đặc biệt là thực hiện trách nhiệm quản lý và giám sát hành
vi của nhà quản trị, đưa ra các quyết định quan trọng, tuyển dụng đội ngũ các nhà
quản trị cho doanh nghiệp… Đặc điểm HĐQT thường được xem xét trên các khía
cạnh, đó là quy mô giữa HĐQT, sự tách bạch giữa chủ tịch HĐQT và giám đốc
điều hành, sự độc lập của HĐQT.
Thứ nhất, sự tách bạch giữa người sở hữu vốn và người sử dụng vốn. HĐQT
do các cổ đông bầu ra, thay mặt các cổ đông thực hiện giám sát hoạt động của
những người quản lý điều hành, ngăn ngừa mâu thuẫn và xung đột lợi ích giữa các
cổ đông và ban lãnh đạo ngân hàng, nhằm bảo vệ quyền lợi, đồng vốn của các cổ
đông.

Thứ hai, trên cương vị chính thức, HĐQT tách biệt với BĐH. HĐQT không
can thiệp vào hoạt động hàng ngày mà chỉ tư vấn và giám sát hoạt động của BĐH,
dựa trên các chiến lược kinh doanh đã được HĐQT đề ra và được ĐHĐCĐ thông
qua. Sự phân bổ quyền lực HĐQT và BĐH, về pháp lý giữa họ chính thức chia toàn
bộ những quyết định của ngân hàng mà không đòi hỏi sự chấp thuận của cổ đông ra
thành những quyết định đòi hỏi sự phê chuẩn của HĐQT và những quyết định
thuộc thẩm quyền của BĐH.


16

Thứ ba, HĐQT được phân biệt chính thức với các cổ đông của ngân hàng. Sự
tách biệt này giúp tiết kiệm chi phí của việc ra quyết định để quản lý các hoạt động
của ngân hàng. Ngoài ra, khi HĐQT được thành lập một cách tách biệt thì nó còn
có thể giúp kiểm tra về những hành vi cơ hội chủ nghĩa của các cổ đông nắm quyền
kiểm soát – hoặc là đối với các cổ đông khác, hoặc là đối với các đối tác khác liên
quan đến công ty như người gửi tiền hay người lao động. Cũng như thế, HĐQT có
thể mang đến cho cổ đông nhỏ hay các thành phần khác như người lao động vả
người gửi tiền một cơ hội tiếp cận thông tin đáng tin cậy hay tham gia trực tiếp vào
việc ra quyết định của ngân hàng. Đồng thời, thông qua việc giao phó cho các cá
nhân được bổ nhiệm một vai trò cụ thể là người ra quyết định đại diện cho ngân
hàng. Điều này giúp đẩy mạnh khả năng HĐQT sẽ hành động chủ yếu vì lợi ích của
tất cả các thành phần có liên quan trong ngân hàng thông qua các nguyên tắc và áp
lực xã hội.
Thứ tư, HĐQT là cơ quan làm việc theo chế độ tập thể. Mặc dù, các thành
viên HĐQT có nhiệm vụ riêng và phải chịu trách nhiệm cá nhân về những công
việc đó nhưng vai trò của HĐQT lại thuộc về thẩm quyền của tập thể. Có nghĩa là
các thành viên HĐQT không được trực tiếp chỉ đạo cán bộ quản lý làm bất kỳ điều
gì với tư cách là cá nhân. Không một thành viên HĐQT nào có thể thay mặt công ty
để cung cấp một sự đảm bảo hoặc cam kết điều gì. Vì thế, sẽ không có thẩm quyền

riêng của từng cá nhân trừ khi cá nhân này được HĐQT uỷ quyền thực hiện một số
nhiệm vụ nhất định thuộc quyền hạn của HĐQT và cũng trừ trường hợp một số
quyền riêng của Chủ tịch HĐQT.
Thứ năm, HĐQT thường có nhiều thành viên và là một cơ cấu đa dạng. Cơ
cấu này – trái với cơ cấu tập trung quyền lực trong một người được uỷ thác, như
trong nhiều công ty tín thác tư nhân – tạo thuận lợi cho việc giám sát lẫn nhau và
kiểm tra việc ra quyết định theo phong cách riêng. Mức độ đáp ứng hữu ích của cơ
cấu hội đồng lại phụ thuộc vào cơ cấu sở hữu của ngân hàng. Ví dụ, khi sự sở hữu
ngân hàng chỉ tập trung vào tay một hay một vài cổ đông, hội đồng sẽ có vai trò
quan trọng để bảo vệ quyền lợi của những cổ đông không nắm quyền kiểm soát


17

thoát khỏi sự áp đặt hoặc gây phương hại từ cổ đông nắm quyền kiểm soát; hơn là
để bảo vệ các cổ đông thoát khỏi sự lạm quyền của TGĐ.
Đa dạng là một nhân tố quan trọng trong việc xây dựng một HĐQT. Tất cả
các thành viên phải là các cá nhân đủ điều kiện nhưng sự đa dạng của các kinh
nghiệm, giới tính, chủng tộc và tuổi. Tuy nhiên, sự đa dạng không được hiểu theo
nghĩa là thành viên đại diện cho quyền lợi riêng. Thay vào đó, các thành viên nên
đại diện cho quyền lợi của tất cả các cổ đông.
1.2.3. Cơ cấu của Hội đồng quản trị
Theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng 2010, cơ cấu tổ chức quản lý của
tổ chức tín dụng dưới hình thức công ty cổ phần bao gồm Đại hội đồng cổ đông,
Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc).10
1.2.3.1

Số lượng của thành viên Hội đồng quản trị

Số lượng thành viên HĐQT của NHTMCP phải nằm trong giới hạn được quy

định trong LCTCTD 2010. Theo đó, HĐQT của NHTMCP phải có tối thiểu 5 và
tối đa là 11 thành viên, trong đó có ít nhất một TVĐL, HĐQT phải có ít nhất một
phần hai tổng số là TVĐL và thành viên không phải là người điều hành tổ chức tín
dụng.11 Tuy nhiên, số lượng cụ thể sẽ do ĐHĐCĐ quyết định và ghi vào điều lệ
NHTMCP.
Về cơ bản, pháp luật các quốc gia quy định số lượng thành viên HĐQT nhắm
tới một quy mô sao cho ngân hàng có thể tổ chức các cuộc thảo luận có hiệu quả và
có tính chất xây dựng. Đồng thời, HĐQT phải luôn đưa ra quyết định kịp thời, hợp
lý cũng như tổ chức một cách hiệu quả công việc của các Uỷ ban trực thuộc HĐQT,
nếu những Uỷ ban này được thành lập.
Số lượng thành viên HĐQT cần được quyết định dựa trên yêu cầu của pháp
luật, cũng như nhu cầu cụ thể của ngân hàng và cổ đông. Việc có quá ít hay quá
nhiều thành viên HĐQT đều có thể làm giảm hiệu quả của quá trình ra quyết định.
10
11

Khoản 1 Điều 32 LCTCTD 2010
Khoản 1, Điều 62, LCTCTD 2010


18

Một HĐQT có quy mô quá nhỏ có thể khiến ngân hàng không được hưởng lợi ích
từ các kỹ năng đa dạng và kinh nghiệm phù hợp do các thành viên đem lại. Trong
khi đó, một HĐQT có quy mô quá lớn sẽ gây khó khăn cho việc quản lý và khiến
cho việc tìm kiếm sự đồng thuận trở thành một công việc khó khăn và mất nhiều
thời gian. Thách thức trong việc lựa chọn một HĐQT có quy mô phù hợp nằm ở
chổ phải tạo được sự cân bằng phù hợp.
1.2.3.2


Điều kiện trở thành thành viên Hội đồng quản trị

Theo LCTCTD 2010, một thành viên HĐQT phải đáp ứng những yêu cầu sau
đây:12
-

Có đạo đức nghề nghiệp

-

Là cá nhân sở hữu hoặc người được ủy quyền đại diện sở hữu ít nhất 5% vốn
điều lệ của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp là TVĐL của HĐQT hoặc có
bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật
hoặc có ít nhất 03 năm là người quản lý của tổ chức tín dụng hoặc doanh
nghiệp hoạt động trong ngành bảo hiểm, chứng khoán, kế toán, kiểm toán
hoặc có ít nhất 05 năm làm việc trực tiếp tại các bộ phận nghiệp vụ trong lĩnh
vực ngân hàng, tài chính, kiểm toán hoặc kế toán.

-

Không thuộc các đối tượng sau :13


Người thuộc đối tượng không được tham gia quản lý, điều hành theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật về phòng, chống
tham nhũng.



Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để

thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị
mình.



Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, viên chức.

12
13

Khoản 1 Điều 50 LCTCTD 2010
Điểm b Khoản 1 Điều 33 LCTCTD 2010


×